Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3)

Tôi từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình nghe một diễn từ.

Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm thanh đã nghe, rồi dần dần hiểu

được một từ mới, khi nó xuất hiện trong nhiều nội dung khác nhau (nếu cả năm

mình mới nghe từ đó một lần, có nghĩa là từ ấy không thông dụng và, trong giai

đoạn này, ta không cần phải bận tâm đến nó!). Ví dụ: bạn nghe nhiều lần (âm

thanh) ‘oubou’ mà không hiểu nghĩa, lần lượt trong những câu sau:

- To play the ‘oubou’ you need to have strong arms.

- The ‘oubou’ is considered one of the most difficult instruments to play.

- The ‘oubou’ is very difficult to play, because Karen must force air at very high

pressure into the tiny double reed.

Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3) trang 1

Trang 1

Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3) trang 2

Trang 2

Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3) trang 3

Trang 3

Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3) trang 4

Trang 4

Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3) trang 5

Trang 5

Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3) trang 6

Trang 6

Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3) trang 7

Trang 7

Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3) trang 8

Trang 8

Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3) trang 9

Trang 9

Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang minhkhanh 7080
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3)

Làm sao nghe được tiếng Anh (part 3)
Làm Sao Nghe Được Tiếng Anh 
 (Part 3) 
 Tôi từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình nghe một diễn 
từ.Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm thanh đã nghe, rồi dần dần hiểu 
được một từ mới, khi nó xuất hiện trong nhiều nội dung khác nhau 
1. ‘Nghe’ trong ngữ cảnh. 
Tôi từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình nghe một diễn từ. 
Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm thanh đã nghe, rồi dần dần hiểu 
được một từ mới, khi nó xuất hiện trong nhiều nội dung khác nhau (nếu cả năm 
mình mới nghe từ đó một lần, có nghĩa là từ ấy không thông dụng và, trong giai 
đoạn này, ta không cần phải bận tâm đến nó!). Ví dụ: bạn nghe nhiều lần (âm 
thanh) ‘oubou’ mà không hiểu nghĩa, lần lượt trong những câu sau: 
- To play the ‘oubou’ you need to have strong arms. 
- The ‘oubou’ is considered one of the most difficult instruments to play. 
- The ‘oubou’ is very difficult to play, because Karen must force air at very high 
pressure into the tiny double reed. 
Lần đầu tiên, bạn chẳng biết âm ‘oubou’ chỉ cái gì, nhưng vì đi với play nên bạn 
đoán rằng đó là một cái gì để ‘chơi’. Như thế là đã ‘hiểu’ một cách tổng quát. Lần 
2, với từ ‘instrument’ bạn biết rằng đó là cái để ‘chơi’ nhưng không phải là trong 
thể thao, mà là trong âm nhạc. Lần thứ ba, với cụm từ ‘must force air’ thì ta biết 
rằng đó là một nhạc cụ thổi hơi (khí nhạc) chứ không phải là nhạc cụ dây hay gõ 
Và ta tạm hiểu như thế, mà không cần biết phải viết thế nào, cho đến khi đọc câu 
sau (chẳng hạn): 
The oboe looks very similar to the clarinet, but sounds very different! 
