Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An

Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, trên

vùng đất xứ Nghệ, Khảo cổ học đã phát hiện những

dấu tích văn hoá của con người thời đại đá mới

(thời đại của những con người biết mài đá, trồng

trọt và chăn nuôi), tiêu biểu là văn hoá Quỳnh Văn,

văn hoá Thạch Lạc. Đến nay đã có 21 địa điểm

phát hiện thuộc văn hóa Quỳnh Văn, phân bố ở

đồng bằng ven biển Nghệ An và Hà Tĩnh, chủ yếu

tập trung tại các huyện: Quỳnh Lưu, Diễn Châu và

Nghi Lộc tỉnh Nghệ An; Nghi Xuân và Thạch Hà

tỉnh Hà Tĩnh [3, 4, 8, 15-17].

Năm 1963, di tích Cồn Thống Lĩnh - một cồn

sò, điệp rộng gần 1000m2 thuộc xã Quỳnh Văn,

huyện Quỳnh Lưu đã được các nhà khảo cổ khai

quật và nghiên cứu. Cùng với Quỳnh Văn nhiều

cồn sò, điệp khác trên đất Quỳnh Lưu, Diễn Châu,

Nghi Lộc cũng đã được phát hiện và nghiên cứu

như di tích: Quỳnh Sơn, Quỳnh Hoa, Quỳnh Hậu,

Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Tùng. Đặc trưng nổi bật nhất

là tầng văn hoá Quỳnh Văn được cấu tạo từ các lớp

điệp (Placura Placenta) xen lẫn các loài sò gai

Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An trang 1

Trang 1

Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An trang 2

Trang 2

Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An trang 3

Trang 3

Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An trang 4

Trang 4

Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An trang 5

Trang 5

Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An trang 6

Trang 6

Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An trang 7

Trang 7

Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An trang 8

Trang 8

Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An trang 9

Trang 9

Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang viethung 3000
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An

