Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám

Vào những ngày cuối tháng 11 năm 2016, hiện tượng chết hàng loạt của cá Bớp nuôi đã xảy ra ở

trong vịnh Vân Phong, huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa. Thông qua việc trích xuất các thông số

nước ven biển như hàm lượng chlorophyll-a, hàm lượng chất lơ lửng, nhiệt độ bề mặt biển từ ảnh

viễn thám có độ phân giải cao như vệ tinh Landsat-8 (Landsat-8/OLI), và MultiSpectral Instrument

Sentinel 2 (Sentinel 2 - MSI) cho phép giải thích nguyên nhân gây chết hàng loạt của cá Bớp nuôi

trong khu vực. Hàm lượng chlorophyll-a, nhiệt độ nước biển cao bất thường ở đỉnh vịnh Vân Phong

vào tháng 10 và tháng 11 năm 2016. Sự hâm nóng nước biển ở vùng nước nông, nước lưu thông

kém là các yếu tố quyết định sự tăng cao thường xuyên của nhiệt độ nước ở các khu vực này. Nhiệt

độ nước biển cao sẽ kích thích cho sự tăng trưởng và phát sinh hiện tượng nở hoa của tảo gây hại

trong điều kiện thích hợp. Tảo Ceratium fucas nở hoa phát sinh vào cuối tháng 10 năm 2016 từ chất

thải do NTTS ở Tuần Lễ trôi về phía Nam và đạt đỉnh vào tháng 11 năm 2016. Tảo Ceratium fucas

nở hoa gây “thủy triều đỏ”, làm giảm mạnh lượng oxy hòa tan trong nước. Thêm vào đó, với mật độ

dày, tảo bám vào mang cá, gây nên hiện tượng nghẽn mang, khiến cá chết do thiếu oxy. Vùng đất

bồi khu dân cư mới Vĩnh Yên hình thành từ 2011 là yếu tố tiềm tàng gây ra tảo gây hại nở hoa và ô

nhiễm vùng nước ở đỉnh vịnh Vân Phong.

Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám trang 1

Trang 1

Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám trang 2

Trang 2

Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám trang 3

Trang 3

Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám trang 4

Trang 4

Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám trang 5

Trang 5

Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám trang 6

Trang 6

Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám trang 7

Trang 7

Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám trang 8

Trang 8

Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám trang 9

Trang 9

Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 8000
Bạn đang xem tài liệu "Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám

Môi trường nước vào thời điểm cá chết hàng loạt tháng 11 năm 2016 ở vịnh Vân Phong – Khánh Hòa dưới góc nhìn viễn thám
35TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
MÔI TRƯỜNG NƯỚC VÀO THỜI ĐIỂM CÁ CHẾT HÀNG LOẠT 
THÁNG 11 NĂM 2016 Ở VỊNH VÂN PHONG – KHÁNH HÒA 
DƯỚI GÓC NHÌN VIỄN THÁM 
Tống Phước Hoàng Sơn1*, Nguyễn Thanh Tùng2
TÓM TẮT
Vào những ngày cuối tháng 11 năm 2016, hiện tượng chết hàng loạt của cá Bớp nuôi đã xảy ra ở 
trong vịnh Vân Phong, huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa. Thông qua việc trích xuất các thông số 
nước ven biển như hàm lượng chlorophyll-a, hàm lượng chất lơ lửng, nhiệt độ bề mặt biển từ ảnh 
viễn thám có độ phân giải cao như vệ tinh Landsat-8 (Landsat-8/OLI), và MultiSpectral Instrument 
Sentinel 2 (Sentinel 2 - MSI) cho phép giải thích nguyên nhân gây chết hàng loạt của cá Bớp nuôi 
trong khu vực. Hàm lượng chlorophyll-a, nhiệt độ nước biển cao bất thường ở đỉnh vịnh Vân Phong 
vào tháng 10 và tháng 11 năm 2016. Sự hâm nóng nước biển ở vùng nước nông, nước lưu thông 
kém là các yếu tố quyết định sự tăng cao thường xuyên của nhiệt độ nước ở các khu vực này. Nhiệt 
độ nước biển cao sẽ kích thích cho sự tăng trưởng và phát sinh hiện tượng nở hoa của tảo gây hại 
trong điều kiện thích hợp. Tảo Ceratium fucas nở hoa phát sinh vào cuối tháng 10 năm 2016 từ chất 
thải do NTTS ở Tuần Lễ trôi về phía Nam và đạt đỉnh vào tháng 11 năm 2016. Tảo Ceratium fucas 
nở hoa gây “thủy triều đỏ”, làm giảm mạnh lượng oxy hòa tan trong nước. Thêm vào đó, với mật độ 
dày, tảo bám vào mang cá, gây nên hiện tượng nghẽn mang, khiến cá chết do thiếu oxy. Vùng đất 
bồi khu dân cư mới Vĩnh Yên hình thành từ 2011 là yếu tố tiềm tàng gây ra tảo gây hại nở hoa và ô 
nhiễm vùng nước ở đỉnh vịnh Vân Phong. 
Từ khóa: Chlorophyll-a, hàm lượng vật lơ lững, nhiệt độ nước biển tầng mặt, LC8-OLI, SEN2-MSI, 
tảo gây hại nở hoa, cá Bớp chết hàng loạt.
I. MỞ ĐẦU
Nuôi trồng thủy sản (NTTS) cung cấp 47% 
nguồn thực phẩm từ nghề cá và là một trong 
những ngành sản xuất phát triển nhanh nhất 
trong thời đại ngày nay (FAO, 2012). Nuôi 
trồng thủy sản, như với bất kỳ hoạt động kinh 
tế khác, nó cũng sử dụng các nguồn tài nguyên 
thiên nhiên, phụ thuộc chặt chẽ với điều kiện 
đầu vào (như nước, giống, thức ăn) cũng như 
các quá trình tham gia (ví dụ: sức tải môi 
trường, mật độ nuôi, các giải pháp giảm tải chất 
thải nguy hại (bao gồm thức ăn thừa) trong quá 
trình nuôi, giám sát môi trường và quản lý dịch 
bệnh, ). Tương tác của NTTS lên môi trường 
có thể được đánh giá, so sánh thông qua các lợi 
ích về xã hội, kinh tế và cả vấn đề môi trường, 
chẳng hạn như cung cấp thực phẩm, tạo công ăn 
việc làm, tăng thu nhập, cải thiện dinh dưỡng 
và sức khỏe, giảm tải áp lực lên nguồn giống tự 
nhiên,  Tương tác với môi trường cũng có thể 
tạo ra những tác động tiêu cực. Chất thải được 
tạo ra bởi các hoạt động nông nghiệp, NTTS xả 
thải vào môi trường có thể có tác động tiêu cực 
đến tài nguyên thiên nhiên, giảm chất lượng và 
số lượng của chúng. Để giảm thiểu tác động tiêu 
cực của NTTS lên môi trường sống việc giám 
sát chất lượng nước ở vùng nuôi là cần thiết. 
1 Viện Hải Dương Học - Viện Hàn lâm Khoa Học và Công nghệ Việt Nam - IO/VAST
2 Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
