Máy siêu vú tự động 3D
Một thống kê gần đây cho thấy chương trình
tầm soát ung thư vú bằng nhũ ảnh ở Châu Âu đã
làm giảm tử suất do ung thư vú 26% ở những
phụ nữ được mời tham gia tầm soát và theo dõi
trong 6-11 năm(6).
Điều này có thể giải thích một phần bởi những
liệu pháp mới tuy nhiên có bằng chứng rằng những
tiến bộ trong việc phát hiện sớm có thể đóng vai trò
quyết định nhất(7). Nhũ ảnh có độ nhạy, độ đặc hiệu
và độ tin cậy tuyệt vời(2,3). Tuy nhiên, độ nhạy của
nhũ ảnh thấp đối với vú với mô sợi tuyến có đậm độ
cao trên nhũ ảnh, phụ nữ trẻ hơn 50 tuổi và ung thư
vú kích thước nhỏ. Đây là hạn chế chính của nhũ
ảnh và không phải là lựa chọn số một(4). Các hạn
chế khác của nhũ ảnh như sử dụng tia X, ép đau
làm phụ nữ không chấp nhận thực hiện tầm soát
thường xuyên. Hơn nữa, siêu âm tuyến vú bằng tay
thường quy – HHUS (hand – held ultrasound ) là
phương tiện chẩn đoán hình ảnh tin cậy và được
chấp nhận phổ biến nhất đối với những phụ nữ có
tổn thương vú nghi ngờ trên nhũ ảnh hoặc trên lâm
sàng(11). Mặc dù có nhiều phương tiện bổ trợ cho
nhũ ảnh, siêu âm vẫn được chỉ định nhiều nhất do
khả năng tiếp cận dễ dàng và chi phí thấp. Tuy
nhiên, nó phụ thuộc nhiều vào người làm siêu âm,
tốn thời gian và khả năng tái sử dụng thấp(1).
Để vượt qua những khuyết điểm cố hữu của HHUS,
khái niệm siêu âm tự động toàn bộ thể tích tuyến vú
- ABVS đã ra đời vào cuối thập niên 70(5). Tuy nhiên,
chỉ với những tiến bộ gần đây của kỹ thuật này mới
đưa đến sự quan tâm về vai trò của ABVS đối với
tổn thương tuyến vú.
Các điểm yếu như lệ thuộc người vận hành,
độ lặp lại kém, dễ bỏ sót của siêu âm thường quy
được khắc phục. Các dữ liệu khối với độ phân giải
cao được lưu trữ và đánh giá tại chỗ hoặc đối chiếu
với các trung tâm khác. Với khả năng và chất lượng
hình ảnh vượt trội của ABVS, nó đã được đề xuất
như là một công cụ sàng lọc thích hợp cho ung thư
vú.
Tại Hoa Kỳ, năm 2012 hệ thống ABVS đã được
FDA chấp thuận cho việc tầm soát ung thư vú như
một phương tiện tầm soát bổ sung cho chụp nhũ
ảnh với những phụ nữ có mô vú dày đặc
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Máy siêu vú tự động 3D
VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 276 MÁY SIÊU VÚ TỰ ĐỘNG 3D Automated breast volume scanner (abvs) BÙI THỊ THANH TRÚC1, ĐỖ BÌNH MINH2 MD Ellen B. Mendelson ( Chair, subcommittee on BIRADS – US 2013® 1 BSCKI. Khoa Nội soi - Siêu âm - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 2 BS. Phó Trưởng Khoa Nội soi - Siêu âm, Phụ trách Khoa - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM MỞ ĐẦU Một thống kê gần đây cho thấy chương trình tầm soát ung thư vú bằng nhũ ảnh ở Châu Âu đã làm giảm tử suất do ung thư vú 26% ở những phụ nữ được mời tham gia tầm soát và theo dõi trong 6-11 nĕm(6). Điều này có thể giải thích một phần bởi những liệu pháp mới tuy nhiên có bằng chứng rằng những tiến bộ trong việc phát hiện sớm có thể đóng vai trò quyết định nhất(7). Nhũ ảnh có độ nhạy, độ đặc hiệu và độ tin cậy tuyệt vời(2,3). Tuy nhiên, độ nhạy của nhũ ảnh thấp đối với vú với mô sợi tuyến có đậm độ cao trên nhũ ảnh, phụ nữ trẻ hơn 50 tuổi và ung thư vú kích thước nhỏ. Đây là hạn chế chính của nhũ ảnh và không phải là lựa chọn số một(4). Các hạn chế khác của nhũ ảnh như sử dụng tia X, ép đau làm phụ nữ không chấp nhận thực hiện tầm soát thường xuyên. Hơn nữa, siêu âm tuyến vú bằng tay thường quy – HHUS (hand – held ultrasound ) là phương tiện chẩn đoán hình ảnh tin cậy và được chấp nhận phổ biến nhất đối với những phụ nữ có tổn thương vú nghi ngờ trên nhũ ảnh hoặc trên lâm sàng(11). Mặc dù có nhiều phương tiện bổ trợ cho nhũ ảnh, siêu âm vẫn được chỉ định nhiều nhất do khả nĕng tiếp cận dễ dàng và chi phí thấp. Tuy nhiên, nó phụ thuộc nhiều vào người làm siêu âm, tốn thời gian và khả nĕng tái sử dụng thấp(1). Để vượt qua những khuyết điểm cố hữu của HHUS, khái niệm siêu âm tự động toàn bộ thể tích tuyến vú - ABVS đã ra đời vào cuối thập niên 70(5). Tuy nhiên, chỉ với những tiến bộ gần đây của kỹ thuật này mới đưa đến sự quan tâm về vai trò của ABVS đối với tổn thương tuyến vú. Các điểm yếu như lệ thuộc người vận hành, độ lặp lại kém, dễ bỏ sót của siêu âm thường quy được khắc phục. Các dữ liệu khối với độ phân giải cao được lưu trữ và đánh giá tại chỗ hoặc đối chiếu với các trung tâm khác. Với khả nĕng và chất lượng hình ảnh vượt trội của ABVS, nó đã được đề xuất như là một công cụ sàng lọc thích hợp cho ung thư vú. Tại Hoa Kỳ, nĕm 2012 hệ thống ABVS đã được FDA chấp thuận cho việc tầm soát ung thư vú như một phương tiện tầm soát bổ sung cho chụp nhũ ảnh với những phụ nữ có mô vú dày đặc. ABVS LÀ GÌ? ABVS là chữ viết tắt của Automated Breast Volume Scan, là máy siêu âm tự động toàn bộ thể tích tuyến vú. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 277 Hình 1. Hệ thống ACUSON S2000™ Automated Breast Volume Scanner, với đầu dò khối 14L5BV gắn liền với cánh tay cơ khí. Hình 2. Đầu dò khối 14L5BV với 14 MHz, 15.4cm, và 768 chấn tử LỊCH SỬ ABVS Trên thế giới Máy siêu âm vú tự động được giới thiệu vào thập niên 70 của thế kỉ XX bởi Maturo và cộng sự. Sự quan tâm về những hình ảnh 3 chiều của vú đã tĕng lên từ những nĕm đầu của thập niên 1990 sau sự phát triển mạnh mẽ của các chương trình vi tính. Hình ảnh 3D hiện tại đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Hiện tại, khả nĕng của những khảo sát tuyến vú có sự hỗ trợ của máy tính được cung cấp bởi nhiều hệ thống siêu âm chẩn đoán. Một ví dụ của thiết bị quét 3D tự động hiện đại là hệ thống Acuson S2000 ABVS (Automated Breast Volume Scan) từ Siemens AG. Ở Châu Âu, Siemens AG đã phát triển hệ thống Acuson S2000 ABVS của họ, dựa trên kỹ thuật U- Systems, và đây là sản phẩm thương mại đầu tiên loại này trên thị trường Nga (hình 1). Máy siêu âm này sử dụng một nguyên lý khác biệt hoàn toàn để có được những hình ảnh vú tự động. Nó được trang bị một đầu dò tần số cao đặc biệt và trường quan sát rộng, đầu dò có bản lớn (15x17cm) được kết nối với máy siêu âm như là một thiết bị riêng lẻ. Đầu dò này có kỹ thuật và hình dạng tương tự với tấm ép của máy nhũ ảnh tiêu chuẩn. Những hệ thống tự động 3D đã được chứng nhận ở Mỹ và Châu Âu, dẫn đến những nghiên cứu sàng lọc nĕm 2012 về phát hiện