Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều

Vận dụng lý thuyết giới vào tìm hiểu đoạn đời nhân vật Thúy Kiều ở lầu xanh Tú Bà đặt

trong tương quan toàn bộ cuộc đời Thúy Kiều nói chung. Tập trung phân tích những hồi

tưởng, suy tư và dự cảm tình yêu trong sáng đối lập với tháng ngày bị đày đọa nơi lầu xanh

Tú Bà. Xác định những cung bậc đời sống tinh thần, tâm trạng và các thế ứng xử tính dục

đặt trong mối liên hệ với hoàn cảnh hiện thực, tình cảm, tâm lý và các giá trị nhân văn. Mở

rộng bình luận, trao đổi với một số ý kiến của Nguyễn Bách Khoa, Hồ Đắc Duy, Phan Quế

trong việc lý giải đặc điểm bản năng, lý tính, nhân tính và sự qui định của hoàn cảnh xã

hội. Nhấn mạnh thực tế hành động và khả năng tự ý thức về hành vi tính dục càng cho thấy

nhân cách, bản lĩnh, chiều sâu văn hóa cũng như thế giới tinh thần phong phú của nhân vật

Thúy Kiều. Bài báo khảo sát, xác minh tính hiện thực và lý tưởng, nhận diện đặc tính đa

tính cách của nhân vật Thúy Kiều từ thước đo bản năng và phẩm chất con người cá nhân,

góp phần khẳng định tài năng sáng tạo nghệ thuật bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du

Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều trang 1

Trang 1

Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều trang 2

Trang 2

Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều trang 3

Trang 3

Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều trang 4

Trang 4

Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều trang 5

Trang 5

Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều trang 6

Trang 6

Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều trang 7

Trang 7

Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều trang 8

Trang 8

Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều trang 9

Trang 9

Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang minhkhanh 6360
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều

