Một số phát hiện mới về di tích khảo cổ trong các thành tạo và di sản địa chất dọc thung lũng cổ sông Ba
Mùa khô năm 2019, đoàn khảo sát thực địa của đề tài TN17/T06 đã phát hiện hàng loạt di
sản kép, chứa đồng thời cả hai giá trị di sản địa chất và khảo cổ tiền sử, dọc thung lũng cổ sông Ba.
Các di tích khảo cổ được tìm thấy ngay tại các điểm di sản địa chất như các thác nước, các điểm hóa
thạch, các thềm sông cổ và trên các sườn núi thấp dọc thung lũng cổ sông Ba, thuộc các thành tạo
eluvi, deluvi, proluvi và aluvi tuổi Pleistocen. Hàng trăm công cụ đá, trong đó có hàng chục công
cụ chế tác từ gỗ hóa thạch đã được sưu tầm, bao gồm: công cụ ghè một mặt và ghè hai mặt, công cụ
chặt thô rìa dọc, côn cụ chặt thô rìa ngang, công cụ nạo, công cụ mũi nhọn, công cụ mảnh tước và
công cụ hạch, v.v. Chất liệu các công cụ làm từ thạch anh, quartzit, đá silic, opal-chalcedon, đá sừng,
gỗ hóa thạch và đá basalt, cũng chính là những loại đá đã được xác lập là di sản địa chất (kiểu ACổ sinh, kiểu D- Đá, kiểu F- Khoáng vật, khoáng sản theo phân loại di sản địa chất quy định trong
Thông tư số 50/2017/TT BTNMT của Bộ TNMT) có giá trị của khu vực di sản. Đặc trưng kỹ nghệ
và kiểu dáng của các công cụ đá sưu tầm được tiêu biểu cho thời đại Đá cũ. Những phát hiện khảo
cổ mới này đã được các chuyên gia khảo cổ trong nước và quốc tế đánh giá rất cao, vì đã bổ sung
nguồn tư liệu khảo cổ rất có giá trị để nghiên cứu giai đoạn tiền sử Đá cũ ở tỉnh Gia Lai, Tây Nguyên
nói riêng và ở Việt Nam, Đông Nam Á nói chung, đồng thời nâng cao giá trị tổng thể về di sản của
khu vực và cung cấp nguồn tài nguyên di sản kép (di sản thiên nhiên và di sản văn hóa) quý giá cho
khai thác du lịch và phát triển bền vững kinh tế xã hội.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số phát hiện mới về di tích khảo cổ trong các thành tạo và di sản địa chất dọc thung lũng cổ sông Ba
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 55-69 55 Original Article New Archaeological Discoveries in The Geological Formations and Heritages along the Ba River Ancient Valley La The Phuc1, Luong Thi Tuat1 , Bui Van Thom2, Nguyen Khac Su3, Vu Tien Duc4, Bui Quang Anh1, Nguyen Trung Minh1, Dang Thi Hai Yen1 1Vietnam National Museum of Nature, Vietnam Academy of Science and Technology (VAST), 18 Hoang Quoc Viet, Ha Noi, Vietnam 2Institute of Geological Sciences, VAST, 84 Chua Lang, Dong Da, Hanoi, Vietnam 3Vietnam Archaeological Association, VASS, 61 Phan Chu Trinh, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam 4Institute of Social Sciences of Central Highlands, VASS, 1A Nguyen Van Linh, Buon Ma Thuot, Dak Lak, Vietnam Received 28 April 2020 Revised 08 September 2020; Accepted 14 September 2020 Abstract: In dry season of 2019, a series of new mix-heritages containing both of natural/geological and prehistoric archaeological values were discovered along the Ba river ancient valley by the field survey team of the project TN17/T06. The archaeological relics were uncovered right in the geological heritage sites such as: waterfalls, fossil sites, ancient terraces, and low mountain slopes along the Ba river ancient valley, which belong to eluvial, deluvial, proluvial and alluvial formations of Pleistocene age. Hundreds of stone tools, including dozens of petrified wood tools were collected, such as: uni-facial and bi-facial tools, end-chooper, side-chopper, scraper, spearhead tool, flake and core tools, etc. The materials of the tools were made of quartz, quartzite, siliceous stone, opal- chalcedony, petrified wood and basalt, which were recognized as geological heritages (A type: Paleontology; D type: Rock; F type: Minerals, according to the classification in the Circular 50/2017-TT-BTNMT of MONRE) of the heritage region. The collected artifacts characterise technique and geometric shape types of Paleolithic age. The archaeological discoveried sites were highly evaluated by Vietnamese and foreign archaeologists because they play a great important role in studying Paleolithic stage in Gia Lai province and The Central Highlands particularly, and in Vietnam and Southeast Asia generally. Besides, they have increased comprihensive heritage values of the region, as well as provided double invaluable resources (both natural and cultural heritage) for tourism exploitation and socio-economic sustainable development. Keywords: heritage; archaeological site, stone tool, Ba river. ________ Corresponding author. E-mail address: t_luongthi@yahoo.com.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4621 L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 55-69 56 Một số phát hiện mới về di tích khảo cổ trong các thành tạo và di sản địa chất dọc thung lũng cổ sông Ba La Thế Phúc1, Lương Thị Tuất1 , Bùi Văn Thơm2, Nguyễn Khắc Sử3, Vũ Tiến Đức4, Bùi Quang Anh1, Nguyễn Trung Minh1, Đặng Thị Hải Yến1 1Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST), 18 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội, Việt Nam 2Viện Địa chất, VAST, 84 Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 3Hội Khảo cổ học, VASS, 61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam 4Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, 1A Nguyễn Văn Linh, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk, Việt Nam Nhận ngày 28 tháng 4 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 08 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 14 tháng 9 năm 2020 Tóm tắt: Mùa khô năm 2019, đoàn khảo sát thực địa của đề tài TN17/T06 đã phát hiện hàng loạt di sản kép, chứa đồng thời cả hai giá trị di sản địa chất và khảo cổ tiền sử, dọc thung lũng cổ sông Ba. Các di tích khảo cổ được tìm thấy ngay tại các điểm di sản địa chất như các thác nước, các điểm hóa thạch, các thềm sông cổ và trên các sườn núi thấp dọc thung lũng cổ sông Ba, thuộc các thành tạo eluvi, deluvi, proluvi và aluvi tuổi Pleistocen. Hàng trăm công cụ đá, trong đó có hàng chục công cụ chế tác từ gỗ hóa thạch đã được sưu tầm, bao gồm: công cụ ghè một mặt và ghè hai mặt, công cụ chặt thô rìa dọc, côn cụ chặt thô rìa ngang, công cụ nạo, công