ung thư vú như là một thiết bị bổ trợ cho nhũ ảnh và dùng để tầm soát ở những phụ nữ có mô vú dày đặc mà không có triệu chứng lâm sàng. Ở các phòng khám ở Châu Âu và Mỹ, một protocol thống nhất về khảo sát tuyến vú có sự trợ giúp của máy tính đã được sử dụng, bao gồm 3 lần quét cắt liên tiếp mỗi bên vú (một ở mặt phẳng coronal và hai ở các mặt phẳng chếch). Mỗi lần quét tự động kéo dài trung bình 1 phút. Bản đầu dò (transducer paddle) được đặt lên vú với một lực ép nhẹ để cố định tuyến vú. Tùy theo kích cỡ của vú, có thể đòi hỏi phải quét nhiều hơn một lần để bao phủ được toàn bộ vùng quan tâm. Tổng thời gian trung bình để hoàn tất khảo sát là 15 phút. Sự hợp nhất cho phép những hình ảnh vú tiêu chuẩn có thể có được mà không cần quá nhiều kinh nghiệm và bằng cấp của bác sỹ và kỹ thuật viên, và không giống như HHUS, khảo sát có thể thực hiện bởi những kỹ thuật viên được huấn luyện, điều này làm giảm áp lực trên người bác sỹ. Sau khi ghi hình, dữ liệu 3D được lưu trữ trên ổ đĩa cứng của thiết bị và được chuyển đến trạm đọc (workstation) đặc biệt để bác sỹ sẽ đọc và phân tích sau đó. Tại Việt Nam *Nĕm 2015, Phòng khám Đa khoa Hữu Nghị - TP. Hồ Chí Minh là phòng khám đa khoa tiên phong tại Việt Nam đã mạnh dạn đầu tư hệ thống máy siêu âm Acuson S2000 của Siemens để tầm soát ung thư vú. *Thiết bị tầm soát ung thư vú Invenia TM ABUS được Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City (Hà Nội) và Vinmec Central Park (TP HCM) đưa về ứng dụng từ tháng 11/2016. *Tại TP. Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 5 nĕm 2017, Trung tâm Y khoa MEDIC Hòa Hảo ra mắt hệ thống ACUSON S2000 ABVS của Siemens Healthineers. *Tại Đà Nẵng, lễ ra mắt hệ thống quét khối 3D nhũ tự động ABVS tích hợp siêu âm đàn hồi mô định lượng ARFI được tổ chức vào ngày 12 tháng 8 nĕm 2017 tại Bệnh Viện Phụ Nữ Đà Nẵng. VÚ ... ng dụng lâm sàng của máy siêu âm vú tự động trong việc phát hiện và chẩn đoán tổn thương vú so với siêu âm vú thường quy” của các tác giả S.-K. Jeh và cs; Seoul/KR. Mục tiêu nghiên cứu Trong nghiên cứu này, tác giả chọn những bệnh nhân đã có kế hoạch sinh thiết vú và thực hiện siêu âm vú bằng máy ABVS cho những bệnh nhân này- bao gồm cả những bệnh nhân khám tầm soát không có triệu chứng lâm sàng và những bệnh nhân có triệu chứng. Để so sánh tỷ lệ phát hiện và khả nĕng chẩn đoán của hai hệ thống siêu âm HHUS và ABVS, các tác giả đánh giá hình ảnh của HHUS và ABVS đối với những tổn thương vú đã có bằng chứng giải phẫu bệnh này. Kết luận: Trong nghiên cứu này với tất cả những tổn thương đều có kết quả giải phẫu bệnh, khả nĕng chẩn đoán của ABVS cao hơn đáng kể so với HHUS, đặc biệt là về độ đặc hiệu. Tất cả những tổn thương vú ác tính được quan sát trên HHUS đều được nhận ra trên ABVS, mặc dù vài tổn thương nhỏ bị bỏ sót. Kích thước của tổn thương và xếp loại BI-RADS càng lớn, tỷ lệ phát hiện tổn thương của ABVS càng cao. Với nhiều phần bổ trợ, máy siêu âm vú tự động 3D sẽ là một thiết bị chẩn đoán hứa hẹn thay thế HHUS. 2. Nghiên cứu “ABVS có phải là một phương tiện tầm soát ung thư vú có thể sử dụng được không” của các