Minh Trị duy tân: Cuộc cách mạng tư tưởng của người Nhật và tư duy phương Đông
Là một chuỗi các sự kiện cải cách, cách tân dẫn đến những thay đổi to lớn trong cấu trúc xã hội và chính trị Nhật Bản; cuộc Cải cách “Minh Trị Duy Tân” đã mang đến những thay đổi mạnh mẽ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội trong lòng nước Nhật.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Minh Trị duy tân: Cuộc cách mạng tư tưởng của người Nhật và tư duy phương Đông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Minh Trị duy tân: Cuộc cách mạng tư tưởng của người Nhật và tư duy phương Đông
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 72 Original Article Meiji Restoration: The Japanese Thought Revolution and Asian Perception Do Duc Minh1,*, Vo Thi Hoa2 1Inspection and Legislation Department, Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 2Academy of Journalism and Communication, 36 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Received 12 April 2019 Revised 25 May 2019; Accepted 05 June 2019 Abstract: The "Meiji Restoration", a series of reform and renovation events leading to tremendous changes in the Japanese social and political structure, has brought dramatic changes in the political, economic and social fields in Japan. The reform started from the change in perception and thinking: the Japanese bravely broke with the traditional views, traditional ideas and well-received thoughts; the progressive knowledge of mankind brought Japan to a strong integration and Japan achieved miracles in the national development. The achievements of the Meiji Restoration have established a solid framework and foundation for the development of modern Japan. Keywords: Meiji Restoration, tradition, modernity, development. _______ Corresponding author. E-mail address: minhdd@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4219 VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 73 Minh Trị duy tân: Cuộc cách mạng tư tưởng của người Nhật và tư duy phương Đông Đỗ Đức Minh1,*, Võ Thị Hoa2 1Ban Thanh tra và Pháp chế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 2Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 36 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 12 tháng 04 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 25 tháng 5 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 05 tháng 6 năm 2019 Tóm tắt: Là một chuỗi các sự kiện cải cách, cách tân dẫn đến những thay đổi to lớn trong cấu trúc xã hội và chính trị Nhật Bản; cuộc Cải cách “Minh Trị Duy Tân” đã mang đến những thay đổi mạnh mẽ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội trong lòng nước Nhật. Bắt đầu từ sự thay đổi trong nhận thức và tư duy: người Nhật đã dũng cảm đoạn tuyệt với những quan điểm, tư tưởng truyền thống lạc hậu và đón nhận những tư tưởng, tri thức tiến bộ của nhân loại, đưa đất nước Nhật Bản bước vào thời kỳ hội nhập mạnh mẽ và giành được những kỳ tích trên con đường phát triển, xây dựng đất nước. Những thành tựu của công cuộc cải cách Minh Trị đã tạo lập khung khổ và nền móng vững chắc cho sự phát triển của đất nước Nhật Bản hiện đại. Từ khóa: Cải cách Minh Trị, truyền thống, hiện đại, phát triển. I. Tư duy phương Đông và Nhật Bản * 1. Một số vấn đề về tư duy phương Đông Tư duy phương Đông được nảy sinh trên nền tảng xã hội phương Đông với kết cấu kinh tế là những công