cụ mũi nhọn, công cụ mảnh tước và công cụ hạch, v.v. Chất liệu các công cụ làm từ thạch anh, quartzit, đá silic, opal-chalcedon, đá sừng, gỗ hóa thạch và đá basalt, cũng chính là những loại đá đã được xác lập là di sản địa chất (kiểu A- Cổ sinh, kiểu D- Đá, kiểu F- Khoáng vật, khoáng sản theo phân loại di sản địa chất quy định trong Thông tư số 50/2017/TT BTNMT của Bộ TNMT) có giá trị của khu vực di sản. Đặc trưng kỹ nghệ và kiểu dáng của các công cụ đá sưu tầm được tiêu biểu cho thời đại Đá cũ. Những phát hiện khảo cổ mới này đã được các chuyên gia khảo cổ trong nước và quốc tế đánh giá rất cao, vì đã bổ sung nguồn tư liệu khảo cổ rất có giá trị để nghiên cứu giai đoạn tiền sử Đá cũ ở tỉnh Gia Lai, Tây Nguyên nói riêng và ở Việt Nam, Đông Nam Á nói chung, đồng thời nâng cao giá trị tổng thể về di sản của khu vực và cung cấp nguồn tài nguyên di sản kép (di sản thiên nhiên và di sản văn hóa) quý giá cho khai thác du lịch và phát triển bền vững kinh tế xã hội. Từ khóa: di sản, di tích khảo cổ, công cụ đá, sông Ba. 1. Mở đầu Đới đứt gãy Sông Ba có vị trí đặc biệt trong cấu trúc địa chất khu vực Nam Trung Bộ [1,2]. Đây là một đới đứt gãy lớn dạng địa hào, còn ẩn chứa nhiều thông tin quan trọng về lịch sử phát ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: t_luongthi@yahoo.com.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4621 triển địa chất cũng như lịch sử phát triển của tự nhiên và con người trong khu vực. Sông Ba phát triển dọc theo đới đứt gãy này, có lưu vực thuộc các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, một phần nhỏ phía đông bắc của tỉnh Đắk Lắk và một phần nhỏ phía nam của tỉnh Phú Yên (Hình 1). Khu vực thung L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 55-69 57 lũng sông ... luvi, proluvi, aluvi cho thung lũng Krông Pa mà đã được người tiền sử khai thác để chế tác công cụ. - Nhóm thành tạo trầm tích bở rời Đệ tứ có trầm tích Pleistocen sớm phần muộn (aQ11.3: 1,80 - 0,78 triệu năm BP) lộ khá phổ biến dọc theo rìa địa hình sườn đồi núi hai bên thung lũng Krông Pa, phủ trực tiếp lên các thành tạo trầm tích hệ tầng Sông Ba (N13sb). Thành phần trầm tích bao gồm cuội sạn sỏi đa khoáng ở phần trên; cát sạn - bột sét ở phần dưới. Cuội sỏi có độ mài tròn tốt - trung bình, đã phát hiện được nhiều công cụ đá, mảnh tước, hạch đá... của người tiền sử tương tự như Phú Thiện. Ngoài ra, ở đây còn có các thành tạo trầm tích tuổi Pleistocen giữa-muộn (Q12-3) và Holocen sớm-giữa (Q21-2) nguồn gốc sông (aluvi), phân bố dọc theo hai bờ sông suối của thung lũng Krông Pa (Hình 4). Các thành tạo trầm tích Đệ tứ không phân chia (Q), nguồn gốc eluvi - deluvi - proluvi phân bố dọc theo các khe suối và sườn dốc của các núi đá gốc ven thung lũng. Đây cũng là đối tượng cần tìm kiếm trong quá trình điều tra chi tiết, đánh giá tiềm năng di tích Đá cũ ở khu vực này. * Sơ lược đặc điểm di tích Do hạn chế về thời gian và kinh phí, nên công tác khảo sát của đoàn cán bộ khoa học thuộc đề tài TN17/T06 chỉ tiến hành dọc theo đường Trường Sơn Đông, thuộc dải Tây Nam của