Lầu xanh Tú bà – Cung trầm khốc liệt trong đời Thúy Kiều
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 11, Số 2, 2021 128-140 
128 
LẦU XANH TÚ BÀ – CUNG TRẦM KHỐC LIỆT 
TRONG ĐỜI THÚY KIỀU 
Nguyễn Hữu Sơna* 
a
Viện Văn học – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam 
*Tác giả liên hệ: Email: lavson59@yahoo.com 
Lịch sử bài báo 
Nhận ngày 06 tháng 12 năm 2020 | Chấp nhận đăng ngày 11 tháng 01 năm 2021 
Xuất bản trực tuyến ngày 16 tháng 4 năm 2021 
Tóm tắt 
Vận dụng lý thuyết giới vào tìm hiểu đoạn đời nhân vật Thúy Kiều ở lầu xanh Tú Bà đặt 
trong tương quan toàn bộ cuộc đời Thúy Kiều nói chung. Tập trung phân tích những hồi 
tưởng, suy tư và dự cảm tình yêu trong sáng đối lập với tháng ngày bị đày đọa nơi lầu xanh 
Tú Bà. Xác định những cung bậc đời sống tinh thần, tâm trạng và các thế ứng xử tính dục 
đặt trong mối liên hệ với hoàn cảnh hiện thực, tình cảm, tâm lý và các giá trị nhân văn. Mở 
rộng bình luận, trao đổi với một số ý kiến của Nguyễn Bách Khoa, Hồ Đắc Duy, Phan Quế 
trong việc lý giải đặc điểm bản năng, lý tính, nhân tính và sự qui định của hoàn cảnh xã 
hội. Nhấn mạnh thực tế hành động và khả năng tự ý thức về hành vi tính dục càng cho thấy 
nhân cách, bản lĩnh, chiều sâu văn hóa cũng như thế giới tinh thần phong phú của nhân vật 
Thúy Kiều. Bài báo khảo sát, xác minh tính hiện thực và lý tưởng, nhận diện đặc tính đa 
tính cách của nhân vật Thúy Kiều từ thước đo bản năng và phẩm chất con người cá nhân, 
góp phần khẳng định tài năng sáng tạo nghệ thuật bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du. 
Từ khóa: Bản năng tính dục; Lầu xanh Tú Bà; Nguyễn Du; Thúy Kiều; Truyện Kiều. 
DOI:  
Loại bài báo: Bài báo nghiên cứu gốc có bình duyệt 
Bản quyền © 2021 (Các) Tác giả. 
Cấp phép: Bài báo này được cấp phép theo CC BY-NC 4.0 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 
129 
BROTHEL OF TU BA – THE INTENSE PERIOD 
OF THUY KIEU’S LIFE 
Nguyen Huu Son
a*
a
The Institute of Literature – Vietnam Academy of Social sciences, Hanoi, Vietnam 
*
Corresponding author: Email: lavson59@yahoo.com 
Article history 
Received: December 6
th
, 2020 | Accepted: January 11
th
, 2021 
Available online: April 16
th
, 2021 
Abstract 
We apply gender theory to understand the life of Thuy Kieu at the brothel of Tu Ba in 
relation to her entire life. We focus on analyzing memories, reflections, and pure love 
predictions in contrast to the days of exile at Tu Ba's brothel. We identify the levels of 
spiritual life, emotions, and sexual behaviors in relation to real situations, emotions, 
psychology, and human values. Expanding our comments, we discuss some opinions of 
Nguyen Bach Khoa, Ho Dac Duy, and Phan Que in explaining instinctive characteristics, 
humanity, and social conventions. The reality of action and the ability to self-sense about 
sexual acts shows the personality, bravery, and cultural depth as well as the rich spiritual 
world of Thuy Kieu. The article investigates, verifies the reality and the ideal, identifies the 
multi-personality characteristics of Thuy Kieu from the measure of instinct and individual 
human qualities, and contributes to affirm the creative talent of the great poet, Nguyen Du. 
Keywords: Brothel of Tu Ba; Gender; Nguyen Du; Sexual instinct; The Tale of Kieu; Thuy 
Kieu. 
DOI:  
Article type: (peer-reviewed) Full-length research article 
Copyright © 2021 The author(s). 
Licensing: This article is licensed under a CC BY-NC 4.0 
Nguyễn Hữu Sơn 