tác giả T. Seaton, E. Hughes, S. Pandya, F. Mulenga, K. Satchithananda, W. E. Svensson, D. Cunningham, A. K. Lim; London/UK. Kết luận: ABVS đã vượt qua những vấn đề phụ thuộc người vận hành và cho phép tái sử dụng, hình ảnh được chuẩn hóa. Tính tiện lợi và chất lượng hình ảnh của ABVS rất tốt và nó được đề xuất là phương tiện tầm soát ung thư vú thích hợp(9-11). Ở Mỹ, hệ thống somo-v ABUS đã nhận được sự chấp thuận của FDA 510(k) [Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (Food and Drug Administration)] đối với tầm soát ung thư vú như là một phương tiện hỗ trợ cho nhũ ảnh đối với những phụ nữ không có triệu chứng và có mô vú dày. KỸ THUẬT Bước 1: Đặt bệnh nhân Tư thế bệnh nhân: Bệnh nhân nằm ngửa, đặt gối dưới lưng. Tư thế tay: Đặt cánh tay bệnh nhân sao cho mô vú trải hết thành ngực. Vị trí của tay và cơ thể bệnh nhân sẽ thay đổi theo kích cỡ vú. Bước 2: Chuẩn bị bệnh nhân Máy ABVS được thiết kế để sử dụng lotion thay vì dung gel truyền thống vì lotion có ít bọt khí và do đó cho hình ảnh tối ưu. Dùng một lượng vừa đủ lotion trải đều trên vú với cây đè lưỡi. Thêm một ít lotion ở vùng núm vú để có được hình ảnh đẹp nhất. Bước 3: Ghi hình ƯU ĐIỂM Tầm soát cho phụ nữ ở mọi lứa tuổi (nhũ ảnh: phụ nữ >40t), không ép, không đau, không sử dụng bức xạ. - Tư thế bệnh nhân nằm ngữa giống với tư thế phẫu thuật, trong khi BN đứng đối với nhũ ảnh và nằm sấp đối với MRI. Các lát coronal sẽ được sử dụng để lập kế hoạch phẫu thuật. - ABVS tầm soát tốt với mô vú dày đặc, là hạn chế của nhũ ảnh. - Tần số 14 MHZ giúp phát hiện vi vôi hóa 0.5- 1mm. - Khẩu độ rộng đầu dò thu được toàn bộ thể tích vú trong một lần quét trong khi nhũ ảnh thường bỏ sót một số khu vực đáng quan tâm của vú vì đè ép mang tính chủ quan, phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của kỹ thuật viên, khó khĕn đối với những phụ nữ có đặt túi ngực - Sàng lọc cho phụ nữ trẻ, theo dõi u lành tính.- Làm rõ toàn bộ khối u trước sinh thiết/phẫu thuật.- Ước lượng chính xác vị trí, kích thước khối u.- Phát hiện khối u đa ổ, đa trung tâm. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 279 - Phát hiện các khối u bị che khuất, vì mô vú đặc có thể gây âm tính giả và ẩn giấu các dấu hiệu ác tính trên nhũ ảnh. - Hỗ trợ công nghệ loại bóng núm vú và xảo ảnh phản chiếu liên tiếp. - CT và MRI không thể so sánh với nhũ ảnh vì hình ảnh không tương thích. - Với tiến bộ của siêu âm vú tự động và cải tiến công nghệ 3D cùng tư thế BN và việc đè nén tương tự, ABVS có thể so sánh với nhũ ảnh. - ABVS lợi thế với vú mỡ GIỚI HẠN CỦA KỸ THUẬT ABVS Kỹ thuật ABVS có một vài hạn chế. 1. Siêu âm tuyến vú tự động giới hạn ở những phụ nữ có vú lớn – gọi là ptosis[1,2]. Isobe và cs[3] đã chỉ ra những khó khĕn trong việc quét những tuyến vú có kích thước lớn và vùng sau núm vú mặc dù bề mặt quét của máy khá lớn. Hơn nữa, họ cho là ngay cả với kỹ thuật quét tối ưu, những vùng ngoại vi của nhu mô vú cũng không được bao phủ hoàn toàn bởi ABVS[3]. Do đó, vài vùng của vú, như những vùng bên nằm sâu, không được quan sát đầy đủ và bao phủ hoàn toàn khi sử dụng hệ thống ABVS. Trường