Mấy đặc ddiemr diễn ngôn Nam tính - Nữ tính trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII - Nửa đầu thế kỉ XIX
Sự chồng lấn phức tạp của các thiết chế quyền lực trong bối cảnh lịch sử đặc
biệt đã khiến văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX có sự sản sinh và hoán
chuyển các diễn ngôn một cách mau lẹ. Diễn ngôn giới hay diễn ngôn nam tính – nữ tính
mặc dù đã được sản sinh và được củng cố lâu dài trong suốt các thời kỳ lịch sử với đặc
điểm chung là duy trì trật tự ưu thế, thống trị của nam tính (đi kèm là chế độ gia trưởng /
nam trị) và vị thế tiêu cực, tòng thuộc của nữ tính; song đến giai đoạn này, đã có sự
chuyển di, hoán vị theo chiều hướng ngược lại: diễn ngôn nữ tính dần khẳng định được vị
thế và thoát khỏi phần nào sức chế ngự của diễn ngôn nam quyền đang suy yếu.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mấy đặc ddiemr diễn ngôn Nam tính - Nữ tính trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII - Nửa đầu thế kỉ XIX
30 TRNG I HC TH H NI M/Y 1C I2M DI3N NGN NAM TNH – N4 TNH TRONG VN HC VIT NAM TH5 K6 XVIII – N7A 8U TH5 K6 XIX Vũ Thị Thu Hường1 Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội Tóm tắt: Sự chồng lấn phức tạp của các thiết chế quyền lực trong bối cảnh lịch sử đặc biệt đã khiến văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX có sự sản sinh và hoán chuyển các diễn ngôn một cách mau lẹ. Diễn ngôn giới hay diễn ngôn nam tính – nữ tính mặc dù đã được sản sinh và được củng cố lâu dài trong suốt các thời kỳ lịch sử với đặc điểm chung là duy trì trật tự ưu thế, thống trị của nam tính (đi kèm là chế độ gia trưởng / nam trị) và vị thế tiêu cực, tòng thuộc của nữ tính; song đến giai đoạn này, đã có sự chuyển di, hoán vị theo chiều hướng ngược lại: diễn ngôn nữ tính dần khẳng định được vị thế và thoát khỏi phần nào sức chế ngự của diễn ngôn nam quyền đang suy yếu. Từ khóa: Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, nam tính, nữ tính, diễn ngôn. 1. MỞ ĐẦU Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX ghi nhận sự thay đổi, chuyển di của hàng loạt các diễn ngôn truyền thống và sự xuất hiện của những diễn ngôn mới, làm thay đổi hiện trạng và cho thấy tính chất nhiễu động của một giai đoạn văn học phức tạp, đa thanh. Diễn ngôn được xem như hệ thống của những tư tưởng, quan điểm, khái niệm, cách thức tư duy và hành xử, những cái được hình thành trong một bối cảnh xã hội cụ thể, có một hiệu lực chung đối với cách suy nghĩ và nói năng của mỗi nhóm người cũng như mỗi cá nhân. Nói cách khác, nó là một thứ khung khổ cho phép và giới hạn nhận thức, phát ngôn của chủ thể về thế giới, thậm chí về bản thân. Diễn ngôn, do đó thuộc về các thiết chế, bị chi phối bởi các luật lệ và đằng sau nó là bàn tay vô hình của quyền lực. Lời nói và suy nghĩ của con người không phải là sự biểu hiện một cách tự do những tư tưởng cá nhân, mà bị định hình và nhốt chặt vào trong một thứ khuôn khổ có trước. Xem xét văn học từ góc độ diễn ngôn sẽ cho thấy không chỉ các hiện tượng bề mặt về tác giả, tác phẩm mà đồng thời còn là thiết chế quyền lực chi phối cách mà một tác giả sáng tạo nên các tư tưởng 1 Nhận bài ngày 10.5.2017; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 20.6.2017 Liên hệ tác giả: Vũ Thị Thu Hường; Email: vuhuong1785@gmail.com TP CH KHOA HC − S 16/2017 31 và hình tượng của anh ta; cho thấy điều gì đã tác động đến các thủ pháp nghệ thuật và việc lựa chọn ngôn từ trong tác phẩm. Diễn ngôn có thể tạo lập tri thức nhất định về