Một số kết quả nghiên cứu phân bố sò, điệp khu vực Nghệ An
 97
33(2)[CĐ], 97-108 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 6-2011 
MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU PHÂN BỐ 
SÒ, ĐIỆP KHU VỰC NGHỆ AN 
CAO ĐÌNH TRIỀU1, NGUYỄN BÁ DUẨN1, ĐẶNG THANH HẢI1, 
NGÔ GIA THẮNG1, BÙI ANH NAM1, NGUYỄN ĐÌNH NGUYÊN2 
E-mail: vag-sec@fpt.vn 
1Viện Vật lý Địa cầu - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
2 Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQG Hà Nội 
Ngày nhận bài: 31-3-2011 
1. Mở đầu 
Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, trên 
vùng đất xứ Nghệ, Khảo cổ học đã phát hiện những 
dấu tích văn hoá của con người thời đại đá mới 
(thời đại của những con người biết mài đá, trồng 
trọt và chăn nuôi), tiêu biểu là văn hoá Quỳnh Văn, 
văn hoá Thạch Lạc. Đến nay đã có 21 địa điểm 
phát hiện thuộc văn hóa Quỳnh Văn, phân bố ở 
đồng bằng ven biển Nghệ An và Hà Tĩnh, chủ yếu 
tập trung tại các huyện: Quỳnh Lưu, Diễn Châu và 
Nghi Lộc tỉnh Nghệ An; Nghi Xuân và Thạch Hà 
tỉnh Hà Tĩnh [3, 4, 8, 15-17]. 
Năm 1963, di tích Cồn Thống Lĩnh - một cồn 
sò, điệp rộng gần 1000m2 thuộc xã Quỳnh Văn, 
huyện Quỳnh Lưu đã được các nhà khảo cổ khai 
quật và nghiên cứu. Cùng với Quỳnh Văn nhiều 
cồn sò, điệp khác trên đất Quỳnh Lưu, Diễn Châu, 
Nghi Lộc cũng đã được phát hiện và nghiên cứu 
như di tích: Quỳnh Sơn, Quỳnh Hoa, Quỳnh Hậu, 
Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Tùng. Đặc trưng nổi bật nhất 
là tầng văn hoá Quỳnh Văn được cấu tạo từ các lớp 
điệp (Placura Placenta) xen lẫn các loài sò gai. 
 (Arca Granosa), sò nhẵn (Arca sabence Lin), 
vỏ hàu (Ostrea Cuculata Boru). Các cồn sò, điệp 
này thường cao khoảng 3-5m so với mặt ruộng, 
song cũng có cồn cao tới khoảng 10m. Chúng 
thường áp vào chân núi, song cũng có những cồn 
đứng đơn độc giữa cánh đồng [3-5]. 
Cao Xá Long Cương (gò rồng Cao Xá), bãi sò 
thuộc địa phận hai làng Hương Cái và Tiên Lý (xã
Diễn Thịnh, huyện Diễn Châu), kéo dài 7-8km dọc 
theo quốc lộ 1A, vỏ sò, điệp chôn thành cồn bãi 
cao, sâu đến 4-5 thước. 
Ở Hà Tĩnh, sách Đại Nam Nhất Thống chí [4] 
viết: “ở xã Vĩnh Lưu, huyện Thạch Hà, gần chân 
núi Bảo Đài có một gò điệp cao đến hai trượng, 
chu vi hơn mười trượng”. Sách “Nghệ An ký” của 
Bùi Dương Lịch chép: “Gò Lạc (Lạc Khâu) ở dưới 
núi Vĩnh Lưu, Thạch Hà, phía bắc khe Mậu Cô, vỏ 
sò tích lại thành gò, cao đến mấy trượng, vuông 
đến một dặm” [16]. Ngày nay, ở Hà Tĩnh đã phát 
hiện thêm nhiều di tích cồn sò, điệp khác như 
Thạch Lạc, Phái Nam, Cồn Lôi Mốt (Thạch Hà), 
Bãi Phôi Phối (Nghi Xuân). 
Niên đại của di tích văn hoá Quỳnh Văn được 
xác định theo 14C là vào Hậu kỳ Thời đại đá mới, 
từ 3000 đến 4000 năm [4]. Ở các độ sâu khác nhau 
trong các lớp sò, điệp không những có nhiều công 
cụ đá, mảnh gốm mà còn có nhiều vệt than tro do 
con người tạo nên, song quan sát kỹ có thể thấy 