* Email: tongphuochoangson@gmail.com
36 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Hiện nay, việc giám sát chất lượng môi 
trường nước đã được thực hiện rộng rãi trên thế 
giới và cả ở Việt Nam, phục vụ cho các mục 
đích khác nhau như giám sát chất lượng môi 
trường nước thải sinh hoạt, nước thải bệnh viện, 
nước thải do hoạt động công nghiệp, giám sát 
môi trường ở các vùng nuôi trồng thủy sản,  
Các chỉ số chất lượng nước bao gồm các đặc 
tính vật lý, hóa học và sinh học xác định bằng 
cách lấy mẫu từ thực địa và sau đó phân tích 
các mẫu trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, 
việc giám sát môi trường bằng các phương pháp 
lấy mẫu truyền thống đòi hỏi tốn nhiều thời 
gian, công sức và cả tiền bạc. Hơn thế nữa, tính 
không đồng nhất về thời gian của việc lấy mẫu ở 
vùng ven bờ, làm bức tranh phân bố chung của 
các yếu tố môi trường đôi khi bị sai lệch nhiều 
so với thực tế. Việc áp dụng ảnh vệ tinh kết hợp 
với sử dụng tài liệu đo đạc thực tế, nhằm xác 
định các thuật toán địa phương của các thông 
số môi trường, là một cách tiếp cận hiệu quả, nó 
cho phép khắc phục dần các nhược điểm trên, 
nhằm tạo điều kiện thuận tiện cho việc giám sát 
chất lượng môi trường nước bằng sử dụng tư 
liệu ảnh viễn thám đa thời gian.
Hàm lượng Chlorophyll-a, nhiệt độ nước 
biển tầng mặt, hàm lượng vật lơ lửng và độ 
đục là các tham số môi trường cơ bản ven biển 
thường được đo đạc trong các các mạng lưới 
giám sát môi trường vùng ven bờ (Gohin et 
al., 2011), đồng thời chúng có thể xác định tốt 
bằng tư liệu ảnh viễn thám màu, với độ tin cậy 
đủ cao. 
Chlorophyll-a là sắc tố diệp lục sinh ra nhờ 
quang hợp, nó được sử dụng như một chỉ thị 
thể hiện sự phong phú của thực vật phù du và 
thể hiện trạng thái dinh dưỡng hiện hữu của 
các hệ sinh thái thủy sinh. Chlorophyll-a là chỉ 
số thể hiện trạng thái dinh dưỡng vì hoạt động 
như một liên kết giữa nồng độ chất dinh dưỡng, 
đặc biệt là phốt pho và sản phẩm của tảo. Sự nở 
hoa của vi tảo, thường bị ảnh hưởng bởi hiện 
tượng phú dưỡng trong nước, liên quan trực tiếp 
đến hàm lượng chlorophyll-a vì nó rất cần thiết 
cho quá trình quang hợp (Allan và ctv., 2007). 
Chlorophyll-a được sử dụng trong quang hợp 
oxy và được tìm thấy trong thực vật, tảo và 
cyanobacteria. Việc hiểu rõ mối quan hệ giữa 
chlorophyll-a với các chất dinh dưỡng, các 
yếu tố môi trường, việc xem xét yếu tố nào 
là ảnh hưởng mạnh nhất lên sự thay đổi trạng 
thái dinh dưỡng của hệ sẽ hỗ trợ cho chúng ta 
tốt hơn trong quản lý NTTS tập trung. Nhiều 
nhà nghiên cứu đã chứng minh việc tăng nồng 
độ chlorophyll-a gây ra sự giảm sự thích ứng 
phổ ở các bước sóng ngắn, đặc biệt là trong dải 
màu xanh lam ( ... hoa
Kết quả xử lý tư liệu ảnh vệ tinh LC8-OLI 
39TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
và SEN2-MSI trước, trong và sau khi xảy ra sự 
cố môi trường như vừa nêu cho thấy rõ xu thế 
phân bố và biến động hàm lượng chlorophyll-a, 
hàm lượng vật lơ lững và nhiệt độ nước biển 
tầng mặt ở đỉnh vịnh Vân Phong vào các thời 
điểm xảy ra cá chết hàng loạt. Phân bố chi tiết 
của hàm lượng chlorophyll-a vào các thời điểm 
khác nhau chỉ ra ở Hình 1. 
Kết quả phân tích ảnh cho thấy, vào ngày 20 
tháng 10, bắt gặp một đám tảo nở hoa xuất hiện 