xã nông thôn bảo thủ và hệ tư tưởng Nho giáo đề cao lễ nghĩa, coi nhẹ luật pháp, trọng tình hơn lí... chiếm địa vị thống trị _______ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: minhdd@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4219 tư tưởng trong suốt thời kỳ phong kiến và tạo ra truyền thống cai trị bằng đức 徳 với chủ nghĩa duy tình 唯 情 (còn phương Tây là pháp trị (Rule of law) và duy lí 唯 理). Triết học phương Tây ngả về tư duy duy lí, phân tích mổ xẻ còn phương Đông thì ngả về dùng trực giác. Tư duy phương Tây thiên về chủ biệt, tư duy phương Đông nghiêng về chủ toàn (GS. Trần Đình Hượu). Ý thức phương Đông thấm nhuần chất thơ hơn ý thức phương Tây, trừ trường hợp Hy Lạp. Văn minh phương Đông cổ xưa là văn minh làng xã, họ không đặt mục đích chinh phục thiên nhiên mà dựa vào thiên nhiên, gửi gắm tình cảm vào thiên nhiên để tồn tại và lập ra những hương ước nặng về tình để đối nhân D.D. Minh, V.T. Hoa / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 74 xử thế. Trong khi đó, nền văn minh phương Tây với đặc trưng đô thị phát triển sớm, người phương Tây đã có ý thức cạnh tranh với thiên nhiên và siêu nhiên, chinh phục thiên nhiên và chinh phục thế giới để khẳng định sức mạnh của con người lí tính. Trong khi phương Tây với truyền thống văn hóa nổi bật luôn coi trọng chủ nghĩa cá nhân và quan niệm quyền lợi cá nhân thai nghén cùng với khái niệm công dân; văn hóa phương Đông nói chung luôn xem xét con người trong tổng thể các mối quan hệ xã hội, coi trọng những vai trò gia đình và dòng họ. Tư tưởng tôn trọng gốc gác nơi đất mẹ thiên nhiên (Ấn Độ) và cội nguồn huyết thống (Trung Quốc) của người phương Đông đã dẫn đến một ý thức thuần phục gần như tuyệt đối đối với tôn ti trật tự đã được thiết lập trong chính trị và tôn giáo. Trong thần thoại phương Đông, thế lực thần thánh được phát huy tuyệt đối quyền hành, tôn ti trật tự được tuân thủ nghiêm ngặt. Đạo Phật 佛 教 của phương Đông về cơ bản là nhất quán, thông suốt, hầu như không có những “kẻ phản nghịch”; nhưng ở phương Tây, đạo Cơ đốc luôn được sửa đổi, cải cách, thậm chí ly giáo. Người phương Tây mà từ tôn giáo tới các chế độ chính trị, kinh tế đều thấm nhuần chủ nghĩa cá nhân, dĩ nhiên không thích những học thuyết luân lí đã làm thỏa mãn tinh thần triết lí phương Đông trong suốt chiều dài lịch sử. Đề cao sức mạnh của thiên nhiên và siêu nhiên, người phương Đông quan niệm con người phụ thuộc vào thiên nhiên và thế giới siêu nhiên. Phải chăng mối quan hệ tình cảm có phần huyền bí giữa con người với thiên nhiên và với thế giới siêu nhiên là lí do chính tạo ra kiểu tư duy này? Nghiên cứu lịch sử tư tưởng (tư duy) phương Đông, chúng ta thấy phần nổi trội nhất mang tính chi phối là tư tưởng Trung Quốc1; vì vậy, nghiên cứu lịch sử tư tưởng của quốc gia này cho thấy những yếu tố tiêu biểu và qua đó _______ 1 Cùng với Ấn Độ và Hy Lạp, Trung Hoa là một trong ba cái nôi của nền văn minh lớn nhất nhân loại còn tồn tại tới ngày nay. Trong các nôi ấy, văn minh Ấn Độ và Trung Quốc được phát triển liên tục trong tiến trình lịch sử. có thể sáng tỏ ... iên do chính con người gây ra. Vị thành niên là sự bất lực không thể vận dụng trí tuệ của mình một cách độc lập mà không cần sự chỉ đạo của người khác. Tình trạng vị thành niên này là do tự mình gây ra, một khi nguyên nhân của nó không phải do sự thiếu sót trí tuệ, mà do sự thiếu sót tính cương