xen kẽ giữa các lớp sò, điệp chứa công cụ và than 
tro là những lớp sò, điệp xếp hỗn độn với cuội sỏi, 
hai mảnh của con điệp hình như vẫn đang ngậm 
chặt với nhau, có khả năng những lớp điệp này 
được hình thành tự nhiên [4]. 
Một số nhà địa chấn Việt Nam và nước ngoài 
[11, 13, 14] nghi ngờ rằng các cồn sò, điệp tại 
Nghệ An và Hà Tĩnh có nguyên nhân do sóng thần 
tạo nên. Hiện tại diện phân bố sò, điệp tại Nghệ An 
và Hà Tĩnh đã bị thu hẹp rất nhiều do dân địa 
phương khai thác để nung vôi và xây nhà. 
 98 
Nhằm mục đích làm rõ thêm về hiện trạng diện 
phân bố sò, điệp tại Nghệ An, chúng tôi đã tiến 
hành khảo sát địa chất địa mạo và địa vật lý (phương 
pháp Radar xuyên đất) tại một số khu vực thuộc 
huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu và Nghi Lộc. Kinh 
phí thực hiện nhiệm vụ này được tài trợ từ đề tài cấp 
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam “Nghiên 
cứu cổ động đất, cổ sóng thần ven biển Nghệ Tĩnh, 
phục vụ cho dự báo động đất và sóng thần”. 
2. Nghiên cứu bề dày tầng sò, điệp bằng phương 
pháp Georada 
Georada là phương pháp Địa vật lý gần mặt đất 
dùng để khảo sát cấu trúc địa chất hoặc tìm kiếm 
các vật thể chôn vùi (tự nhiên hoặc nhân tạo) dưới 
mặt đất bằng cách sử dụng sóng điện từ tần cao 
trong dải tần 1 đến 1500 MHz [1, 2, 6, 7]. Hiện 
nay, phương pháp GPR đã trở thành một phương 
pháp khảo sát không phá huỷ, được sử dụng trong 
nhiều lĩnh vực, do có các ưu điểm như thiết bị gọn 
nhẹ, tốc độ khảo sát nhanh, kết quả cho hình ảnh 
thực với độ phân giải cao. 
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng 
khối điều khiển CUII loại ăng ten 100 MHz. Đây là 
loại ăng ten đáp ứng được cả về độ phân giải và độ 
sâu nghiên cứu của bài toán đặt ra. Chúng tôi đã 
tiến hành khảo sát ba khu vực: hai khu vực xuất lộ 
điệp tại chợ Quỳnh Văn, xã Quỳnh Văn (4 tuyến) 
và đồi điệp xã Nghi Tiến (2 tuyến); khu vực quanh 
thị trấn Diễn Châu (3 tuyến) với tổng chiều dài 
khảo sát khoảng 3,3 km (hình 1). 
2.1. Khu vực chợ Quỳnh Văn 
Chúng tôi đã triển khai bốn tuyến quanh khu 
vực chợ Quỳnh Văn (hình 1a). Các kết quả minh 
giải được trình bày trên các hình 2 đến 5. Theo kết 
quả phân tích Georada ở đây cho thấy cấu trúc mặt 
cắt đến độ sâu khoảng 12m có ba lớp: lớp đất phủ 
trên mặt có bề dày khoảng 1-1,5m; tiếp đến là lớp 
điệp có bề dày trung bình khoảng 5m, có mặt trên 
khắp tuyến 2 và phần đầu các tuyến 3, 4 và 5; lớp 
điệp này nằm ngay trên lớp cát bên dưới mà chúng 
tôi chưa xác định được bề dày. 
2.2. Khu vực thị trấn Diễn Châu 
Dọc theo các đường liên xã cắt qua Quốc lộ 
1A, có ba tuyến Georada được khảo sát trong khu 
vực này (hình 1b). Các kết quả minh giải được 
trình bày trên các hình 6, 7, 8. Mỗi tuyến có độ dài 
khoảng 900m và độ sâu khảo sát là 12m. Nhìn 
chung, trên mặt cắt của ba tuyến khảo sát có tồn tại 
lớp sò dày 4-6m. Phía trên lớp sò là lớp đá và nhựa 