ở vụng Vĩnh Yên (hàm lượng chlorophyll-a cực 
đại đạt mức 45 mg/m3), và một đám tảo nở hoa 
khác tấp vào phía Đông Nam hòn Bịp, hòn Đước 
(Điệp Sơn) với hàm lượng chlorophyll-a cực 
đại đạt mức > 500 mg/m3. Vào ngày 27 tháng 
10, xuất hiện một đám tảo nở hoa, bắt nguồn từ 
địa điểm Tuần Lễ với hàm lượng đầu nguồn đạt 
mức 20 mg/m3 và trôi về phía vụng Vĩnh Yên. 
Vào ngày 10 tháng 11, xuất hiện một đám tảo 
nở hoa mới diện phân bố rộng, cũng bắt nguồn 
từ Tuần Lễ, và quét ngang qua các đảo Hòn Bịp, 
Hòn A, Hòn Đấu, hàm lượng chlorophyll-a cực 
đại ở trong đám tảo nở hoa này đạt mức 350 mg/
m3. Ngoài ra, đám tảo này, cũng bám sát vào bờ 
Đông, quét qua vụng Vĩnh Yên và để lại dấu 
vết qua đám tảo nhỏ còn sót lại tấp vào mũi Đá 
Son. Kết quả khảo sát trong đợt khảo sát tháng 
11 năm 2016 đã chỉ ra, tảo nở hoa ở đây liên 
quan đến loài tảo Ceratium sp. và gây ra cá 
chết hàng loạt ở thôn Vĩnh Yên, xã Vạn Thạnh, 
huyện Vạn Ninh. Sự xuất hiện với mật độ dày 
(chlorophyll-a > 500 mg/m3) của loài tảo này, 
sẽ bám vào mang cá Bớp lồng nuôi ở khu vực, 
gây hiện tượng nghẽn mang, ảnh hưởng đến 
quá trình hô hấp của cá và khiến cá chết do 
thiếu hụt oxy. 
Hình 1. Phân bố hàm lượng chlorophyll-a từ tháng 10 năm 2016 đến tháng 11 năm 2016 
trích xuất từ ảnh viễn thám.
40 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Kết quả phân tích ảnh viễn thám độ phân 
giải cao về phân bố hàm lượng chlorophyll-a 
vào ngày 20 tháng 10 năm 2016 đã chỉ ra dấu 
vết xuất hiện của mảng tảo nở hoa rõ rệt ở ven 
bờ Vĩnh Yên và cả ở Nam Hòn Bịp. Trong lúc 
đó ảnh xử lý vào ngày 27 tháng 10 năm 2016 đã 
chỉ ra rõ rệt nguồn phát sinh của tảo Ceratium 
sp. xuất phát từ các ao tôm ven bờ Tuần Lễ vào 
ngày 27 tháng 10 năm 2016. Chúng tạo ra các 
đám tảo nở hoa của tảo Ceratium sp. và trôi dần 
về phía vụng Vĩnh Yên. Đến ngày 10 tháng 11 
năm 2016, các tảo này nở rộ thành mảng tảo 
nở hoa lớn và theo dòng nước trôi về phía Điệp 
Sơn, một phần của các mảng tảo này, bám theo 
ven bờ, đi qua vụng vĩnh Yên và để lại dấu 
vết qua đám tảo nhỏ còn sót lại tấp vào mũi 
Đá Son. Như vậy sự xuất hiện của các đám 
tảo nở hoa Ceratium sp. làm cho cá chết hàng 
loạt trong đợt tháng 10 - tháng 11 năm 2016 
có nguồn gốc phát sinh từ các ao đìa nuôi tôm 
ở Tuần Lễ. Kết quả phân tích cũng chỉ ra, các 
đợt tảo nở hoa gây cá chết ở vịnh Vân Phong 
không kéo dài liên tục, mà có tác động thành 
nhiều đợt ngắn diễn ra trong hai tháng 10 - 
tháng 11 năm 2016. 
3.3. Hiện tượng cá chết hàng loạt trong 
vịnh Vân Phong trong mối liên quan với các 
yếu tố nhiệt độ nước biển tăng cao, độ sâu 
nhỏ của vùng nuôi, hệ thống ao nuôi tôm 
ven bờ.
Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của biến 
đổi khí hậu và nhiệt độ nước biển tăng (Tống 
Phước Hoàng Sơn và ctv., 2017) ở vùng Nam 
Trung Bộ đã chỉ ra các năm 1998, 2010, 2016 
là thời kỳ hậu El Nino, với nhiệt độ tăng cao 
bất thường so các năm khác. Kết quả phân tích 
biến động nhiệt độ nước biển tầng mặt vào các 
thời kỳ khác nhau trong năm 2016 (Hình 2) 
cũng cho thấy nhiệt độ nước biển thường xuyên 
tăng cao ở bờ Đông của vịnh Vân Phong (nghĩa 
là ở Tuần Lễ, vụng Vĩnh Yên, lạch Cổ Cò) với 
nhiệt độ thường xuyên tăng cao hơn 31oC. Ở 
vùng sát bờ Tuần Lễ, Vĩnh Yên, nhiệt độ nước 