130 
1. DẪN NHẬP 
Trong Truyện Kiều, nhân vật chính Thúy Kiều chịu nhiều sóng gió hơn là bình 
yên, cay đắng hơn là ngọt ngào, chia ly hơn là đoàn tụ, vùi dập hơn là nâng đỡ, oan 
nghiệt hơn là may mắn, thống khổ hơn là hạnh ngộ, bi thương hơn là hùng tráng, tự tìm 
đường nhiều hơn được dẫn đường, buồn hơn là vui, day dứt hơn là thanh thản, tiếc nuối 
hơn là thỏa nguyện Nhìn lại các cuộc tình đi qua đời Thúy Kiều, dù thanh cao hay tục 
lụy, chủ động hay thụ động, nhân văn hay bản năng, truyền thống hay hiện đại, trong 
trắng hay mưu lược, ngọt ngào hay đắng cay, tìm đường giải thoát hay chấp nhận tình 
thế, tinh thần hay thể xác, thực tại hay mơ tưởng quá khứ và tương lai, đều được 
Nguyễn Du diễn tả một cách sinh động (Hồ, 2013). Ở đây xin tập trung vào đoạn cung 
trầm khốc liệt nhất, ô nhục nhất, tàn tệ nhất, bị thử thách, dồn đẩy nhiều nhất, vùi dập 
cay đắng nhất, đậm chất thể xác nhất, kịch tính nhất, trực diện nhất, muốn quên đi nhất: 
Thúy Kiều ở lầu xanh Tú Bà (“Vào lầu xanh lần thứ nhất”, “Thúy Kiều rơi vào tay Tú 
Bà”, “Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú Bà”, “Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Nỗi 
thương thân”) 
2. NỘI DUNG 
Thống kê trong Truyện Kiều, Thúy Kiều nhiều lần chạm đến câu chuyện tình 
yêu, hôn nhân và xác thịt theo nhiều hoàn cảnh, cung bậc khác nhau. Có thể kể, có khi 
đó là sự gặp gỡ ngây thơ, trong trắng tình đầu, còn gìn giữ, trì nén bản năng (Thưa 
rằng: Đừng lấy làm chơi,/ Dẽ cho thưa hết một lời đã nao!) (D. Nguyễn, 20151), một 
đêm động phòng cay đắng “mưa gió nặng nề” (Giọt riêng tầm tã tuôn mưa,/ Phần căm 
nỗi khách phần dơ nỗi mình), những tháng ngày tủi nhục vùi thân nơi lầu xanh Tú Bà 
(Dẫu sao bình đã vỡ rồi,/ Lấy thân mà trả nợ đời cho xong), mối tình nửa vời yên ấm 
với Thúc Sinh (Bình Khang nấn ná bấy lâu,/ Yêu hoa yêu được một màu điểm trang./ 
Hương càng đượm lửa càng nồng,/ Càng sôi vẻ ngọc càng nồng màu sen), những tháng 
ngày cúi đầu cam phận nơi lầu xanh Bạc Bà (Biết thân chạy chẳng khỏi trời,/ Cũng liều 
mặt phấn cho rồi ngày xanh), thời gian mãn nguyện với người anh hùng Từ Hải “Nửa 
năm hương lửa đương nồng” (Vinh hoa bõ lúc phong trần,/ Chữ tình ngày lại thêm xuân 
một ngày), rồi một đêm phũ phàng rớt bóng quy phục quan trên Hồ Tôn Hiến (Hạ công 
chén đã quá say,/ Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra), cho đến đêm động phòng đại 
đoàn viên gượng ép, đầy ắp tâm tư “Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa” (Tình 
nhân lại gặp tình nhân,/ Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình./... Tình xưa lai láng 
khôn hàn) 
Nguyễn Bách Kh ... HỘI VÀ NHÂN VĂN] 
135 
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm. 
Dập dìu lá gió cành chim, 
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. 
Trong cảnh đường cùng, đúng như thân phận một gái làng chơi, Thúy Kiều phải 
lang chạ với đủ mọi loại người, cũng nhập cuộc, cũng say triền miên, cũng bả lả vui 
cười, cũng lập lờ dìu dặt, cũng ngập ngụa bản năng, cũng sớm tối đưa tìm khách cho 
quên thời gian, quên mọi niềm vui nỗi buồn – điều mà nhà nho tài tử Nguyễn Công Trứ 
một chiều qui kết là “tà dâm”4. Bốn câu thơ mà đủ cả định lượng, số lượng, tần suất 
(Biết bao, cuộc, trận, đầy tháng, suốt đêm, lá, cành, sớm, tối), đủ cả định tính, cảm nhận 
tính chất, mức độ, nhịp độ, nhịp điệu (lả, lơi, say, cười, dập, dìu, dập dìu, đưa, tìm). Sắc 
thái từ ngữ đan xen cả cách nói bình dân (hình ảnh, lối ví von, phong cách ca dao, thành 