đường dày khoảng 1m, dưới lớp sò là cát dày. Lớp 
sò chỉ còn thấy xuất hiện tại vị trí các đoạn tuyến 
cắt qua Quốc lộ 1A. 
2.3. Khu vực đồi điệp xã Nghi Tiến 
Tại đồi điệp xã Nghi Tiến, chúng tôi tiến hành 
khảo sát hai tuyến cắt vuông góc nhằm xác định bề 
dày của lớp điệp ở đây (hình 1c). Từ các mặt cắt 
kết quả minh giải (hình 9, 10) chúng ta thấy lớp 
điệp ở đây dày khoảng 5-7m, lớp đất tr ...  ngoài biển bởi dải cồn cát hiện đại 
và bị lấp phủ ngay sau các cồn cát bởi các thành 
tạo sông - lagoon sau cồn kiểu doi cát nối đảo (tuổi 
của các thành tạo này là Holocen muộn (Q23 - 
khoảng 3000 năm lại đây); điều này quan sát rõ 
trên các ảnh VT và DEM, đặc biệt rõ ở vùng ven 
biển đồng bằng Quỳnh Lưu (từ núi Trạp phía bắc 
đến núi Rồng ở phía nam). 
- Các doi cát sát bờ nói trên có độ cao thay đổi 
trong khoảng 2-4m (ven biển đồng bằng Diễn 
Châu) đến 6-7m (ven biển đồng bằng Quỳnh Lưu). 
Tại cồn cát ven biển Quỳnh Lư, dưới chân núi 
Rồng quan sát thấy một cồn sò, ốc lẫn cuội sỏi tựa 
vào doi cát cao 3-4m. Một mẫu sò lấy trong tập doi 
cát cho tuổi 4880-4000 năm (LQ1). Một mẫu khác 
lấy trong tầng sò trong một giếng đào của dân (khu 
vực xã Quỳnh Nghĩa), nơi có gò đất lẫn cuội tảng 
khá lớn cho khoảng tuổi 4120 - 4240 năm (LQ2). 
Nhiều nhà dân ở đây được xây bằng gạch vỏ sò 
gắn kết chắc; kiểu gạch này cũng thấy ở nền đường 
QL1 (4m), khu vực thị trấn Diễn Châu. Mẫu lấy 
trong tầng này có tuổi khoảng 4180 - 4310 năm. 
Một số mẫu lấy trong doi cát nhỏ và cồn sò, điệp 
vùng núi nhô ra biển phía bắc Cửa Lò (khu vực xã 
Nghi Tiến) cho khoảng tuổi từ 4040 đến 4560 năm 
trước [11]. Ở các vùng núi nhô ra biển phát triển 
các tảng lăn và bãi đá (thềm biển - bench), đôi chỗ 
có các tảng rất lớn. 
 105
3.4. Diễn giải các mặt cắt địa chất-địa mạo khu 
vực Diễn Châu - Quỳnh Lưu 
Chúng tôi xây dựng 3 tuyến mặt cắt chính theo 
phương á vỹ tuyến và TTB-NĐN cắt ngang và điển 
hình cho cấu trúc địa chất và địa mạo của khu vực. 
3.4.1. Tuyến mặt cắt AB (hình 12) 
Tuyến AB có toạ độ đầu tại 105.64358803-
19.21085159 và toạ độ cuối tại 105,74378407- 
19.11696711 trên chiều dài 15km. Từ dải đồi thấp 
phía TB Quỳnh Lưu có độ cao trên 60m là bề mặt 
bóc mòn trên các thành tạo T2a đt. Chân sườn này 
là bề mặt thềm biển Q13 độ cao khoảng 20m bị 
phân cắt xâm thực. Dưới bậc này về phía đông là 
bề mặt đồng bằng của thềm tích tụ biển tuổi Q22 có 
độ cao khoảng 4-5m nghiêng thoải ra đến doi cát 
cao ven bờ và hơi bị phân dị (bị cắt xẻ bởi hệ thống 
các sông và kênh rạch) sát Sông Hậu ở phần lưng 
doi cát ven bờ tích tụ các trầm tích hỗn hợp sông
biển và đầm lầy tuổi Q23 (Holocen thượng) phủ 
trên bề mặt thềm biển vừa nêu. Trên mặt cắt này 
đáng chú ý là chỏm núi sót khu vực Quỳnh Văn 
nhô lên trên bề mặt đồng bằng đến độ cao khoảng 
40m. Chân sườn núi sót này có chợ Quỳnh Văn, 
nơi chúng tôi khảo sát cồn điệp và lấy mẫu xác 
định tuổi 14C (các mẫu QV1, QV2). Đây là một bề 