tăng đột biến, có nơi nhiệt độ lên đến 34 – 35oC. 
05/05/2016 07/07/2016
09/09/2016 28/10/2016
Hình 2. Biến động nhiệt độ nước biển tầng mặt (SST) vào các thời kỳ khác nhau
của năm 2016 từ tư liệu ảnh Landsat 8 – OLI.
41TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Sự hâm nóng nước biển ở vùng nước nông 
là yếu tố quyết định sự tăng cao thường xuyên 
của nhiệt độ nước ở các khu vực này. Như vậy 
nhiệt độ nước biển thường xuyên cao vào năm 
2016, cùng với độ sâu nhỏ ở vùng nuôi Vĩnh 
Yên là các yếu tố kích thích cho sự phát triển 
của tảo nở hoa trong khu vực. 
3.4. Yếu tố tiềm tàng gây tảo nở hoa và 
ô nhiễm biển ở vụng Vĩnh Yên của vùng đất 
bồi khu dân cư mới Vĩnh Yên. 
Các kết quả phân tích ảnh vệ tinh đều cho 
thấy hàm lượng chlorophyll-a, hàm lượng vật 
chất lơ lững thường xuyên có giá trị cực kỳ cao 
ở trên vùng đất này. Các phân tích hồi cố cũng 
cho thấy hiện tượng tảo nở hoa, và các vùng độ 
đục cao đã thường xuyên xảy ra ở vụng Vĩnh 
Yên từ các năm trước đây (Hình 3). Vào năm 
2011, một phần ao nuôi tôm ở khu vực Bắc Hòn 
Trì được dở bỏ, và thay vào đó là vùng đất bồi 
cho xây dựng khu dân dân cư mới Vĩnh Yên. Vì 
nhiều lý do khác nhau, đến nay vùng đất mới 
này vẫn chưa hoàn thành và đang có dấu hiệu 
tạo điều kiện tiềm tàng cho sự phát triển của tảo 
nở hoa và cả khả năng ô nhiễm biển ở vùng biển 
lân cận.
Hình 3. Biến động hàm lượng chlorophyll-a (trái) và hàm lượng vật lơ lững (phải)
vào các thời kỳ khác nhau ở vùng ven bờ vùng Vĩnh Yên nơi xảy ra hiện tượng cá chết
hàng loạt tháng 11 năm 2016.
3.5. Quan hệ của lượng mưa và khả năng 
tảo nở hoa ở trong vịnh Vân Phong
Phân tích biến thiên của lượng mưa hàng 
ngày ở vịnh Vân Phong từ tháng 04 năm 2016 
đến tháng 06 năm 2017 (Hình 4) từ dữ liệu của 
trung tâm nghiên cứu vũ trụ Mỹ - NASA đã cho 
ta vài gợi ý về quan hệ của lượng mưa và khả 
năng tảo nở hoa ở trong vịnh Vân Phong. 
42 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Đợt mưa lớn và kéo dài từ tháng 10 đến 
tháng 12 năm 2016 có khả năng là yếu tố “dẫn 
đường” đưa nguồn phát sinh gây ra tảo nở hoa 
của loài Ceratium từ các ao nuôi tôm ở Tuần Lễ 
vào vịnh Vân Phong. Sau đó theo dòng nước, 
các đám tảo nở hoa trôi dần xuống phía Nam 
và quét qua vụng Vĩnh Yên làm gây ra cá chết 
ở khu vực này. 
IV. KẾT LUẬN
Hàm lượng chlorophyll-a, nhiệt độ nước 
biển cao bất thường ở vũng Sim, lạch Cổ Cò 
vào tháng 10, tháng 11 năm 2016
 Sự hâm nóng nước biển ở vùng nước nông, 
nước lưu thông kém là yếu tố quyết định sự tăng 
cao thường xuyên của nhiệt độ nước ở các khu 
vực này. Trong lúc đó nhiệt độ nước, đến lượt 
nó là yếu tố kích thích cho sự tăng trưởng và 
phát sinh tảo gây hại nở hoa trong điều kiện 
thích hợp. 
 Hiện tượng nở hoa của tảo Ceratium fucas 
phát sinh vào hạ tuần tháng 10 năm 2016 từ chất 
thải do NTTS ở Tuần Lễ trôi về phía Nam và 
đạt đỉnh vào tháng 11 năm 2016. Tảo Ceratium 
fucas nở hoa gây “thủy triều đỏ”, làm giảm 
mạnh lượng oxy hòa tan trong nước. Thêm vào 
đó, với mật độ dày, tảo bám vào mang cá, gây 
nên hiện tượng nghẽn mang, khiến cá chết do 
thiếu oxy.
 Đợt mưa lớn và kéo dài từ tháng 10 đến 
tháng 11 năm 2016 là yếu tố “dẫn đường” phát 
sinh tảo Ceratium furca nở hoa từ ao NTTS ở 
Tuần Lễ đi vào vịnh Vân phong, trôi xuống phía 