ngữ) và ngữ liệu, điển chương, tích Tàu (Tống Ngọc, Tràng Khanh)5. Theo cách đọc 
“liên văn bản” ngay trong chữ nghĩa Truyện Kiều cũng thấy rõ sắc thái vật liệu, khí cụ 
nam nữ, biểu tượng sắc dục, nghĩa bóng thanh tục - tục thanh: Bướm6, Ong7, Chim8. 
Thời gian, không gian, sự kiện ở đây vón chặt, đông đặc những chuyện hành lạc, phong 
tình, trai gái lả lơi... Đúng như Mác xác định: “Không phải ý thức con người quyết định 
sự tồn tại của họ; trái lại, chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” (Mác 
& Ăng-ghen, 1993, tr. 15) 
Ở chốn lầu xanh, có những lúc Thúy Kiều bừng tỉnh, đối lập khi tỉnh với khi 
say, khi xưa với bây giờ, giật mình tự biết thương thân, ý thức về hoàn cảnh ê chề: 
Mặt sao dày gió dạn sương, 
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân? 
Mặc người mưa Sở mây Tần, 
Những mình nào biết có xuân là gì! 
Khác với nhiều người và cũng khác với những cuộc thác loạn triền miên, bây giờ 
là lúc Thúy Kiều thức tỉnh, tự soát xét lại thực trạng, tự so sánh, nhận diện lại xem thân 
4 Nguyễn Công Trứ (1778-1858): Đã biết má hồng thời phận bạc,/ Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng./ Chiếc quạt thoa đành 
phụ nghĩa Kim lang,/ Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thời cũng phải./ Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải,/ Cánh hoa tàn đem bán lại 
chốn thanh lâu./ Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu,/ Mà bướm chán ong chường cho đến thế?/ Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa,/ 
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!/ Bán mình trong bấy nhiêu năm,/ Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai!/ Nghĩ đời mà ngán cho đời! 
(Vịnh Thúy Kiều). 
5 Dẫn thơ Tiết Đào (768-831): Chi nghênh nam bắc điểu,/ Diệp tống vãng lai phong (Cành đón chim nam bắc,/ Lá đưa gió lại qua), 
chỉ người đa tình, phóng đãng. 
6 Bướm, Ong: Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi/ Biết bao bướm lả ong lơi/... Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân/ Chàng 
như con bướm lượn vành mà chơi (Truyện Kiều). 
7 Ong, Bướm: Tường đông ong bướm đi về mặc ai/ Con ong đã tỏ đường đi lối về/ Sợ khi ong bướm đãi đằng/ Bướm ong lại 
đặt những lời nọ kia/ Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình/... Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa (Truyện Kiều). 
8 Chim: Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh/... Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh/ Dập dìu lá gió cành chim/ Làm chi 
bưng mắt bắt chim khó lòng/ Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao/ Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi/ Bóng chim tăm cá biết 
đâu mà nhìn/ Bỗng không cá nước chim trời nhớ nhau (Truyện Kiều). 
Nguyễn Hữu Sơn 
136 
mình đang là cái thân nào trong bao nhiêu cảnh ngộ kiếp thân? Và rồi Thúy Kiều gián 
cách xác định cái riêng, cái khác biệt, thanh cao, biến mình từ kẻ thụ động, bị áp đặt, dày 
vò thành tâm thế chủ động “Mặc người”. Xét trên tất cả các phương diện tình cảm, tình 
yêu, chức năng xã hội, thiên chức sinh học, bản năng tính dục, Thúy Kiều cho thấy mình 
như người đứng ngoài, buông bỏ, không chấp nhận, không đồng cảm, không thiết tha, 
không hô ứng, tận hưởng: Mặc người mưa Sở mây Tần,/ Những mình nào biết có xuân là 
gì!... 
Khi đã tự ý thức và thấu hiểu thảm trạng giữa chốn lầu xanh, ngay cả khi tìm sự 
khuây khỏa trong “gió tựa hoa kề”, “nét vẽ câu thơ” và những cung cầm, cờ quạt, trăng 