mặt thềm nhỏ hẹp kề dải núi sót, có độ cao khoảng 
7-8m, có thể đến 10m nghiêng thoải xuống 5-6m 
(mặt đường) và thấp hơn. Chiều dày của tập điệp 
này có thể đạt tới 7m. 
Điểm đáng chú ý nữa trên mặt cắt khu vực này 
ra phía biển là sự có mặt của các thành tạo cuội 
tảng khá lớn trong trầm tích bề mặt và xen trong 
cát và các lớp vỏ sò, ốc ở doi cát ven biển khu vực 
xã Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Lưu (mặt cắt giếng đào). 
Còn ở vùng chân núi Rồng sát bờ biển là các bãi 
cuội sỏi và tảng lăn, kề vào đó là cồn sò, ốc lẫn sỏi 
không gắn kết chuyển dần sang cát ven bờ về phía 
bắc và ra phía biển. 
Hình 12. Các mặt cắt địa mạo - địa chất khu vực Quỳnh Lưu - Diễn Châu 
MẶT CẮT ĐỊA MẠO - ĐỊA CHẤT TUYẾN E-F 
MẶT CẮT ĐỊA MẠO - ĐỊA CHẤT TUYẾN C-D 
MẶT CẮT ĐỊA MẠO - ĐỊA CHẤT TUYẾN A-B 
 106
3.4.2. Tuyến mặt cắt CD (hình 12) 
Tuyến mặt cắt này cắt qua trung tâm đồng bằng 
Diễn Châu, xuất phát từ dải đồi thấp phía tây ra 
biển ở phía đông có toạ độ điểm đầu cuối lần lượt 
là: 107.88738406-21.57139954 và 107.95444440-
21.33156020. Tuyến có chiều dài trên 21km. 
Bề mặt đồi bóc mòn ở độ cao trên 70m và dải 
đồi 40m lộ các đá hệ tầng Đồng Trầu (T2a đt).Các 
đá này lót dưới đáy đồng bằng sâu dần về phía 
biển, sâu nhất khoảng trên 60m. Giữa hai dải đồi, ở 
độ cao 25-30m là bề mặt thềm biển tuổi Q13. thềm 
này cũng bị phân cắt bởi các dòng sông suối nhỏ 
đổ ra từ dải núi cao hơn ở phía tây. Trên bề mặt các 
sông suối này tích tụ lớp mỏng các trầm tích lòng 
sông và bãi bồi hiện đại. Dải đồi thấp sát đồng 
bằng bị phân cắt mạnh thành các chỏm sót tách biệt 
nhau song vẫn giữ phương kéo dài ĐB-TN. Bề mặt 
đồng bằng thềm biển 3-4m tuổi Holocen giữa hơi 
bị cắt xẻ trên mặt dọc theo hệ thống các dòng chảy 
và kênh rạch và hơi nhô cao ở phần trung tâm đồng 
bằng khoảng 1m, nơi có đường QL1 và khu vực 
tập trung dân cư. Cũng tại dải cao này về phía nam 
Diễn Châu lộ ra các tập vỏ sò, ốc gắn kết chắc, 
theo kết quả thăm dò Georada thì tập này còn sâu 
xuống đến 4-5m, dân khai thác làm gạch xây nhà, 
được định tuổi 14C khoảng 4180 - 4310 năm. Doi 
cát sát bờ biển ở đây tương đối hẹp, chỉ khoảng 
1000m chiều rộng, độ cao cao nhất có thể đến 5m 
hơi dốc xuống biển và nghiêng về phía lưng, nơi có 
dòng sau lưng Sông Me chảy dọc song song đường 
bờ. Độ dày toàn bộ trầm tích Đệ tứ ở đây (phần 
lưng doi cát) có thể đạt tới 60m, hơi mỏng đi đến 
40m ở doi cát ven bờ do sự nhô lên của móng 
trước Đệ tứ (các trầm tích T2a đt hoặc T3n-r đđ). 
Nó phản ánh sự gợn sóng nhô lên trên 5m của bề 
mặt đồng bằng. Tại đây ở khu vực ven Sông Lạch 
Vạn xã Diễn Ngọc có tập vỏ sò, ốc trong trầm tích 
bở rời tuổi Holocen muộn được dân khai thác để 
nung vôi. Tập vỏ sò không gắn kết lẫn với cát, bột, 
sét dày khoảng 2-6m, phía dưới có tập sò, điệp 
màu trắng xám gắn kết chắc xen các thấu kính cát 
không rõ tuổi. 