thung lũng Krông Pa. Tại khu vực này, đoàn khảo sát đã phát hiện được 3 điểm có di vật đồ đá của người tiền sử, trong đó 2 điểm phân bố trên bề mặt các gò đồi là thềm cổ bậc 1 (ký hiệu KP1 và KP3) và 1 điểm trên vách của thềm cổ bậc 2 (ký hiệu KP2). - Di tích KP1 trên thềm cổ bậc 1 (DSĐC phụ kiểu B1) của sông Ba (Hình 4, 10a), có tọa độ 13011’ 54,4’’ vĩ độ Bắc - 1080 41’ 45.4’’ kinh độ Đông, độ cao tương đối 3 - 5m ứng với thềm bậc 1; thuộc xã Ia HD’Reh, huyện Krông Pa (Hình 10a). Thềm có độ cao tương đối 3 - 5m, còn nguyên trạng. Cảnh quan địa mạo và trầm tích trên lớp mặt của thềm sông cổ chứa di vật ở đây là cuội sạn đa khoáng giống cụm di tích khu vực thung lũng Phú Thiện. Các di vật công cụ đá tiền sử dễ dàng được tìm thấy ở đây, bao gồm: công cụ đá (Hình 10b), mảnh tước ban đầu (Hình 10c), đá có vết chế tác (Hình 10d) có chất liệu là đá quartzit; các đá nguyên liệu gồm thạch anh, đá silic, quartzit, ... Di tích này rất cần được điều tra nghiên cứu chi tiết để tiến hành khai quật, xây dựng bảo tàng bảo tồn tại chỗ phục vụ khai thác du lịch. - Di tích KP2 trên thềm cổ bậc 2 (DSĐC phụ kiểu B1) của sông Ba (Hình 4, 9, 11a) có tọa độ 130 09' 54.5” vĩ độ Bắc và 1080 40' 22.1" kinh độ Đông, độ cao tương đối 5 - 10m, thuộc buôn BLái, xã Ia R’Mok, huyện Krông Pa. Di tích nằm trên một gò đồi thoải là thềm sông cổ bậc 2 của sông Ba trước kia. Sườn đồi về phía Đông Bắc, cách đường Trường Sơn Đông khoảng 50 - 70m đã bị xẻ để lấy đất san nền, làm đường, tạo ra vách taluy dốc đứng. Mặt cắt tại taluy này lộ ra tập trầm tích dày 4 - 5m, chia làm 2 phần rõ ràng: phần trên là cuội sạn đa khoáng, dày 2 - 3m; phần dưới là cát - bột - sét màu xám sáng, có dấu hiệu laterit hóa nhẹ ở phần trên (nơi tiếp giáp với phần cuội sạn) (Hình 11a). Các di vật đá dễ dàng được tìm thấy ở phần đổ lở của lớp cuội sạn dưới chân taluy, bao gồm: công cụ chặt thô (Hình 11b), công cụ mảnh tước (Hình 11c), mảnh tước, hòn ghè (Hình 11d) và hàng chục hạch đá (Hình 40), đá có vết ghè/chế tác; chất liệu hiện vật chủ yếu là thạch anh, quartzit, đá silic. Đặc trưng nhất của di vật phát hiện được tại điểm này là chúng có lớp patin rất dày (Hình 11b, 11c, 11e), nhiều khi không thể phân biệt được lớp patin của vết ghè với lớp patin của vỏ cuội. Đây là điểm rất đặc biệt và rất khác biệt so với di vật của các di tích khác ở Việt Nam, cần điều tra nghiên cứu chi tiết để xác định tiềm năng di tích và cơ chế thành tạo lớp patin dày của các di vật ở đây. L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 55-69 67 - Di tích KP3 trên thềm cổ bậc 1 (DSĐC phụ kiểu B1) của sông Ba (Hình 4, 12a) có tọa độ 130 06' 51.2" vĩ độ Bắc; 1080 42' 6.9" kinh độ Đông, thuộc Buôn Nai xã Ia HD’Reh, huyện Krông Pa. Di tích được phát hiện trên sườn gò đồi thấp thuộc thềm cổ bậc 1 của sông Ba trước kia. Thềm có độ cao tương đối 3-5m, giống với điểm KP1, còn nguyên trạng. Cảnh quan địa mạo và trầm tích trên lớp mặt chứa di vật ở đây là cuội sạn đa khoáng giống ở khu vực thung lũng Phú Thiện. Các di vật dễ dàng được tìm thấy ở đây gồm: công cụ mũi