hoa, trước sau Thúy Kiều vẫn phân thân, hờ hững với sự tình, đau đáu nỗi niềm riêng: 
Vui là vui gượng kẻo mà, 
Ai tri âm đó mặn mà với ai? 
Thờ ơ gió trúc mưa mai, 
Ngẩn ngơ trăm nỗi giùi mài một thân. 
Sự “vui gượng” ở đây chỉ là tình thế nhẫn chịu trước những hiểm họa “kẻo mà” 
có thể chụp xuống bất cứ lúc nào. Nỗi buồn, sự thiếu vắng và đằng sau đó chính là ước 
vọng, hy vọng, hoài vọng, khắc khoải đợi chờ “Ai tri âm đó mặn mà với ai?”. Hai câu 
thơ nối theo tiếp tục là nốt trầm khốc liệt về thân phận gái lầu xanh. Qua những “Vỡ 
lòng học lấy”, những buông thả dập vùi “bướm lả ong lơi”, bây giờ Thúy Kiều có 
phần đạt đến độ già giơ, chịu đựng, chịu trận, trơ lỳ cảm xúc: Thờ ơ gió trúc mưa mai,/ 
Ngẩn ngơ trăm nỗi giùi mài một thân Sách Hội Kiều học chỉ chú câu trên: “Thờ ơ gió 
trúc mưa mai: có hai cách hiểu: 1) Gió thổi khóm trúc, mưa trên mai là cảnh đẹp mà 
Kiều vẫn thờ ơ. 2) Kiều thờ ơ cả việc “gió mưa”, tức ái ân với khách và việc tìm người 
chắp mối “trúc mai” theo bảy chữ vành ngoài mà Tú Bà hướng dẫn” (D. Nguyễn, 2015, 
tr. 191) (Theo tôi, chắp mối “trúc mai” chỉ về tình duyên đẹp nhưng “gió trúc mưa mai” 
lại biểu cảm nghĩa tiêu cực, dung tục); trong khi Mai Quốc Liên chỉ chú câu sau: “Dùi 
mài một thân: thui thủi một mình (theo Nguyễn Quảng Tuân); dùi mài: đau khổ như bị 
dùi, bị mài (Đào, 1989). Chúng tôi thiên về cách chú của Nguyễn Quảng Tuân, vì theo 
ngữ cảnh hợp nghĩa hơn” (Nguyễn, 2018, tr. 129) (Theo tôi, cần chú ý tính đăng đối của 
hai câu thơ. Nhấn mạnh nét nghĩa thanh tục tục thanh, trăm mối “dùi mài” ở một thân 
này. Hoàn toàn có thể hiểu “dùi mài” một cách đa nghĩa, cả nghĩa đen, nghĩa bóng). 
Phan (2008) từng có ý kiến: 
Người đẹp Thuý Kiều lúc này đang một thân dùi mài cái phẩm hạnh báo hiếu 
của mình. Nàng đã tự nguyện hy sinh tiết hạnh để cho phần phẩm hạnh của con 
người được đề cao. Phải chăng đây là sự "dùi mài" của một tâm trí, biết nghiền 
ngẫm mà chịu đựng cho cái nghĩa làm con được thành chính quả. Nếu hiểu theo 
nghĩa là từ "dùi mài" chỉ dành riêng cho chuyện kinh sử e rằng chưa thật đầy đủ 
lắm. Phải hiểu từ "dùi mài" ở đây theo nghĩa rộng của sự kiên nhẫn, bền bỉ chịu 
đựng của con người trước các biến cố. Vào lầu xanh là chấp nhận cảnh ê chề, là 
bằng lòng với sự đầy đọa của kiếp gái bán hoa! 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 
137 
Vượt qua nỗi ê chề thể xác, Nguyễn Du thắp sáng tâm hồn Thúy Kiều với “Nỗi 
lòng đòi đoạn xa gần”, nỗi lòng nhớ cha mẹ, nhớ mối tình đầu đời, nhớ ân nghĩa em gái, 
đối lập với thực tại “sỉ nhục”: 
Đã cho lấy chữ hồng nhan, 
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân! 
Đã đày vào kiếp phong trần, 
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi! 
Thúc Sinh đến với Thúy Kiều xuất phát từ vị thế kẻ phong lưu, phóng đãng, chơi 
bời và cuộc tình một phía, trước hết thấy Thúy Kiều là “Hải đường”, “cành tơ”, ngày 
một si mê, đắm đuối “Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng”, “Một dây một 
buộc”, “Sớm đào, tối mận”, “Trước còn trăng gió”, lại thêm mắc hợm đường 
mật Tú Bà “Mụ càng tô lục chuốt hồng” mà thêm mê mệt “một tỉnh mười mê”, “Miệt 
mài trong cuộc truy hoan” Về phía Thúy Kiều, nàng đã trải nghiệm, đủ kinh nghiệm 
để hiểu cái anh chàng “Trăm nghìn đổ một trận cười”, kể cả sau khi Thúc Sinh được 
chiêm ngưỡng “một tòa thiên nhiên” và trổ tài tặng thơ thì người đẹp vẫn lửng lơ “Họa 
vần xin hãy chịu chàng”, rồi tỉnh táo lên lớp phân tích, đo đếm trước sau, cảnh tỉnh, 