Nam và quét qua vũng Sim làm gây ra cá chết 
ở khu vực này. 
 Vùng đất bồi khu dân cư mới Vĩnh Yên 
hình thành từ 2011 là yếu tố tiềm tàng gây ra 
tảo gây hại nở hoa và ô nhiễm biển ở vũng Sim. 
LỜI CẢM ƠN 
Các tác giả trong quá trình thực hiện bài 
báo khoa học này có sử dụng số liệu, tư liệu và 
tham khảo những kết quả KHCN có được trong 
khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công 
nghệ viễn thám và GIS hỗ trợ quản lý, giám sát 
và cảnh báo dịch bệnh trong nuôi trồng thủy 
sản” mã số VT-UD.07/17-20 thuộc Chương 
trình Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia về 
Công nghệ vũ trụ (2017-2020) do Viện Kinh 
tế và Quy hoạch thủy sản (Bộ Nông nghiệp và 
Phát triển nông thôn) chủ trì thực hiện. Các tác 
giả xin chân thành cảm ơn đề tài đã tạo điều 
kiện tốt nhất để có được những kết quả nghiên 
cứu trên.
Hình 4. Biến trình của lượng mưa vịnh Vân Phong từ tháng 4 năm 2016 đến tháng 06 năm 2017.
43TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Ngọc Lâm, chủ biên, 2017. Điều tra, đánh 
giá hiện tượng nở hoa của vi tảo và xác định 
nguyên nhân gây chết của đối tượng thủy sinh 
trong vịnh Vân Phong; đề xuất các biện pháp 
phòng ngừa. Báo cáo tổng kết nhiệm vụ môi 
trường tỉnh Khánh Hòa – Tài liệu lưu trữ Viện 
Hải Dương Học, năm 2017. 
Tài liệu tiếng Anh
Allan, M.G., Hicks, B.J., Brabyn, L., 2007. Remote 
Sensing of Water Quality in the Rotorua Lakes; 
The University of Waikato: Hamilton, New 
Zealand.
Franz, B.A., Bailey, S.W., Kuring, N., and Werdell, 
P.J., 2014. Ocean Color Measurements from 
Landsat-8 OLI using SeaDAS,” Proc. Ocean 
Optics 2014, Portland Maine (USA), 26-31.
Dekker, A.G., Vos, R., Peters, S., 2002. Analytical 
algorithms for lake water TSM estimation for 
retrospective analyses of TM and SPOT sensor 
data. Int. J. Remote Sens. 15–35. 
FAO, 2012. The state of World Fisheries and 
Aquaculture 2012. FAO Fisheries and 
Aquaculture Department Food and Agriculture 
Organization of The United Nations, Rome, 
2012.
Gohin, F., 2011. Annual cycles of chlorophyll-a, 
non-algal suspended particulate matter, and 
turbidity observed from space and in-situ in 
coastal waters. Ocean Sci. 705–732.
Gordon, H.R., and Wang, M., 1994. Retrieval of 
water-leaving radiance and aerosol optical 
thickness over the oceans with SeaWiFS: a 
preliminary algorithm, Appl. Opt. 33(3), 443–
452. 
Neukermans, G., Ruddick, K., Bernard, E., Ramon, 
D., Nechad, B., Deschamps, P. -Y., et al., 
2009. Mapping total suspended matter from 
geostationary satellites: A feasibility study 
with SEVIRI in the southern North Sea. Optics 
Express, 17, 14029–14052.
Ritchie, J.C., Zimba, P.V., Everitt, J.H., 2003. 
Remote sensing techniques to assess water 
quality. Photogramm. Eng. Remote Sens. 695–
704.
Ruddick, K.G., Ovidio, F., and Rijkeboer, M., 2000. 
Atmospheric correction of SeaWiFS imagery 
for turbid coastal and inland waters, Appl. Opt. 
39(6), 897–912. 
 Tong Phuoc Hoang Son, Tran Van Chung, Nguyen 
Huu Huan, Ngo Manh Tien, Vu Van Tac, 
Nguyen Hoang Thai Khang, Nguyen Truong 
Thanh Hoi, Marine Herrmann, Eko Siswanto, 
2017. Abnormal features of oceanographic 
characteristics in upwelling Vietnam waters 
under impact of El Niño events. Vietnam 
Journal of Earth Sciences, 39(3), 225-239, DOI: 