3.4.3. Tuyến mặt cắt EF (hình 12) 
Tuyến này được chọn cắt dọc theo dải núi nam 
Diễn Châu, từ khu vực núi Cao Sơn ở phía tây đến 
bờ biển Mũi Gà thuộc xã Nghi Tiến, huyện Nghi 
Lộc. Dải núi này bị chặn phía nam bởi đứt gãy Cửa 
Lò (nhánh chính của đứt gãy Sông Cả) cắt qua các 
thành tạo của hệ tầng Đồng Đỏ (T3n-r đđ) tạo đới 
phá huỷ và cà nát mạnh dọc theo thung lũng sông 
Nhà Lê. 
Dải núi bị chia cắt thành các khoảnh núi sót bị 
bóc mòn và xói lở mạnh trên bề mặt sườn. Một loạt 
các thung lũng - trũng hẹp và ngắn có các dòng 
chảy đổ thẳng ra biển, ở phía trong xa biển tạo 
thành các đồng bằng hẹp, còn sát ven biển thì có 
các doi cát kiểu nối đảo nổi cao. Viền quanh chân 
các núi sót là các bãi đá và các tảng đá đổ lở từ các 
sườn núi cho thấy quang cảnh rất điển hình của bờ 
biển kiểu này. Ở các “hõm núi” tích tụ trầm tích 
biển tuổi Q23 tạo nên bề mặt đồng bằng sau doi cát 
sát bờ cao 2-3m. Trong các doi cát này gặp một lớp 
sò, ốc mỏng sắp xếp hỗn độn (làng La Vân, xã 
Nghi Yên). Mẫu NL1 lấy trong tầng này cho tuổi 
3920-4040 năm, một mẫu khác lấy trong tầng sò ốc 
dưới một giếng đào ngay bên dưới chân cồn cát ở 
độ sâu khoảng 4m cho tuổi 4430-4520 năm. Tại 
cồn cát xóm 3 xã Nghi Tiến ở dưới chân cồn này 
gặp một lớp cuội, sỏi lẫn vỏ sò, ốc gắn kết vôi chắc 
(mẫu NL3) được định tuổi 4390-4520 năm. Cả cồn 
cát bên trên và lớp đang mô tả đang bị dòng chảy 
suối nhỏ cắt qua. Tiếp theo mặt cắt sang “hõm giữa 
núi”: Núi Dẻ và Núi Dua tại khu vực xóm 9 xã 
Nghi Tiến bắt gặp một cồn điệp khá lớn nằm ngay 
trên bề mặt doi cát ven biển. Cồn này có độ cao 
khoảng 5-7m trên bề mặt có các lớp đất trồng xen 
vài lớp sò, ốc. Phần dưới chủ yếu là điệp màu xám 
sáng có dạng xếp lớp gắn kết tốt. Các mẫu xác định 
tuổi ở đây (NL4, NL4-1 và NL4-2) nằm trong 
khoảng 4200 đến 4400 năm. Phần dưới là các 
thành tạo cát, sét, bùn được mô tả theo giếng đào 
của dân ở ngay dưới chân cồn. 
4. Thay cho lời kết 
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích các tài liệu địa 
chất, địa mạo hiện có và các tài liệu thu thập trên 
thực địa có thể nhận định rằng: vùng Diễn Châu-
Quỳnh Lưu là các đồng bằng hình thành trong Đệ 
Tứ kiểu lấp đầy vũng vịnh sau cồn cát nối đảo, 
điển hình cho kiểu bờ biển và các đồng bằng miền 
Trung, nơi có các dải núi xuyên ngang kiểu xương 
cá từ dải Trường Sơn với các dòng chảy sông suối 
ngắn đổ thẳng ra biển. 
Ghi nhận các mực thềm biển đánh dấu các thời 
kỳ biển tiến và tích tụ trầm tích biển tuổi Pleistocen 
muộn (Q13) nằm sát các sườn núi thấp-đồi bóc mòn 
lộ các thành tạo trước KZ (chủ yếu các thành tạo
 107
Trias trung-thượng) và thềm biển tuổi Holocen 
giữa (biển tiến Flandrian) tích tụ các trầm tích biển 
và sông biển hỗn hợp tạo nên bề mặt đồng bằng 
hiện tại đang bị các dòng chảy sông suốí đào, lấp. 
Dọc theo đường bờ là các dải doi cát nối đảo: nối 
các núi sót nhô lên trên đồng bằng và các dải núi 