quét 17cm không cho phép bao gồm toàn bộ thể tích tuyến vú trong một lần quét đơn độc ở những bệnh nhân có cup size F hoặc lớn hơn. Điều này làm giảm giá trị chẩn đoán của ABVS khi so sánh với siêu âm hai chiều quy ước (conventional two-dimensional ultrasound). Điều này chỉ phát sinh với mặt phẳng coronal, trong đó những phần ngoài của tuyến vú không được đè ép tốt và có thể không được khảo sát tốt, nhưng có thể sử dụng vài hướng khảo sát đặc biệt - bệnh nhân nằm nghiêng để quét phần phía ngoài của mô tuyến hoặc đẩy mô vú ra ngoài để quét những phần trong của tuyến vú. Tương tự, sử dụng kỹ thuật di chuyển vú xuống dưới để quét phần trên hoặc di chuyển lên trên để quét phần dưới. Nếu một tổn thương được phát hiện ở các cung phần tư dưới hoặc trong trên nhũ ảnh, nó sẽ có thể được khảo sát bổ sung bằng cách quét từ thế mediolateral hoặc chỉ quét riêng phần trong của vú. 2. ABVS ít có khả nâng khảo sát vùng nách nhất là phụ nữ gầy, mặc dù điều này rất quan trọng trong chẩn đoán ung thư vú. Do đó, cần làm thêm siêu âm quy ước 2D vùng nách nếu siêu âm ABVS có nghi ngờ. Mặt hạn chế này của ABVS đã được ghi nhận bởi tất cả những nhà nghiên cứu, và điều này đã làm giới hạn khả nĕng sử dụng phương pháp này trong tầm soát. Theo kinh nghiệm lâm sàng, đã gặp một trường hợp chẩn đoán ung thư vú đa ổ ở vùng hố nách bị âm tính giả. Phân tích hồi cứu những dãy sắp xếp của các dữ liệu siêu âm đã được lưu trữ đã cho thấy khối u nằm ngoài trường khảo sát. Không thể bao phủ vùng nách hoàn toàn khi quét toàn bộ thể tích tuyến vú, và do đó chúng ta không thể thấy khối u từ những dữ liệu 3D. Để tránh những trường hợp âm tính giả như vậy, bệnh nhân nên được khảo sát vùng nách bằng siêu âm 2D quy ước trước, rồi khảo sát bằng ABVS sau. 3. Ngoài ra, xảo ảnh bóng lưng xảy ra ở vùng sau núm vú mặc dù đã có thuật toán đặc biệt (công cụ làm giảm bóng lưng núm vú có khả nĕng chỉnh sửa - adaptive nipple shadow reduction tool) được sử dụng để làm giảm bóng lưng núm vú và mở rộng đến một mức độ nào đó ở những vùng còn lại của thể tích tuyến vú. Do đó, một vùng nào đó của nhu mô vú có thể bị mất dữ liệu. Điều này có thể là giảm tiềm nĕng chẩn đoán so với siêu âm 2D thông thường (HHUS - handheld ultrasound). Như đã đề cập ở trên, một kỹ thuật đặc biệt để có được dữ liệu thể tích đã được đề nghị sử dụng. Định vị chức nĕng hoặc hoạt động của một bên cơ thể (lateralization) tối đa của núm vú được dùng để tránh những xảo ảnh này và làm giảm những vùng không nhìn thấy. 4. Trong suốt thời gian quét tự động, những xảo ảnh do cử động hoặc nói chuyện sẽ xuất hiện trong vài trường hợp. Sự thiếu tiếp xúc của màng quét trên da của tuyến vú có thể gây ra vài xảo ảnh trong vùng câm (in the so-called “dumb” zone), ví dụ như vùng sẹo biến dạng của vú sau phẫu thuật cắt bướu hoặc phẫu thuật hình rẽ quạt (sectoral resection), vùng co kéo nghiêm trọng của núm vú và biến dạng vú trong ung thư vú xâm nhiễm, những trường hợp đặt túi ngực. Trong những trường hợp này, chúng ta nên khảo sát bằng kỹ thuật 2D tiêu chuẩn. 