quyết và lòng can đảm, dám tự mình dùng trí tuệ phục vụ cho mình mà không cần đến sự chỉ đạo của người khác. Sapere aude! Hãy có can đảm tự sử dụng trí tuệ của chính mình!” là phương châm của Khai Sáng. và châu Âu vào cuối thế kỉ XIX, Fukuzawa nhận thức được tiến bộ của văn minh phương Tây (những nước phát triển hơn châu Á về nhiều mặt) và các nước châu Á khó có thể duy trì được nền độc lập nếu vẫn đóng cửa trước văn minh phương Tây. Theo ông, giành được quyền tự trị chưa phải đã là độc lập, mà nền độc lập thật sự chỉ có thể thành hiện thực khi trở thành một quốc gia tiên tiến và văn minh. Và nếu không có sự khai sáng và văn minh thì nền độc lập giành được cũng mau chóng mất đi và lại lệ thuộc vào các quốc gia tiên tiến khác. Nhận thức được tình trạng các nước trong khu vực châu Á mới chỉ ở mức "bán văn minh", không thể là tấm gương cho Nhật Bản học hỏi, vì vậy Fukuzawa kêu gọi nước Nhật hãy "tách ra khỏi hàng ngũ các nước châu Á, đuổi kịp và đứng vào hàng ngũ các nước văn minh phương Tây" [13]. Ông chủ trương mở cửa giao thương với phương Tây, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm quản lí xã hội của phương Tây để phát triển Nhật Bản28. Fukuzawa tin rằng giáo dục là cách duy nhất để đạt tới văn minh, bởi bản chất của văn minh là sự phát triển kiến thức và đạo đức nội tại của dân tộc: "phải có đầy đủ cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần thì mới có thể gọi là văn minh. Tuy nhiên, sự tiện nghi về mặt vật chất cũng như sự cao thượng của tinh thần con người thì không hề có giới hạn. Vì vậy gọi là “tiện nghi” hay “cao thượng” thì phải nghĩ đó là nói đến trạng thái tiến bộ để hướng tới một trình độ cao hơn. Và bởi vì tri thức và đạo đức là động lực của sự tiến bộ này, nên kết cục có thể nói văn minh chính là sự tiến bộ của tri thức và đạo đức của con người” [14, tr.95- 96]29. _______ 28 Quan điểm này của Fukuzawa đã được chứng minh bằng thực tế: Ở châu Á, chỉ có Nhật Bản và Thái Lan - hai nước chủ trương mở cửa tránh được sự xâm lược và thôn tính của các nước phương Tây. 29 Nguyên văn “In its broad sense, civilization of virtue so as to elevate human life to a higher plane. [...] [Thus] it refers to the attainment of both materia well-being and the elevation of the human spirit, [but] since what produces man’s well-being and refinement is knowledge and virtue, civilization ultimately means the progress of man’s knowledge and virtue” - Fukuzawa Yukichi - written by D.D. Minh, V.T. Hoa / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 87 Theo Fukuzawa, nền giáo dục Nho học (Kangaku) truyền thống ở Nhật Bản là sự cản trở lớn nhất của nền văn minh: nó vừa cổ hủ vừa chậm phát triển, hàng nghìn năm vẫn không thay đổi, chỉ coi trọng hình thức bên ngoài giả tạo mà coi thường chân lí và nguyên tắc. Số lượng người đi học đã ít ỏi, lại chỉ được dạy đọc/viết mà không được khuyến khích phát triển tư duy sáng tạo và độc lập (phê phán kịch liệt lối học từ chương, trích cú trước đây). Fukuzawa cho rằng, giáo dục là chìa khóa của văn minh, cốt lõi của giáo dục là thực học và tính hiệu quả của nền giáo dục cần đáp ứng yêu cầu của mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội. Mục tiêu quan trọng của giáo dục là hình thành nhân cách độc lập, bởi vì “Nền văn minh của quốc gia không thể trông cậy vào quyền lực của chính phủ mà phải quan tâm đến từng người dân. Mỗi người