một thời đại, một con người, sự kiện nào đó. Thời đại nào càng nhiều biến cố, càng dễ sản sinh ra nhiều diễn ngôn chồng lấn phức tạp. Sự giao cắt diễn ngôn cho thấy sự đan cài, đua tranh của các thiết chế quyền lực và sự khó khăn khi phân tách tư tưởng. Thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX là một giai đoạn như vậy, khi những biến động chính trị phức tạp ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội, làm đảo chiều hàng loạt diễn ngôn và kiến tạo những diễn ngôn mới, đặc biệt là các diễn ngôn về giới. Những biểu hiện của diễn ngôn giới hay diễn ngôn nam tính – nữ tính ở giai đoạn này đã hướng tới việc xóa bỏ các định kiến, hóa giải cấm kỵ cũng như đòi lại tiếng nói bị che dấu, tẩy xóa trong quá khứ; đồng thời phát huy các giá trị nhân văn cao đẹp của thời đại. 2. NỘI DUNG 2.1. Diễn ngôn nam tính – nữ tính Nằm ở vị trí trung tâm trong các nghiên cứu về giới, thuật ngữ nam tính, nữ tính được sử dụng với nhiều nội hàm ý nghĩa khác nhau, tạo nên nhận thức có tính phổ quát, chính là các diễn ngôn về giới, cho rằng "nữ tính đối với phụ nữ, nam tính đối với nam giới là đặc tính tự nhiên, bất biến. Nói cách khác, chúng được nói đến như những đặc tính đồng nhất với giới tính sinh học, bất chấp sự biến động của các không gian và thời gian văn hóa" (Phạm Quỳnh Phương). Cách hiểu về nam tính, nữ tính như vậy đã đồng thời tạo ra những diễn ngôn khác về vai trò giới (thiên chức), về năng lực giới...; đưa đến những ảo tưởng về việc có những chức năng hay năng lực bẩm sinh thuộc về mỗi giới ngay từ khi sinh ra, cùng những sự tòng thuộc và thực thi bổn phận mà mỗi giới phải gánh chịu. Diễn ngôn nam tính, nữ tính cũng đã sản sinh những bộ tiêu chuẩn phù hợp với hành động và ứng xử của mỗi giới – những khuôn mẫu về giới mang tính kiến tạo xã hội nhưng được gán đặt như những đặc tính / tính cách tự nhiên. Mỗi người sinh ra đã thuộc một giới tính cố định với những tính cách đặc trưng: nam tính gắn với nam giới với các đặc điểm: mạnh mẽ, chủ động, tự tin, quyết đoán, độc lập, lý trí, sâu sắc... trong khi nữ giới gắn với nữ tính và mang đặc trưng yếu đuối, hy sinh, phụ thuộc, cảm tính, nông nổi... Có thể thấy, việc sản sinh và củng cố các diễn ngôn về nam tính, nữ tính diễn ra lâu dài trong suốt các thời kỳ lịch sử và phổ biến ở nhiều xã hội với đặc điểm chung là duy trì trật tự ưu thế, thống trị của nam tính (đi kèm là chế độ gia trưởng/nam trị – patriarchal) và vị thế tiêu cực, tòng thuộc của nữ tính. Khẳng định nam tính, nữ tính (cũng như nam giới, nữ giới) là những khái niệm của chọn lọc tự nhiên và cần được bảo lưu. Huyền thoại về một thứ nam tính, nữ tính gắn liền với giới có tính quyết định luận như vậy không chỉ do 32 TRNG I HC TH H NI sự hạn chế về tư tưởng, mà nhằm chủ đích tạo ra những diễn ngôn vĩnh viễn hóa cấu trúc thống trị của nam giới. Họ nhận thấy "những gì trước nay vẫn coi như tri thức phổ quát và tuyệt đối về thế giới thực ra lại là những tri thức bắt nguồn từ cảm nhận của một bộ phận có quyền lực trong xã hội, tức là của những ông chủ nam giới" và khẳng định nam tính hay nữ tính chính là "những cách kết cấu xã hội linh động" (Foucault, 1997). Bởi khuôn mẫu giới là sản phẩm kiến tạo xã hội, nên luôn có những phiên bản khác nhau về nam tính, nữ tính. Trong thực tế, nội hàm của các khuôn mẫu này được lý giải không giống nhau, phụ thuộc cả vào vị trí xã hội và nền tảng văn hóa của mỗi người khi tiếp cận. Theo Connell (1995), "nam tính ... ng (Cái quạt, Quả mít, Hang Cắc Cớ, Đèo Ba