5. Kỹ thuật ABVS mặc dù có độ nhạy cao nhưng lại có độ đặc hiệu thấp với nhiều trường hợp dương tính giả. Nhiều trường hợp phải mất thời gian khảo sát siêu âm lại lần thứ hai. Do thiếu những tiêu chuẩn mô tả được chuẩn hóa và có những xảo ảnh về kỹ thuật trong bộ dữ liệu thể tích nên đã dẫn đến độ đặc hiệu thấp là 52,8%. Trong tất cả các nghiên cứu, tỷ lệ ca đối chứng không phải là đại diện cho toàn thể dân số. Do đó, kết quả liên quan đến độ nhạy, độ đặc hiệu, và tỷ lệ phải siêu âm lại lần hai không thể áp dụng cho dân số chung và do đó phải cẩn thận khi diễn giải kết quả này. Vấn đề này có thể được giải quyết qua lần khảo sát thứ hai bởi một bác sỹ khác. Mặc dù có nhiều thuận lợi đã được biết, kỹ thuật ABVS vẫn là một kỹ thuật tốn thời gian hơn là siêu âm 2D quy ước. Kỹ thuật này đòi hỏi huấn luyện không chỉ là bác sĩ chẩn đoán hình ảnh mà còn cả điều dưỡng và phụ tá để làm giảm áp lực kỹ thuật trên bác sĩ. Một số trường hợp làm ABVS đã VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 280 chỉ ra rằng siêu âm vú 3D ABVS mất ít thời gian hơn siêu âm 2D quy ước. Nếu có nhiều sang thương ở tuyến vú, thời gian khảo sát sẽ kéo dài. Với kỹ thuật siêu âm 3D, những vấn đề về lưu trữ thông tin kỹ thuật số được đặt ra. Thể tích trung bình của một khảo sát trung bình là 2G do phải duy trì thông tin cắt lớp của 6 chiều thế cơ bản. Tất cả những yếu tố được đề cập ở trên cho thấy rằng hiện tại ABVS phải được xem xét như một tiếp cận thử nghiệm. ABVS cần thời gian để được chấp nhận trong thực hành y khoa. Để thúc đẩy kỹ thuật này, chắc chắn cần thêm nhiều nghiên cứu, những nghiên cứu tiến cứu với đoàn hệ bệnh nhân lớn hơn, và một thiết kế nghiên cứu đa trung tâm. KẾT LUẬN ABVS là một phương pháp có thể thực hiện được mà trong tương lai có thể được hợp nhất vào quy trình làm việc của một trung tâm ung thư vú. ABVS bảo đảm sự an toàn cao cho bệnh nhân vì không có nguy cơ phơi nhiễm tia phóng xạ ion hóa và không sử dụng chất tương phản. ABVS là phương pháp có độ nhạy cao để phát hiện ung thư vú cả bằng hiện tượng co kéo và những xáo trộn cấu trúc thấy được trong toàn bộ tuyến vú. Phụ nữ có mô vú dày đặc có thể được hưởng lợi từ ABVS vì hiệu quả của quy trình được cải thiện và không bị phụ thuộc người vận hành. ABVS được đề xuất sử dụng cùng với nhũ ảnh để nâng dộ nhạy và độ đặc hiệu của việc phát hiện ung thư vú. ABVS có nhiều ưu điểm so với HHUS vì nó ít phụ thuộc người vận hành và có thể tái sử dụng nhiều lần. Một đầu dò tần số cao có độ mở lớn đặc biệt (special wide aperture high-frequency probe) cung cấp độ tương phản và chất lượng hình ảnh tốt, và với sự trợ giúp của nó, vị trí của những tổn thương có thể được xác định chính xác hơn bằng cách ghi nhận hình ảnh của toàn bộ tuyến vú. Những bệnh nhân có khối u vú ác tính lớn hơn 5cm cần hóa trị tân hỗ trợ thì có thể được hưởng lợi tự kỹ thuật tự động này bởi vì thiết bị siêu âm bằng tay có bề mặt (footprint) nhỏ hơn (5cm) và do đó bị giới hạn trong việc đánh giá sự lan rộng của bệnh. Với kỹ thuật ABVS, hình ảnh cắt lớp giúp lập kế hoạch phẫu thuật có thể có được dễ dàng hơn. Sự ghi hình với ABVS có thể được thực hiện hiệu quả với người trợ giúp y khoa. Việc đọc lại kết quả lần thứ hai bởi những người khảo sát thêm và đánh giá trong quá trình theo dõi không phải là vấn đề lớn và điều đó thì có vai trò quan trọng trong các chương trình tầm soát. Hơn nữa, ABVS cho phép trả kết quả chậm bất cứ lúc nào cần. Những lát cắt coronal của ABVS có thể hỗ trợ việc sinh thiết chính xác hoặc lập kế hoạch phẫu thuật. Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng ngày nay nhũ ảnh và ABVS có thể hợp nhất trong thực hành ở những trung tâm ung bướu và những bệnh viện đa khoa. Để thúc đẩy kỹ thuật này chắc chắn cần thêm nhiều nghiên cứu, những nghiên cứu tiến cứu với đoàn hệ bệnh nhân lớn hơn, và một thiết kế nghiên cứu đa trung tâm. Người ta có thể dễ dàng tưởng tượng trong tương lai, có thể sau khi được cải thiện hơn, kỹ thuật này sẽ được sử dụng trong tầm soát những bệnh nhân trẻ hơn, dưới 40 tuổi và những phụ nữ có mô vú dày đặc, và những khảo sát thêm như CT, MRI và nhũ ảnh sẽ chỉ dành riêng cho những trường hợp mà dữ kiện siêu âm không kết luận được. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Berg WA. Tailored supplemental screening for breast cancer: what now and what next? AJR Am J Roentgenol 2009; 192:390-9. 2. Duijm LE, Louwman MW, Groenewoud JH, van de Poll-Franse LV, Fracheboud J, Coebergh JW: Inter-observer variability in mammography screening and effect of type and number of readers on screening outcome. Br J Cancer 2009, 100(6):901-907 3. Independent UK Panel on Breast Cancer Screening: The benefits and harms of breast cancer screening: an independent review. Lancet 2012, 380(9855):1778-1786. 4. Kolb TM, Lichy J, Newhouse JH. Comparison of the performance of screening mammography, physical examination, and breast US and evaluation of factors that influence them: an analysis of 27, 825 patient evaluations. Radiology 2002; 225: 165-75. 5. Maturo VG, Zusmer NR, Gilson AJ, Smoak WM, Janowitz WR, Bear BE, Goddard J, Dick DE: Ultrasound of the whole breast utilizing a dedicated automated breast scanner. Radiology 1980, 137(2):457-463. 6. Njor S, Nyström L, Moss S, Paci E, Broeders M, Segnan N, Lynge E; Euroscreen Working Group. Breast cancer mortality in mammographic screening in Europe: a review of incidence- based mortality studies. J Med Screen. 2012; 19 Suppl 1: 33-41. 7. Parkin DM, Fernandez LM: Use of statistics to assess the global burden of breast cancer. Breast J 2006, 12(1): S70-80. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 281 8. S.-K. Jeh et al., Clinical Utility of Automated Breast ultrasonography in detecting and diagnosing breast lesions compared to handheld ultrasonography, ECR 2014. 9. T. Seaton ET AL., Is Automated Breast Volume Sonography (ABVS) a viable tool for breast cancer screening?, ECR 2014. 10. Veronika Gazhonova, 2015, 3D Automated Breast Volume Sonography, Springer, 133 pages. 11. Zonderland HM, Coerkamp EG, Hermans J, van de Vijver MJ, van Voorthuisen AE: Diagnosis of breast cancer: contribution of US as an adjunct to mammography. Radiology 1999, 213 (2):413- 422.
File đính kèm:
- may_sieu_vu_tu_dong_3d.pdf