nhọn tam diện (Hình 12b, 12c), công cụ mũi nhọn (Hình 12d), đá có vết ghè/vết chế tác (Hình 12e), v.v., chất liệu là đá quartzit; đá nguyên liệu gồm thạch anh, đá silic, quartzit, Di tích này cần được điều tra nghiên cứu chi tiết và có thể tiến hành khai quật, bảo tồn bảo tàng tại chỗ để khai thác du lịch và phát triển kinh tế xã hội. Hình 10. Gò đồi là thềm sông cổ bậc 1 chứa di vật (KP1) (a) và các hiện vật khảo cổ trên bề mặt (b, c, d). Hình 11. Vách thềm sông cổ bậc 2 chứa di vật (a) và hiện vật khảo cổ tại thềm sông cổ (b, c, d, e) (Nguồn: La Thế Phúc, 2019). Hình 12. Thềm sông cổ bậc 1 chứa di vật (KP3) (a) và các hiện vật khảo cổ tại thềm sông cổ (Nguồn: La Thế Phúc, 2019). L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 55-69 68 4. Một số nhận xét và kiến nghị 4.1. Một số nhận xét * Đặc điểm phân bố di tích. Các di tích tiền sử phân bố rải rác trên diện rộng thuộc lưu vực sông Ba (Hình 1) trong mối liên quan mật thiết với các thành tạo địa chất và DSĐC của khu vực và được phân chia thành 3 loại: - Loại thứ nhất, phân bố ở khu vực các thác nước/hồ nước tự nhiên (DSĐC phụ kiểu B1) thuộc lưu vực sông Ba (tiêu biểu có Thác 50 và thác Hang Dơi ở huyện K’Bang; thác Phú Cường ở huyện Chư Sê; Biển Hồ ở Pleiku). - Loại thứ hai, phân bố ở các sườn núi ở rìa thung lũng có độ cao tương đối <100m, liên quan tới các thành tạo cuội sạn có nguồn gốc eluvi, deluvi, proluvi; tuổi Đệ tứ không phân chia (tiêu biểu có các sườn núi Chư A Thai, Đồn 1, Đồn 2: DSĐC phụ kiểu B1). - Loại thứ ba, phân bố phổ biến ở các gò đồi thoải, thuộc các thềm sông cổ bậc 1, bậc 2, bậc 3 (DSĐC phụ kiểu B1) của sông Ba trước kia (tiêu biểu là hàng loạt di tích ở xã Chư A Thai, huyện Phú Thiện; phường Cheo Reo, thị xã A Yun Pa; xã Ia R’Mok và Ia HD’Reh, huyện Krông Pa; xã Pờ Tó huyện Ia Pa; Gò Đá và Rộc Tưng ở An Khê). * Đặc điểm hiện vật. Các hiện vật thu thập được bao gồm: công cụ chặt là rìu tay (handaxes), công cụ ghè một mặt (uni-face), công cụ ghè hai mặt (bi-face), công cụ chặt thô rìa dọc (end-chopper), công cụ chặt thô rìa ngang (side-chopper), công cụ hạch, mảnh tước, công cụ mảnh tước, hạch đá, hòn ghè, đá có vết ghè v.v. Chất liệu công cụ chủ yếu là các loại cuội thạch anh, đá silic, quartzit, đá sừng, opal- chalcedon, gỗ hóa thạch (silic hóa) và một ít basalt, tất cả đều là nguồn nguyên liệu tại chỗ, là các di sản Đá (DSĐC kiểu D) của khu vực. Ghè đẽo là thủ pháp kỹ thuật được sử dụng để chế tác công cụ: vết ghè trực tiếp, thô sơ, tạo các rìa lưỡi sắc thẳng hoặc zig-zăc, mũi nhọn hoặc mũi nhọn tam diện. Phần lớn công cụ có trọng lượng lớn hơn nhiều so với các công cụ Đá mới, trên công cụ còn bảo lưu một phần vỏ cuội tự nhiên ở phần đốc/tay cầm. Điều này phản ánh trình độ chế tác và nhu cầu sử dụng còn rất sơ khai và đơn giản. * Tính chất di tích. Hầu hết tại mỗi di tích đều tìm thấy các công cụ đá, mảnh tước, hạch đá có chất liệu giống với thành phần đá, cuội lộ ra tại di tích/di sản (nguyên liệu tại chỗ). Sự hiện diện của các công cụ cùng với các mảnh tước, hạch đá, hòn ghè, phác vật, đá nguyên