cảnh báo, kéo chàng Thúc nông nổi mộng mơ trở về thực tại: 
Thiếp như hoa đã lìa cành, 
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi. 
Thúy Kiều xác nhận thân phận gái lầu xanh của mình: 
Bình Khang nấn ná bấy lâu, 
Yêu hoa yêu được một màu điểm trang. 
 Sá chi liễu ngõ hoa tường, 
Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh. 
Cũng vẫn là đồng tiền nhưng bây giờ tiền đã giải thoát, cứu vớt Thúy Kiều qua 
bể trầm luân: 
Rõ ràng của dẫn tay trao, 
Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công9. 
Về sau này, đoạn đời Thúy Kiều nơi lầu xanh Tú Bà trong mắt viên lại họ Đô 
chỉ là chuyện “mua người”, “Phong trần chịu đã ê chề”, còn với Kim Trọng thì trước 
sau như nhất gắn bó, cảm thông, cảm phục, nâng niu, trân trọng, bỏ qua tất cả, thậm chí 
tôn vinh, cộng điểm: 
9 Mới hay đương thời chế độ phong kiến, chuyện lầu xanh (nhà thổ, cô đầu, phố đèn đỏ) đã được pháp luật nhà nước đảm bảo, cho 
tồn tại công khai, minh bạch... 
Nguyễn Hữu Sơn 
138 
Xưa nay trong đạo đàn bà, 
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường. 
Có khi biến có khi thường, 
Có quyền nào phải một đường chấp kinh. 
Như nàng lấy hiếu làm trinh, 
Bụi nào cho đục được mình ấy vay? 
 Hoa tàn mà lại thêm tươi, 
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. 
Với bản thân Thúy Kiều, bằng nỗi đau trải đời, nghiệm sinh trong ê chề ô nhục, 
nàng còn nhớ, còn đau, còn nhiều mặc cảm, chưa thể quên, không dễ quên và không 
thể quên. Một mặt, Thúy Kiều thừa nhận bản tính chung của tình vợ chồng, sắc giới, 
tính dục: 
Nàng rằng: “Gia thất duyên hài, 
Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng”... 
Mặt khác, lại tự kiểm điểm, chân tình nhận lỗi và nói quá về khuyết điểm phẩm 
chất, tiết hạnh, chữ trinh theo theo nguyên tắc đạo lý Nho giáo: 
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng, 
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa. 
Thiếp từ ngộ biến đến giờ, 
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa. 
Bấy chầy gió táp mưa sa, 
Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn. 
Còn chi là cái hồng nhan, 
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào? 
Cung trầm đoạn đời Thúy Kiều khi ở lầu xanh Tú Bà khốc liệt, ê chề, cay đắng 
bao nhiêu thì đến ngày đoàn viên càng trở nên bi hài, trớ trêu, tủi hổ, xa xót bấy nhiêu 
trước tháng năm quá khứ: “Thiếp từ ngộ biến”, “Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa”, 
“gió táp mưa sa”, “trăng khuyết”, “hoa tàn”, “Nghĩ mình chẳng hổ mình sao”, “Trông 
hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru”, “Đã buồn cả ruột lại dơ cả đời”; cho đến cái đêm 
“Động phòng dìu dặt”, “Hoa xưa ong cũ” thì Thúy Kiều thêm một lần chủ động nói lời 
tạ từ, muốn chôn vùi quá khứ “hổ thẹn trăm chiều”, “cái mình bỏ đi”... Có thể nói ký ức 
những ngày ở lầu xanh Tú Bà đã thành một trang đen tối, vết thương lòng mà Thúy 
Kiều muốn chôn vùi đi, nhất là với Kim Trọng. Cũng như buổi tình đầu ngây thơ trong 
trắng: “Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,/ Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai”, trong một hoàn 
cảnh khác, bây giờ Thúy Kiều thêm một lần lặp lại: “Những như âu yếm vành ngoài,/ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 
139 
Còn toan mở mặt với người cho qua” Với Thúy Kiều, có thể chấp nhận tất cả mọi 
hình thức “Động phòng dìu dặt”, “ Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình”, “tay lại 
cầm tay”, “chén quỳnh giao hoan”, “Tình xưa lai láng”, “Khi chén rượu khi cuộc cờ”, 