Dội...). Có thể nói đây là cách tự biến đổi giới giả định để phục vụ ý đồ của tác giả văn học. "Ở đây, chúng tôi cho rằng, nó cũng là một hình thức "chuyển đổi giới tính" giả tưởng, cố ý, nhằm các mục đích: né tránh những điều cấm kị (với các tác giả là những nhà Nho nam đạo mạo, nặng gánh "tu mi nam tử", "hiền nhân quân tử"), thể nghiệm nhu cầu dục tình từ phía giới đối ngược và khám phá những góc cạnh tâm sinh lí của các giới đối với vấn đề hấp dẫn muôn thưở nọ. Nó cũng cho thấy ý thức, gánh nặng "nam quyền" đã đè nặng lên tâm lí của các tác giả nam khiến họ không thể trực tiếp bộc lộ vị thế, nhu cầu giới của bản thân" [7]. Nguyễn Thanh Tùng cũng đề cập đến hiện tượng biến đổi giới trong văn học trung đại Việt Nam và nhận định, xu hướng biến đổi giới tính của các nhân vật thường là từ nữ sang nam, rất ít trường hợp 38 TRNG I HC TH H NI biến đổi từ nam sang nữ. Điều này không phải ngẫu nhiên mà nó thể hiện cái nhìn nam quyền vẫn còn đè nặng trong thế giới quan của các tác giả thời trung đại, và khả năng bá quyền của nam tính chắc chắn sẽ vẫn chiếm ưu thế trong các sáng tác. Trong một xã hội nam quyền, không phải lúc nào nam giới cũng giữ được địa vị độc tôn và sức mạnh thống trị của họ, đặc biệt ở các thời kỳ có nhiều biến động, đe dọa đến sự suy sụp của sự thể hiện vai trò nam tính; khi các điều kiện và hoàn cảnh cần thiết cho việc duy trì, tái tạo nam tính không còn đầy đủ. Xã hội Việt Nam bắt đầu có những biến động lớn từ thế kỷ XVII, trải dài suốt thế kỷ XVIII và các giai đoạn sau này: chính trị bất ổn, đất nước chia năm bè bảy mối, chiến tranh loạn lạc liên miên, Nho giáo không còn giữ được vai trò chống đỡ về mặt tư tưởng và lẽ sống cho con người khiến họ mất niềm tin, thân thế con người mong manh trước thời cuộc hỗn loạn... Sự ra đời của các thành thị và kiểu thị dân mới cũng tạo điều kiện nảy nở tư tưởng về con người cá nhân với đầy đủ các đòi hỏi, dục vọng, thị hiếu... kiểu mới, phi chính thống. Sự thỏa hiệp giữa cái cũ với cái mới đã tạo ra những luồng tư tưởng phức tạp, đặc biệt là sự giao thoa giữa những xác tín, nguyên lý ứng xử chính thốngvới những tư tưởng thị dân về vật chất, hưởng thụ, sắc dục... Trong tác phẩm Sự thống trị của nam giới, Pierre Bourdieu có lưu ý tới mối tương quan giữa khí lực nam nhi và bạo lực. Ngày từ nhỏ, đứa bé trai đã được gia đình cung cấp, bồi đắp tiêu chí về nam tính. Vì thế, khi không thể thực hiện được hình mẫu lý tưởng, họ rất dễ bị tổn thương và dễ tìm các phương cách khác khôi phục nam tính, hoặc che giấu sự mềm yếu và bất lực của mình. Trường hợp văn học Việt Nam, nếu như sự thống trị của kiểu nam tính mang thuộc tính võ đầy uy dũng và cương mãnh chiếm ưu thế ở giai đoạn trước, gắn liền với thời kỳ hưng thịnh của xã hội phong kiến; thì ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, kiểu nam tính mang thuộc tính văn lại trở nên phổ biến; tạo ra tính chất âm tính ngay từ nội bộ cấu trúc quyền lực của nam tính. Nó cũng minh chứng tính chất bất ổn của diễn ngôn nam tính: dưới áp lực của các thiết chế và sự kỳ vọng, không có một cấu trúc nam tính nào đủ mạnh và bền vững để tồn tại vĩnh viễn; sự suy giảm nam tính hay sự trỗi dậy của nam tính phụ thuộc sẽ tạo điều kiện thuận lợi để nữ tính trỗi dậy, thậm chí lấn lướt nam tính trong một xã hội không còn đủ sức bao bọc và nâng đỡ những "chủ nhân ông". Trong văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, quá trình trỗi dậy chiếm ưu thế của nữ tính và song hành với đó là sự âm tính hóa cấu trúc