liệu v.v. phản ánh loại hình di tích cư trú và di chỉ xưởng. * Niên đại của di tích: trên cơ sở so sánh kích thước, loại hình học, kỹ thuật chế tác công cụ và sự thiếu vắng kỹ thuật mài... di tích được xác định thuộc thời kỳ Đá cũ. * Giá trị các di sản mới phát hiện: Các di tích Đá cũ vừa được phát hiện có giá trị rất lớn cả về khoa học và thực tiễn: - Thứ nhất: khẳng định sự xác thực về tính liên tục của dòng chảy lịch sử phát triển từ thời đại Đá cũ đến nay. - Thứ hai: tăng thêm giá trị cho các DSĐC, di sản thiên nhiên. Các cảnh quan tự nhiên như: thác nước, hồ nước tự nhiên, miệng núi lửa (DSĐC phụ kiểu B1), các khu bảo tồn khu vực sông Ba vốn đã rất đẹp, lại có thêm di tích cư trú của người tiền sử được bảo tồn và phục dựng tại chỗ sẽ là điểm nhấn đặc biệt thu hút du lịch. Các di sản đá (DSĐC kiểu D) của khu vực được bổ sung giá trị di sản văn hóa/khảo cổ khi chúng chính là nguồn nguyên liệu đã từng được người tiền sử dùng để chế tác công cụ. - Thứ ba: cung cấp tài nguyên vô giá cho cho các hoạt động khai thác các giá trị đa dạng của di sản, phát triển bền vững kinh tế xã hội. * Hiện trạng bảo tồn di tích: Rất đáng tiếc là hiện nay các di tích khảo cổ cùng với các DSĐC kiểu B1 chứa chúng dọc thung lũng sông Ba đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại và phá hủy một cách vô tình do các hoạt động nhân sinh: san ủi lấy đất làm đường hoặc tạo mặt bằng để canh tác nông nghiệp. Các di vật khảo cổ quý giá chưa được bảo vệ, bảo tồn nên đã và đang bị thu gom để bán v.v. Vì vậy, ngay sau khi phát hiện được di tích, tác giả đã lập tức báo cáo với các cấp chính quyền địa phương và đã đề nghị các cấp có thẩm quyền và các cơ quan chức năng cần hành động kịp thời, đưa ra các giải pháp hữu hiệu để bảo tồn khẩn cấp các di sản hỗn hợp rất có giá trị này. L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 55-69 69 4.2. Một vài kiến nghị - Cần bảo vệ bảo tồn khẩn cấp các khu vực phân bố các di sản hỗn hợp, các di tích khảo cổ đã được phát hiện nêu trên. Cụ thể: cần giữ nguyên hiện trạng tự nhiên của các thác nước, hồ nước, các diện phân bố cuội sạn sỏi đa khoáng ở sườn và thềm thung lũng cổ sông Ba, nhằm triển khai các công tác nghiên cứu bảo tồn bảo tàng tiếp theo. - Cần khẩn trương điều tra nghiên cứu theo diện rộng và chuyên sâu toàn bộ khu vực thung lũng cổ sông Ba nhằm: 1) Khoanh định đầy đủ các diện phân bố di tích/di sản; 2) Đánh giá tiềm năng di tích/di sản; 3) Lựa chọn các vị trí khai quật theo hướng bảo tồn bảo tàng tại chỗ, khai thác du lịch, phát triển bền vững kinh tế xã hội. - Cần sớm triển khai các phương pháp nghiên cứu chuyên sâu nhằm xác lập văn hóa khảo cổ “Văn hóa Sông Ba” thời đại Sơ kỳ Đá cũ mà xuất phát điểm là hệ thống các di tích Đá cũ đã được đề tài TN17/T06 phát hiện. - Cần tăng cường hợp tác liên ngành, kêu gọi đầu tư nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm sớm làm rõ tiềm năng và khai thác tiềm năng di sản đới sông Ba cho sự phát triển bền vững. - Cần sớm công nhận các điểm di tích khảo cổ mới được phát hiện trong mối liên