xuyên ngang ra biển. Tại các chân núi này hình 
thành các bãi đá (bench) vách sạt lở và tích tụ các 
tảng đổ lở, cuội, sỏi, đôi chổ lẫn các vỏ sò, ốc khá 
dày (núi Rồng - Quỳnh Lưu). 
Đôi chỗ ngay trên bề mặt đồng bằng nổi lên các 
gò - đống hoặc tấm sò, ốc và điệp gắn kết chắc, 
được dùng làm vật liệu xây dựng phân bố ở các 
mức độ cao và vị trí khác nhau: cồn điệp, sò, ốc ở 
Quỳnh Văn (sát chân dải núi sót có độ cao 7-8m, 
có thể tới 10m) cách bờ biển 4-5km; ở sát bờ biển 
gặp trong lớp dưới đồng bằng như ở Quỳnh Nghĩa; 
gặp ngay trên mặt đường (có độ cao khoảng 4m 
trên mực biển) như ở thị trấn Diễn Châu, dưới các 
doi cát ven biển như ở Nghi Yên, Nghi Tiến và gò 
đống cao 5-7m như ở Nghi Tiến. Các giá trị tuổi 
14C của các mẫu sò ốc đặc biệt là QV1-2, và NL2-4 
nằm ở các độ cao khác nhau và cách xa nhau 
nhưng đều cho một khoảng tuổi 4000 năm - 4600 
năm. Đặc biệt là tuổi của điệp tại Nghi Tiến cổ hơn 
bãi cát nằm dưới nó. Một di chứng đáng chú ý nữa 
là sự có mặt của tầng cuội tảng khá lớn gặp trên 
mặt và dưới bề mặt ở khu vực xã Quỳnh Nghĩa 
(Quỳnh Lưu) nằm cách khá xa chân núi sót sát bờ 
trong khi ngay dưới chân núi chỉ gặp chủ yếu là 
cuội sỏi cỡ trung bình - nhỏ và cồn sò, ốc hiện đại. 
Các lớp sò tồn tại ngay dưới đường Quốc lộ 1A 
cũng như các đồi điệp ở chợ Quỳnh Văn và Nghi 
Tiến thể hiện rõ nét trên các giản đồ sóng Georada. 
Chúng xuất hiện khá tập trung và cục bộ ở giữa 
mỗi tuyến đo. Tín hiệu phản xạ từ các lớp này có 
sự khác biệt với môi trường xung quanh. 
Nhận thấy đới đứt gãy Sông Cả và nhánh của 
nó - đứt gãy Cửa Lò có biểu hiện hoạt động hiện 
đại khá rõ thể hiện ở sự cà nát rất mạnh các đất đá 
trước KZ của khu vực cùng với hoạt động xói lở và 
hình thành mương xói rất mạnh mẽ trong một khu 
vực rộng xung quanh hệ thống đứt gãy này. Trên 
đới đứt gãy Sông Cả từng ghi nhận các trận động 
đất cấp độ mạnh tới 6,0. 
Để có được những lý giải thoả đáng và sát thực 
hơn cần thiết phải có những nghiên cứu tỉ mỉ và kỹ 
lưỡng khu vực rất đáng chú ý này, kể cả tiến hành 
các công trình khoan, đào giếng, hào và lấy mẫu 
phân tích tuổi một cách có hệ thống và đầy đủ hơn. 
Mặt khác, cần có những đo đạc chính xác địa hình 
hiện đại (tới 1m) để xác định đúng các mốc cao 
điểm cần thiết cho việc nghiên cứu. Trên cơ sở 
những tài liệu và nghiên cứu hiện có, những kết 
quả và nhận định nêu trên là các kết quả và nhận 
xét bước đầu còn cần được bổ sung và kiểm chứng 
tiếp tục. 
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Annan, A. P., and Chua L. T., 1992: Ground 
perpetrating radar performance predictions. In 
Ground Penetrating Radar, J. A. Pilon (editor). 
Geological Survey of Canada, Paper 90-4: 5-13. 
[2] Baker, P. L., 1991: Response of ground - 
penetrating radar to bounding surfaces and 
lightfaces variations in sand barriers sequences. 
Exploration Geophysics 22: 19-22. 