nam tính truyền thống đã diễn ra, tạo nên những sự hoán vị nam tính – nữ tính đặc biệt chưa từng thấy ở những giai đoạn trước đó. Ở giai đoạn này, diễn ngôn nữ tính đã mang những đặc điểm mới, thoát khỏi phần nào sức chế ngự của diễn ngôn nam quyền đang suy yếu. Ở các thời đại trước, nam tính được gắn chặt với các ý niệm về trách nhiệm, chí khí, tầm vóc kì TP CH KHOA HC − S 16/2017 39 vĩ, với dân tộc. Ở thời kì này, sự suy giảm nam tính đã diễn ra: ở đội ngũ sáng tác, ở hình tượng, ở kiểu hình tác giả... Nữ tính trước đây buộc phải che giấu, nay được thể hiện công khai, không tránh né qua thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều, các khúc ngâm... Khi nam giới không đủ sức gánh đỡ các nhiệm vụ, bổn phận; trong bối cảnh hoang mang chung của thời đại và tư tưởng, nữ tính bật lên, chiếm ưu thế, đẩy nam tính xuống hàng phụ thuộc, yếu mềm, nhiều khi vô dụng. Lúc này, diễn ngôn nữ tính như là tập hợp của các thuộc tính bảo trợ cho sự tái tạo, hồi sinh, luân chuyển... (đặc biệt trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương) đã tạo ra luồng sinh khí cho thời đại, đẩy nỗi bi quan của sự sụp đổ các mẫu hình nam tính từ phạm trù bi sang phạm trù hài hước, giễu nhại. Quá trình hoán vị các diễn ngôn không thể diễn ra công khai do nó có khả năng làm sụp đổ mẫu hình nam tính bá quyền, do đó mới xuất hiện tình trạng núp bóng, ký thác, thay lời... của nhà Nho nam giới nhằm thể hiện quan điểm, tâm sự cá nhân. Tạ Chí Đại Trường đã chỉ ra tình trạng ấy trong nghiên cứu của mình: "Tất nhiên lúc này không thể có một thứ văn chương cá nhân chủ nghĩa xuất hiện ở Đại Việt, nơi một thể chế chính trị còn kềm hãm con người theo với một cơ sở đạo lý đem từ phương Bắc, càng lúc càng khắc nghiệt. Người ta phải lén lút náu hình, "núp bóng đàn bà": Tần cung nữ oán Bái Công văn, Cung oán ngâm khúc. Nhà nho khi mượn lời nữ đã trở thành lại cái. Dạng hình mượn (làm người nữ) phối hợp với sự mềm yếu tâm tính, đủ cho sự giả trang của nho thần che mắt được quyền lực bên trên. Và thế là Đại Việt có một thành phần văn chương lại cái..." [6, tr.65]. Do quá trình hoán vị không thể diễn ra công khai, và các nam nhân không thể trực tiếp bộc lộ tính cách mềm yếu của họ, nên các thủ pháp như đảo trang (transvestism) hay mượn giọng (ventriloquism) được sử dụng với tần suất lớn nhằm thể hiện một cách kín đáo các tâm sự cá nhân. Một đặc điểm dễ nhận thấy nữa của quá trình hoán vị diễn ngôn nam tính – nữ tính ở thời kỳ này là kiểu nam tính thượng võ, anh hùng của giai đoạn trước cũng dần trở nên vắng bóng, nhường chỗ cho kiểu nam tính văn nhân mềm yếu, thậm chí có lúc bị lép vế trước kiểu loại nữ tính mạnh mẽ, tiết liệt. Trong Truyện Kiều, Thúc Sinh mặc dù là người ra tay cứu vớt Kiều khỏi lầu xanh, cho Kiều một danh phận (dù lẽ mọn) nên đương nhiên có vai trò như "ông chủ" của Kiều, mang đậm tính chất dương tính. Nhưng trong quan hệ với Hoạn Thư, thì Thúc Sinh lại nhanh chóng trở về trạng thái âm tính, thua kém hơn, do nhiều nguyên do: Thứ nhất, thấp kém hơn về địa vị xã hội (Hoạn Thư là con quan Lại bộ trong khi Thúc Sinh chỉ là thương nhân); thứ hai, Thúc Sinh đã vi phạm lễ giáo (nạp thiếp – cưới vợ lẽ mà không thông qua vợ cả, không được vợ cả chấp thuận); thứ ba, cố tình che giấu mối quan hệ mà không thông báo cho vợ cả được biết. Trong luật pháp và lễ giáo phong kiến, việc nạp thiếp phải được thê chấp thuận cho dù người chồng cố tình lấy thiếp mà bỏ qua sự đồng ý của người vợ. Trong nhiều trường hợp, đa phần thiếp là