quan/gắn bó chặt chẽ với các DSTN, DSĐC dưới dạng các di sản hỗn hợp để bảo tồn khẩn cấp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng trong công cuộc bảo tồn di tích/di sản nói chung và di tích/di sản ở khu vực thung lũng sông Ba nói riêng. Bài viết là kết quả khảo sát thực địa của đề tài KHCN cấp Nhà nước mã số TN17/T06 và đề tài cấp cơ sở "Điều tra tìm kiếm di chỉ khảo cổ khu vực Chư A Thai, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai". Tài liệu tham khảo [1] Tran Van Tri (Chief Editor), Vu Khuc (Co-chief Editor). Geology and natural resources of Vietnam. Publishing House of Natural Science and Technology, Vietnam, 2009, 589p (in Vietnamese). [2] Tran Tinh. Geology and Mineral Map of An Khe, scale 1:200.000. Center for Information and Archives of Geology, General Department of Geology and Minerals of Vietnam, Hanoi, 1996 (in Vietnamese). [3] Ta Hoa Phuong, Truong Quang Hai, Dang Van Bao. Some natural heritages of outstanding values for tourism development in Central Highland. Vietnam Journal of Earth Sciences 37 (2) (2015) 182-192, (in Vietnamese). [4] Truong Quang Hai (Chief Editor). Tourism in The Central Highlands: Scientific basis and development solutions. Hanoi National University Publishing House, 2018, 782p. (in Vietnamese). [5] La The Phuc, Nguyen Khac Su, Luong Thi Tuat, Vu Tien Duc, Bui Van Thom, Nguyen trung Minh. Some new heritage discoveries in The Central Highlands, Vietnam. VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences 36(1) (2020) 79-92. https://doi.org/10.25073/2588- 1094/vnuees.4565 (in Vietnamese). [6] Nguyen Khac Su. Gia Lai prehistory. Department of Culture and Information of Gia Lai province, Pleiku, 1995, 220p., (in Vietnamese). [7] Nguyen Khac Su (Chief Editor). Prehistoric archaeology in Central Vietnam. Social Sciences Publishing House, Hanoi, 2016, 782p. (in Vietnamese). [8] Nguyen Thi Kim Van (Chief Editor). Gia Lai- From the origin to 1975. Social Sciences Publishing House, Hanoi, 2019, 792p. (in Vietnamese). [9] Nguyen Gia Doi, Nguyen Khac Su. System of the Paleolithic Locations in the Upper Ba River. Vietnam Social Sciences 4 (168) (2015) (in Vietnamese). [10] Nguyen Khac Su. An Khe Early Paleolithic techniques and Vietnam primitive history. Archaeology Journal, Hanoi 2 (2017) 3-18 (in Vietnamese). [11] A.P. Derevianko, A.V. Kandyba, Nguyen Khac Su, S.A. Gladyshev, Nguyen Gia Doi, V.A. Lebedev, A.M. Chekha, A.G. Rybalko, V.M. Kharevic, A.A.Tsybankov. The discovery of a Bifacial Industry in Vietnam, in Archaeology, Ethnology &Anthropology of Eurasia 3 (46) (2018) 3-21. [12] La The Phuc, Nguyen Khac Su, Vu Tien Duc, Luong Thi Tuat, Phan Thanh Toan, Nguyen Thanh Tung, Nguyen Trung Minh. New discovery of prehistoric archaeological remnants in volcanic caves in Krongno, Dak Nong Province, Vietnam Journal of Earth Sciences, Vietnam Academy of Science and Technology, Hanoi 39 (2) (2017) 97-108. https://doi.org/10. 15625/0866-7187/39/2/9186.
File đính kèm:
- mot_so_phat_hien_moi_ve_di_tich_khao_co_trong_cac_thanh_tao.pdf