[3] Hoàng Xuân Chinh, 1966: Các di tích vỏ ếp 
sò - điệp ven biển Nghệ Tĩnh, Một số báo cáo khảo 
cổ học Việt Nam, Hà Nội (Lưu Viện khảo cổ học). 
[4] Hoàng Xuân Chinh, 2009: Các nền văn hoá 
cổ Việt nam (từ thời nguyên thuỷ đến thế kỷ 19), 
Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 437tr. 
[5] Nguyễn Đình Chiến, 1999: Văn hoá Quỳnh 
Văn, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội. 
[6] Conyers, Lawrence B., and Catherine M. 
Cameron, 1998: Finding buried archaeological 
features in the American Southwest: New ground 
penetrating radar techniques and three-dimensional 
computer mapping. Journal of Field Archaeology 
25 (4): 417-430. 
[7] Davis, J.L., and Annan A.P., 1989: Ground-
penetrating radar for high resolution mapping of 
soil and rock stratigraphy. Geophysics 37: 
531-551. 
[8] Nguyễn Địch Dỹ (chủ biên), 1996: Địa chất Đệ 
tứ và đánh giá tiềm năng khoáng sản liên quan. Báo 
cáo tổng kết đề tài KT01-07). Lưu Viện Địa chất, 
Hà Nội. 
[9] Lê Xuân Hồng, Lê Thị Kim Thoa, 2007: 
Sách chuyên khảo: Địa mạo bờ biển Việt Nam. 
[10] Trần Nghi (chủ biên), 2005: Địa chất Biển. 
Nxb. Đại học QG Hà Nội. 
[11] Bùi Công Quế (chủ biên), 2010: Nghiên cứu 
đánh giá độ nguy hiểm của động đất và sóng thần ở 
vùng ven biển và hải đảo việt nam và đề xuất các 
giải pháp phòng tránh, giảm nhẹ hậu quả. Báo cáo 
 108
tổng kết đề tài độc lập cấp nhà nước, Mã số 
ĐTĐL2007G/45. Lưu Viện VLĐC, Hà Nội, 344 tr. 
[12] Nguyễn Đức Tâm (chủ biên), 1995: Địa chất 
Đệ Tứ Việt Nam, thuyết minh bản đồ Địa chất Đệ 
tứ 1:500.000. 
[13] Cao Đình Triều, Rogozhin E.A., Ngô Thị 
Lư, Nguyễn Hữu Tuyên, Mai Xuân Bách, Lê Văn 
Dũng, Nguyễn Thanh Tùng, 2007: Sóng thần có thể 
đã có thể tác động đến bờ biển Việt Nam. Tuyển 
tập báo cáo Hội nghị KHKTĐVL Việt Nam lần 
thứ 5, Tp. Hồ Chí Minh, 172-181. 
[14] Cao Dinh Trieu, 2010: Seismic Hazards in 
Vietnam, Science and Technics Publishing House, 
Hanoi, pp. 182. 
[15] 
ntID=4485&typeId=37. 
[16] 
2&subID=91&newsID=125&sid=KHCN22399037
595436861282641. 
[17] 
50609-nongnghiepvakhaocohocmientr. 
SUMMARY 
Some results of placura and granosa shells distribution in Nghe An region 
On the basis of placura placenta-arca granosa shells investigation in Quynh Van, Dien Chau and Nghi Tien, some 
new results can be made as the following: 
- Banks of placura placenta-arca granosa shells in Quynh Van and Nghi Tien; deep-seated in Quynh Nghia, Dien 
Chau and along Nghi Yen seashore have the time of 4000-4600 yr. 
- The appearance of the placura placenta-arca granosa shells banks have not either the sources from marine 
transgression in Holocene, tectonic movement or artificial. 
- It is possible that those are the deposits of the natural geological activities courses to the seashore in the time of 
4000-4600 yr ago. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_ket_qua_nghien_cuu_phan_bo_so_diep_khu_vuc_nghe_an.pdf