dân phải có trách nhiệm với việc bảo vệ, gìn giữ nền độc lập của đất nước” [15, tr.13]. Ông cũng đưa ra nguyên tắc nổi tiếng "Độc lập quốc gia thông qua độc lập cá nhân" (National independence through personal independence), tức là một xã hội muốn phát triển phải dựa trên những cá nhân có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo (individual strength - tự tin vào sức mạnh cá nhân), chứ không phải dựa vào chính phủ30. Nguyên tắc cơ bản của giáo dục là phải kết hợp khoa học phương Tây với đạo đức phương Đông. Ông kêu gọi các sĩ phu Nhật Bản làm việc theo phương châm “Coi trọng quốc gia và coi nhẹ chính phủ” [13], tự tin vào sức mạnh cá nhân mà không phụ thuộc Nishikawa Shunsaku, Fukuzawe.pdf-Foxit Reader [Fukuzawe.pdf]. 30 Nguyên văn: “Quốc dân Nhật Bản chúng ta phải xắn tay ngay vào học tập, hun đúc chí khí. Trước hết mỗi cá nhân, từng con người hãy kiên quyết tự chủ, độc lập. Có như vậy, đất nước mới giàu mạnh. Có như vậy chúng ta mới hết mặc cảm, hết sợ hãi trước các thế lực phương Tây... Mỗi người độc lập thì đất nước sẽ tự chủ, độc lập, nghĩa là vậy” (Fukuzawa Yukichi, Khuyến học hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, Nxb Iwanami Bunko Tri thức và phát triển, Nxb Trẻ (Phạm Hữu Lợi dịch). https://sachvui.com/sachvui- 686868666888/ebooks/2018/pdf/Sachvui.Com-khuyen- hoc-fukuzawa-yukichi.pdf. vào sức mạnh của người khác. Mỗi người trong xã hội, từ các học giả uyên bác, những viên chức nhà nước địa vị cao đến những nông dân nghèo và những người buôn bán nhỏ đều có thể đi học để thực hiện tốt hơn chức năng riêng của mình, từ đó đóng góp sức mình vào phát triển xã hội, chứ không nhất thiết phải học để ra làm quan theo lối suy nghĩ truyền thống của Nho học hủ lậu (tư tưởng Khai sáng của Immanuel Kant). Người dân hãy theo đuổi nền giáo dục thực học của phương Tây, dựa trên nền tảng khoa học và kỹ thuật. Phê phán nền giáo dục Nho học chú trọng cổ văn nhưng coi thường kiến thức thực tế của Trung Hoa và Triều Tiên, Fukuzawa Yukichi cho rằng 2 nước này “suốt hàng nghìn năm không hề thay đổi và vẫn quyến luyến với những phong tục tập quán cũ kĩ, khi bàn luận về giáo dục thì lên tiếng giữ gìn nền giáo dục Nho học, chỉ biết trích dẫn những lời giáo huấn “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí”, chỉ coi trọng hình thức bên ngoài giả tạo mà coi thường chân lí và nguyên tắc, mê tín hủ lậu không biết khoa học là gì lại còn kiêu căng tự phụ"[13]31. Với con mắt đại bàng, Fukuzawa Yukichi nhận thấy: "Đường giao thông trên thế giới là phương tiện để làn gió của văn minh phương Tây thổi vào phương Đông. Khắp mọi nơi, không có cỏ cây nào có thể ngăn được làn gió văn minh này"[13]. Ông đã nhìn ra cái không gian bí bách, “cổ lai hi” và đáng “xấu hổ” của Á châu mà cổ vũ người Nhật thực thi tư tưởng thoát Á. Sớm thức tỉnh trước nguy cơ mang tính thời đại để nhanh chóng tiếp nhận nền văn hóa phương Tây với tính ưu việt của nó trên các _______ 31 Tuy nhiên, việc đả kích Nho học ở Nhật Bản thời kỳ này cũng có hạn chế: do bắt đầu từ cái nhìn "sùng bái một chiều về nền văn minh vật chất phương Tây cũng như phủ nhận một chiều những giá trị thực sự của dân tộc mình", đi tới nguy cơ đánh mất chính mình trong công cuộc “văn minh Âu hóa” đầy rẫy bi kịch. Ánh hào quang của các tiêu chí phương Tây tuy có nhiều giá trị gợi mở nhưng cũng không ít hiểm họa mà đáng sợ nhất là tinh thần sùng bái