10.15625/0866-7187/39/3/10268. 
 Skokovic, D., Sobrino, J.A., Jimenez-Munoz, 
J.C., Soria, G., Julien, Y., Mattar, C., and Jordi 
Cristobal, 2014. Calibration and Validation of 
Land Surface Temperature for Landsat 8 – TIRS 
Sensor. Land product Validation and Evolution, 
ESA/ESRIN Frascati (Italy), pp 6-9, January 28-
30.
Vanhellemont, Q., Ruddick, K., 2014. Turbid wakes 
associated with offshore wind turbines observed 
with Landsat 8. Remote Sensing of Environment 
145, 105–115.
 Vanhellemont, Q., Ruddick, K., 2015. Advantages 
of high quality SWIR bands for ocean colour 
processing: Examples from Landsat-8. Remote 
Sensing of Environment 161, 89–106.
Wang, M., Shi, M., 2007. The NIR-SWIR combined 
atmospheric correction approach for MODIS 
ocean color data processing. Optics Express, 
Volume 15, No 24. 
44 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ENVIRONMENTAL CONDITION DURING THE PERIOD OF MASS 
FISH MORTALITY IN NOVEMBER 2016 IN VAN PHONG BAY - 
KHANH HOA PROVINCE UNDER REMOTE SENSING LIGHT
Tong Phuoc Hoang Son1*, Nguyen Thanh Tung2
ABSTRACT
At the end of November 2016, the mass mortality of the Cobia occurred in Van Phong bay, Van 
Ninh district, Khanh Hoa province. Through the extraction of coastal water parameters such as 
chlorophyll-a content, suspended matter content, sea surface temperature from high resolution 
remote sensing images Landsat-8 satellite (Landsat-8 - OLI), and the MultiSpectral Instrument on 
board Sentinel 2 (Sentinel 2 - MSI) allows to explain the cause of the mass mortality of the caged 
Cobia in the area at this time. It was found that both Chlorophyll-a content, sea water temperature 
areabnormally high at Van Phong bay in October and November 2016. The warming of sea water 
in shallow areas, low water current are the decisive factors for the increase of the water temperature 
in this area. Then, high seawater temperatures will stimulate growth and generation of harmful 
algae bloom (HAB) under the appropriate conditions. The blooming of Ceratium fucas algae in 
Van Phong bay generated in late October 2016 because of the waste water produced by aquaculture 
activity in Tuan Le village, they drifted to the south and peaked in November 2016. The blooming 
of Ceratium fucas caused red tide and s strongly reduces the amount of oxygen in the water. In 
addition, high density of algae cling to the gills causing gills obstruction and fish die due to lack of 
oxygen. The new land in Vinh Yen settlement formed in 2011 is a potential factor to increase water 
turbidity, creating harmful algae bloom and water pollution in the peak of Van Phong Bay. 
Keywords: Chlorophyll-a, suspended matter content, sea surface temperature, LC8-OLI, SEN2-
MSI, Harmful Algae Bloom, mass mortality of caged Cobia.
Người phản biện: TS. Lê Hồng Phước
Ngày nhận bài: 02/8/2020
Ngày thông qua phản biện: 22/8/2020
Ngày duyệt đăng: 26/8/2020
Người phản biện: PGS. TS. Võ Nam Sơn 
Ngày nhận bài: 04/8/2020
Ngày thông qua phản biện: 20/8/2020
Ngày duyệt đăng: 26/8/2020
1 Institute of Oceanography
2 Vietnam institute of fisheries economics and planning 
* Email: tongphuochoangson@gmail.com

File đính kèm:

  • pdfmoi_truong_nuoc_vao_thoi_diem_ca_chet_hang_loat_thang_11_nam.pdf