“Phím đàn dìu dặt”... nhưng riêng chuyện “Chút lòng ân ái”, “tình cầm sắt”, “kết tóc xe 
tơ”, “ân ái chan chan”, “khỏi vành ái ân”, “trăng hoa”, “chăn gối”... thì xin thôi, không 
khơi lại, mãi mãi cho qua. 
Nơi lầu xanh Tú Bà, một đoạn đời cung trầm khốc liệt Thúy Kiều thật phù hợp 
với đặc trưng quy luật tâm lý sáng tạo khởi nguồn trên tinh thần nhân bản như nhà 
nghiên cứu bậc thầy người Bungari, Nauđốp đã khẳng định: 
Nếu hạnh phúc có nghĩa là không có cảm xúc mãnh liệt và say mê kéo dài thì bất 
hạnh thường bao gồm các yếu tố của những trận bão lòng quá khứ hay mọi yếu 
tố có thể của những trận bão lòng tương lai đang cần được an ủi. Bất hạnh làm 
chấn động mạnh hơn, kéo dài lâu hơn, các biểu lộ của nó cũng nhiều vẻ hơn, cho 
nên xét theo quan điểm thuần túy con người, nó làm chúng ta phải chú ý nhiều 
hơn so với hạnh phúc. Nếu không kể những trường hợp hiếm hoi của sáng tạo 
trong trạng thái thỏa mãn thì thông thường đều là thứ tự thuật thơ ca nói về cuộc 
đời đau khổ, những tai họa, những ước vọng không bờ bến, những tổn thất 
không gì bù đắp được. Chính trong bất hạnh con người không muốn cảm thấy 
mình bị đơn độc, và cũng chính bất hạnh là cái có sức dấy nên mạnh mẽ nhất 
mối quan tâm và niềm thông cảm. Thế nên thơ ca thỏa mãn được nhu cầu đạo 
đức và có được sứ mệnh xã hội ngay cả khi nó không cố ý làm điều đó (Nauđốp, 
1978, tr. 226). 
3. KẾT LUẬN 
Kể từ những năm đầu thế kỷ XXI đến nay, nhiều vấn đề văn học giới, tính dục, 
sex đã được giới thiệu, nghiên cứu sâu rộng. Việc vận dụng lý thuyết giới vào tìm hiểu 
nhân vật Thúy Kiều nói chung – đoạn đời ở lầu xanh Tú Bà nói riêng – cho thấy tài 
năng sáng tạo nghệ thuật bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du trong việc khắc họa 
những cung bậc đời sống tính dục phong phú đặt trong mối liên hệ hoàn cảnh hiện thực, 
sự chiêm nghiệm, trải nghiệm và thử thách khốc liệt của bản năng, tình cảm, tâm lý và 
các giá trị nhân văn. Qua thực tế hành động và khả năng tự ý thức về hành vi tính dục 
càng cho thấy nhân cách, bản lĩnh, chiều sâu văn hóa cũng như thế giới tinh thần phong 
phú của nhân vật Thúy Kiều. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Đào, D. A. (1989). Từ điển Truyện Kiều. NXB Khoa học xã hội. 
Hồ, Đ. D. (2013). Nghiên cứu dấu ấn tình dục trong cuộc đời Thúy Kiều. 
https://www.nguoiduatin.vn/nghien-cuu-dau-an-tinh-duc-trong-cuoc-doi-thuy-
kieu-2-a77289.html 
Mác, C., & Ăng-ghen, P. (1993). C.Mác và Ph.Ăng-ghen Toàn tập (Tập 13). NXB 
Chính trị Quốc gia. 
Nguyễn Hữu Sơn 
140 
Nauđốp, M. Ar. (1978). Tâm lý sáng tạo văn học (H. Lam, & H. Ly, Dịch). NXB Văn 
Học. 
Nguyễn, B. K. (1942). Nguyễn Du và Truyện Kiều (Văn mới, số đặc biệt văn chương). 
NXB Hàn Thuyên. 
Nguyễn, D. (2015). Truyện Kiều (Hội Kiều học Việt Nam). NXB Trẻ. 
Nguyễn, D. (2018). Truyện Kiều - Đoạn trường tân thanh (M. Q. Liên, khảo chú). NXB 
Văn học. 
Nguyễn, H. S. (1990). Tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du trong sự so sánh với Kim 
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Văn nghệ, (44), 10. 
Nguyễn, H. S. (2015). So sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện từ sự chuyển đổi 
loại hình và thể loại. In trong H. S. Nguyễn, Truyện Kiều - So sánh và luận bình 
(tr. 580-609). NXB Văn Học. 
Phan, Q. (2008). Trao đổi về một câu thơ của Truyện Kiều. 
hoa/Trao-doi-ve-mot-cau-tho-cua-Truyen-Kieu-132584/ 

File đính kèm:

  • pdflau_xanh_tu_ba_cung_tram_khoc_liet_trong_doi_thuy_kieu.pdf