vật chất, lối sống nhân danh “đấu tranh sinh tồn”, “chủ nghĩa tinh hoa”, “chủ nghĩa dân tộc cực đoan”,..vốn có quan hệ khá nhiều với các chính sách xâm lược thực dân, chế độ phát xít. D.D. Minh, V.T. Hoa / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 88 lĩnh vực công nghiệp, khoa học kỹ thuật, sự hùng cường về cả kinh tế và quân sự; cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân mặc dù cách đây 150 năm nhưng vẫn được các học giả trong và ngoài Nhật Bản nhắc đến như một mốc son đưa quốc gia này trở thành cường quốc ngang hàng với các nước tư bản Âu - Mỹ cuối thế kỉ XIX. Cuộc cải cách toàn diện này đã tạo ra những tiền đề thuận lợi cho sự giải phóng những tiềm năng khổng lồ của đất nước “Mặt trời mọc”. Bản chất của 30 năm Duy tân Minh Trị là quá trình dân tộc Nhật Bản nhìn văn minh châu Âu để tự khai sáng tinh thần cho chính mình. Từ bài học thức tỉnh về “Thoát Á luận”, Nhật Bản đã "thoát Á" thành công khi biết phát huy tinh thần quả cảm, dám xả thân của các võ sĩ đạo, biết giữ lấy những giá trị đạo đức thuần túy "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín" của Khổng giáo trong khi loại bỏ phần chính trị và các thiết chế bắt nguồn từ đó, nhất là hệ thống thi cử từ chương đã đè nặng trong lịch sử. Cuộc cải cách đã thu được thành công và tiếng vang lớn, tạo cơ sở vững chắc giúp Nhật Bản phát triển xứng tầm một nước văn minh, hiện đại, có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới. Cuộc cách mạng trong tư tưởng luôn là màn dạo đầu của cuộc cách mạng trong thực tiễn. Đối với Nhật Bản, cách ly/cắt đứt mối liên hệ về mặt tư duy với Trung Quốc và chuyên tâm vào nỗ lực hiện đại hóa đất nước, hội nhập với phương Tây là một quyết định dũng cảm và đầy lí trí. Người Nhật đã ý thức được rằng: Điều quan trọng nhất là phải thoát khỏi cái văn hóa của Trung Quốc tức là văn hóa Khổng giáo. Cái văn hóa đó nó tha hóa người trí thức, nó không nhìn nhận sự suy nghĩ và hành động độc lập của cá nhân như là một giá trị. Trái lại nó coi cái chữ “trung” (trung thành) với nhà cầm quyền như một giá trị cơ bản”. Trên nền của tư duy lí, người Nhật Bản đã sớm nhận thức được rằng: suy cho cùng, phát triển chỉ đạt được từ đổi mới và sáng tạo. Và những cản trở đáng kể nhất cho sự đổi mới và sáng tạo là những cản trở nội tại, nằm ngay trong chính bản thân mình để giải phóng năng lực mọi mặt của đất nước cho phát triển, đương đầu và thích nghi được với một thế giới đầy biến động và thay đổi không ngừng. Và quan trọng hơn: không sa vào những bẫy vô hình, do sự vô tình hay cố ý của con người hoặc ngẫu nhiên của lịch sử tạo ra. Với tư duy đi trước thời đại, người Nhật cũng tỉnh táo nhận ra rằng: “Thoát Á” hay “thoát Trung” nghĩa là thoát cái quê mùa lạc hậu, hạn chế của các nước châu Á nhưng vẫn giữ lại cái gốc tinh hoa của mình trong văn hóa Khổng giáo; du nhập khoa học kỹ thuật của Tây phương nhưng vẫn giữ bản sắc của Nhật Bản. Triều đình và những trí thức Nhật Bản, một mặt đã nhận thức được những hạn chế của nền giáo dục Nho giáo trong thời kỳ mới, mặt khác họ vẫn thấy được giá trị của Nho giáo trong việc giáo dục đạo đức, nhất là giáo dục lòng trung thành, xây dựng đất nước Nhật Bản theo chủ trương “nước giàu binh mạnh”. Trong bối cảnh của nước Nhật thế kỉ XIX, những tư tưởng cải cách của Fukuzawa Yukichi hết sức sâu sắc, thiết thực, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn lịch