do thê cưới 40 TRNG I HC TH H NI về cho chồng, nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục cho người đàn ông và thực hiện các công việc lao động khác của gia đình. Thúc Sinh lén lút cứu vớt Kiều, đinh ninh rằng mối quan hệ này xa xôi nên Hoạn Thư khó biết. Khi Hoạn Thư đánh ghen, Thúc Sinh rụng rời nhưng không dám/không thể phản ứng, cũng không thể ra tay cứu vớt Kiều một lần nữa. Sự yếu đuối, hèn nhát của Thúc Sinh thể hiện qua phản ứng: Sợ quen dám hở ra lời/ Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa hoặc: Nữa khi dông tố phũ phàng/ Thiệt riêng đấy cũng lại càng cực đây/ Liệu mà cao chạy xa bay/ Ái ân ta có ngần này mà thôi. Như thế, dù ở địa vị chồng, Thúc Sinh lại mang vị thế bị động, yếu ớt so với Hoạn Thư, thậm chí được miêu tả như người đàn ông bị "nữ tính hóa". Còn Hoạn Thư trong vai người vợ giành lại uy quyền của lễ giáo gia phong, bộc lộ tính cách mạnh mẽ, bạo liệt, "sâu sắc nước đời", nhiều mưu chước, sẵn sàng làm những việc phóng hỏa đốt nhà, bắt người ném xác, xét xử lập nghiêm... khiến cả Kiều lẫn Thúc Sinh kinh sợ. Đây chính xác là mẫu hình nữ tính mạnh mẽ trong cách phân loại của văn hóa Trung Quốc, một thứ nữ tính có xu hướng nam tính hóa, mang tính chất bá quyền. Việc đòi hỏi và lập lại trật tự gia phong của Hoạn Thư không sai, do địa vị chính đáng của người vợ cả, song cách ứng xử và cơn ghen khủng khiếp của nhân vật này biểu hiện một thứ nữ tính bạo liệt, lý trí, gần với các phẩm chất của nam tính. Cũng là một kiểu hình tượng phụ nữ mạnh mẽ, song Thúy Kiều được xây dựng với đặc trưng khác: người liệt nữ. Hình tượng liệt nữ Thúy Kiều chính là một minh chứng tiêu biểu cho quá trình "vô tính hóa" người phụ nữ, trên con đường thực hành các nghĩa vụ đạo lý. Trước nhất, Kiều mang vẻ đẹp giai nhân "mười phân vẹn mười", song lại đi kèm với thái độ giữ gìn cốt cách, phẩm hạnh một cách quyết liệt. Trong tình yêu say đắm với Kim Trọng, Kiều phải đấu tranh với những rung động thân xác tự nhiên, bản năng của chính mình, cách mà nàng đáp trả Kim Trọng khi "sóng tình dường đã xiêu xiêu" mang đầy màu sắc giáo huấn đạo đức: Đã cho vào bậc bố kinh/ Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu/ Ra tuồng trên Bộc trong dâu/ Thì con người ấy ai cầu làm chi. Trong biến cố gia đình, Kiều dầu có phân vân "bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn" song vẫn quả quyết: "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha". Quyết định của Kiều như nàng tự nhận, là quên thân: "Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên?" hay "Vẻ chi một mảnh hồng nhan?" và mặc dù "có thể không ý thức về việc đem mình ra để treo gương tiết liệt nhưng lại ý thức một cách sâu sắc và mạnh mẽ về việc noi gương người đi trước trong hành xử và thậm chí muốn vượt lên trong "cuộc đua" với tiền nhân":Dâng thư đã thẹn nàng Oanh/ Lại thua ả Lý bán mình hay sao?Ý thức quyết liệt về việc bảo toàn phẩm hạnh xuất hiện ngay từ khi Kiều quyết bán mình, đến giây phút dự liệu phòng thân:Trên yên sẵn có con dao/ Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn/ Phòng khi nước đã đến chân/ Dao này thì liệu với thân sau nàyđến thời khắc "toan bài quyên sinh" hay "rút dao tay áo tức thì giở ra" ở chốn lầu xanh của Tú Bà. Cái ý thức dự liệu và khả năng hành động quyết liệt ấy mang đậm phẩm chất của một liệt TP CH KHOA HC − S 16/2017 41 nữ, để đến sau này, được tiếp nối trong trường đoạn Từ Hải thất trận, chết đứng giữa trận tiền, Kiều bị Hồ Tôn Hiến ép "thị yến dưới màn" rồi gả