sử Nhật Bản lúc đương thời và đóng vai trò quan trọng, tạo tiền đề tư tưởng cho công cuộc Duy Tân Minh Trị. Thoát Á luận của Yukichi trở thành tác phẩm làm thay đổi lịch sử nước Nhật, thay đổi tư duy của cả một dân tộc để xây dựng nước Nhật hiện đại và cho thấy sự mạnh mẽ, vĩ đại của một dân tộc đã dũng cảm không chịu đầu hàng số phận và dám đối mặt với những thách thức của lịch sử để vươn lên hàng đầu thế giới. Kinh nghiệm lịch sử cũng cho thấy: trước mỗi giai đoạn có tính bước ngoặt, lịch sử luôn đặt ra cho mỗi quốc gia-dân tộc những nhiệm vụ chiến lược và thách thức to lớn; đòi hỏi sự quyết tâm, ý chí, sự chung sức đồng lòng (thậm chí là sự hy sinh) của cả một dân tộc để vượt qua và tiếp tục đi lên. Để đưa công cuộc Cải cách Minh Trị thành công, người Nhật đã sớm thức tỉnh yêu cầu phải vượt qua những tư tưởng nhận thức lạc hậu để đón nhận những tư tưởng mới, tiến bộ, hiện đại và tư duy phát triển để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, tụt hậu và thông qua những chính sách cải cách tiến bộ để giải phóng năng lực mọi mặt của đất nước. Vấn đề đổi mới tư duy D.D. Minh, V.T. Hoa / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 89 nhận thức về hội nhập và phát triển được người Nhật xác định là khâu đột phá, có ý nghĩa mở đường cho những biến đổi xã hội mạnh mẽ thời kỳ Minh Trị. Đồng thời, tư tưởng cải cách, tiếp thu văn minh nhân loại đi đôi với giữ gìn, phát huy giá trị tinh hoa của dân tộc; kết hợp tinh hoa nội ngoại để xây dựng, phát triển đất nước của Nhật Bản vẫn là bài học cho các quốc gia trên con đường hiện đại hóa, xây dựng phát triển đất nước hôm nay. Tài liệu tham khảo [1] Lý Minh Tuấn, Tứ thư bình giải, NXB Tôn giáo, 2011. [2] Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Kim, “Một số chuyên đề lịch sử thế giới”, tập 2, NXB. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2008. [3] Fukuzawa Yukichi, Phúc Ông tự truyện (Phạm Thu Giang dịch), NXB.Thế giới, 2017. [4] George.B.Sansom, Lược sử văn hóa Nhật Bản, tập 2, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989. [5] Trung Quốc cận đại giản sử, NXB. Nhân dân Thượng Hải, 1975. [6] Phan Đại Liên, Lịch sử Nhật Bản, NXB. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1995. [7] Fukuzawa Yukichi, (Phạm Hữu Lợi dịch), “Khuyến học” hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, Nxb Iwanami Bunko Tri thức và phát triển, NXB Trẻ, 2017. [8] Vũ Khiêu, Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997. [9] Francois Jullien, (Nguyên Ngọc dịch), Minh triết phương Đông và Triết học phương Tây hay thể tạng khác của Triết học, editions du Seuil, Février, 1998. [10] Nguyễn Thị Hồng Vân, Cơ cấu xã hội Nhật Bản thời Cận thế, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4/2009. [11] Đào Trinh Nhất, Nhật Bản Duy Tân 30 năm, Đông Phương xuất bản, Sài Gòn, 1936. [12] Liên hiệp Các Hội KH&KT Việt Nam, Tạp chí Nhà quản lí, 27(9)/2005. [13] Fukuzawa Yukichi, (Hải Âu, Kuriki Seiichi dịch) “Thoát Á luận”, 1885. cuu/thoat_a_luan.html [14] Fukuzawa Yukichi, Lê Huy Vũ Nam, Nguyễn Anh Phong dịch), Bàn về văn minh (First published in 1875; NXB. Thế giới, 2018. [15] Fukuzawa Yukichi, (Phạm Hữu Lợi dịch), Khuyến học hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, NXB. Iwanami Bunko Tri thức và phát triển, NXB. Trẻ, 2017.
File đính kèm:
- minh_tri_duy_tan_cuoc_cach_mang_tu_tuong_cua_nguoi_nhat_va_t.pdf