bán cho thổ quan.Nỗi ân hận và mặc cảm tội lỗi trước cái chết của Từ Hải (giết chồng) cộng dồn với nỗi tủi hổ bị ép đàn hát, rồi bị gả bán bởi chính những kẻ đã giết chồng mình đã khiến Kiều ở trong tình thế đau đớn tột độ và chọn con đường quyên sinh để giữ gìn phẩm tiết. Con đường trở thành liệt nữ của Kiều tưởng rằng đến đây đã đến chung cục, nhưng Nguyễn Du vẫn còn muốn nàng tiết liệt hơn nữa, khi đến hồi đoàn viên, vẫn cho nàng phát ngôn những lời lẽ đầy ám ảnh về chữ trinh, về đạo bố kinh; bỏ qua hoàn toàn phương diện thân xác và chỉ giữ lại phần danh tiết: "trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay". Kiều đã đi đến cùng con đường trinh liệt của mình, con đường đạo lý mà nàng đã kiên tâm suốt mười lăm năm; từ người con gái đa cảm đa sầu đầy những rung động yêu đương và thể xác đến người "thục nữ chí cao" "khép cửa phòng thu" và "chẳng tu thì cũng như tu mới là". 3. KẾT LUẬN Diễn ngôn nam tính – nữ tính là một trong những diễn ngôn xuyên suốt ở các nền văn học, song trong những giai đoạn đặc biệt, nó trở nên nổi trội hơn, thể hiện được các giá trị tư tưởng và thẩm mỹ đặc trưng của giai đoạn đó. Sự trỗi dậy của diễn ngôn nữ tính đối lập với sự suy yếu của diễn ngôn nam tính, đặc biệt là nam tính bá quyền trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX có thể coi là một điểm sáng, kết tinh các giá trị nhân văn cao đẹp và góp một tiếng nói sơ khởi vào sự phát triển của tư tưởng nữ quyền trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Văn Hưng (2016), Tự sự của Trinh tiết: Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại thế kỷ X-XIX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Phạm Quỳnh Phương (2013), Nam tính, nữ tính và sự cầm tù của những khuôn mẫu giới. Nguồn: cua-nhung-khuon-mau-gioi 3. Kam Louie, Moris Low (2003), Asian Masculinity - The meaning and practice of manhood in China and Japan, Routledge Curzon, Taylor and Francis Group. 4. Lili Zhou (2012), Reconstruction Masculinities in China, 1896 – 1930, PhD Thesis, University of Technology, Sydney. 5. Dịch Trung Thiên (2013), Chuyện đàn ông đàn bà Trung Quốc, Nxb Phụ nữ. 6. Tạ Chí Đại Trường (2016), Chuyện phiếm sử học, Nxb Tri thức. 7. Nguyễn Thanh Tùng (2012), Hiện tượng biến đổi giới trong văn học trung đại Việt Nam – một vài nhận xét. Nguồn: www.nguvan.hnue.edu.vn 8. Trần Ngọc Vương (1999), Loại hình tác giả nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 42 TRNG I HC TH H NI SOME ASPECTS OF THE DISCOURSE OF MASCULINITY AND FEMININITY IN VIETNAMESE LITERATURE FROM THE 18TH TO THE FIRST HALF OF THE 19TH CENTURY Abstract: In the complexity of institutional powers in a rather special historical context from the XVIII - the first half of the XIX century in Vietnam, the discourses on gender in Vietnamese literature of this period was rapidly changed. The enduring established order of gender, particularly in the discourse on masculinity and femininity came to a significant turn: the privileged and dominant masculinity over the passive and dependent status of femininity was maintained by the patriarchy in its long history; now is to be questioned. The discourse on femininity has gradually gained its role and being more independent from the weight of the weakening patriarchy discourse in this period. Keywords: Vietnamese literature from the XVIII - the first half of the XIX century, masculinity, femininity, discourse
File đính kèm:
- may_dac_ddiemr_dien_ngon_nam_tinh_nu_tinh_trong_van_hoc_viet.pdf