Thế là ta biết được rõ ràng đó là một nhạc khí tương tự như clarinet, và từ mà ta 
nghe là ‘oubou’ thì được viết là oboe (và ta đọc đúng ngay chứ không cần phải tra 
từ điển!) 
Ps: Đây cũng là vấn đề ‘hiểu’ một từ. Chúng ta có cảm giác rằng nếu dịch được 
tiếng ấy ra là ta hiểu ngay, thế nhưng không có gì sai cho bằng. Nếu bạn học theo 
quá trình ngược, nghĩa là khởi sự biết từ ấy dưới dạng chữ viết, bạn sẽ tra từ điển 
và đọc là: kèn ô-boa! Bạn thấy hài lòng vì mình đã hiểu! Nhưng thực ra, nếu bạn 
không phải là một nhạc sĩ, thì ‘kèn ô-boa’ cũng chẳng thêm gì trong kiến thức bạn. 
Ngay trong tiếng mẹ đẻ, ta có thể hài lòng với khái niệm mơ hồ về một từ, nhưng 
khi học ngoại ngữ thì ta có cái cảm giác sai lầm là phải trở lại với từ mẹ đẻ mới gọi 
là hiểu. Đối với tôi, nightingale là một loại chim có tiếng hót hay và thường hót 
vào ban đêm, còn có dịch ra là ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’ thì cũng bằng thừa, vì tôi 
chưa bao giờ thấy và biết chim ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’. Thậm chí không biết là có 
phải một loài chim hay hai loài chim khác nhau, vì cả hai từ đều được dịch là 
nightingale. 
 2. Nghe trong toàn bộ bối cảnh. 
Ta thường nghĩ rằng: ‘một từ thì có một nghĩa nhất định’. Hoàn toàn sai. 
- Thử tra từ ‘tiêu cực’ trong từ điển: negative. Như thế, ‘một cán bộ tiêu cực’ phải 
được dịch là ‘a negative cadre’! Nếu cụm từ tiếng Việt có ý nghĩa rõ ràng thì cụm 
từ dịch ra tiếng Anh (như trên) là hoàn toàn vô nghĩa! Nói cách khác: khi người 
Anh nói ‘negative’, thì người Việt hiểu là ‘tiêu cực’; nhưng khi người Việt nói 
‘tiêu cực’, thì người Anh không thể hiểu là ‘negative.’ 
- Từ đó ta không thể nào hiểu đúng nghĩa một từ tiếng Anh nếu không đặt vào 
trong bối cảnh của nó. Ví dụ: nếu không để ý rằng câu chuyện xảy ra ở Anh hay ở 
Mỹ, thì khi nghe từ corn ta có thể hiểu sai: Ở Anh là lúa mì, và ở Mỹ là bắp! 
Nếu thấy một người mở nắp bình xăng lên mà nói ‘Oh my! No more gas’ thì ta 
hiểu ngay rằng ‘gas’ chính là ‘xăng’, mặc dù trước đó mình có thể học: petrol hay 
gasoline mới là xăng, còn gas có nghĩa là khí đốt! 
Mà nhiều khi bối cảnh rõ đến nỗi, người ta dùng một từ sai mình cũng hiểu đúng. 
Bạn cứ thử đến cây xăng, mở bình và nói: đổ cho tôi 30.000 dầu! Tôi cam đoan là 
người ta không thắc mắc gì cả và sẽ đổ XĂNG chứ không đổ DẦU vào xe bạn; cao 
lắm là trong 100 lần, thì một lần người ta nhắc lại: đổ xăng phải không? Bạn nói là 
Dầu người ta vẫn hiểu là Xăng. Và trong tiếng Anh cũng thế! Bạn sẽ hiểu một từ 
trong toàn bộ bối cảnh của nó. 
3. Nghe với tất cả giai điệu của câu. 
Trong phần đầu tôi nói rằng khi ‘nghe’ một câu, chủ yếu là làm sao nắm bắt được 
thông tin của chuỗi âm thanh ấy. Nói cách khác, ngôn ngữ có nhiệm vụ là truyền 
tin. Nhưng ngoài nhiệm vụ truyền tin thì còn một nhiệm vụ thứ hai, vô cùng quan 
trọng, ấy là nhiệm vụ truyền cảm (truyền một tình cảm). Một câu nói giao tiếp 
hằng ngày, luôn chuyển tải một phần của thất tình (= bảy tình cảm con người, chứ 
không phải là bị tình phụ đâu: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Vì thế, cao độ, tốc độ, 
cường độ của câu nói, trường độ (độ dài) và dấu nhấn của một từ, có thể là điều 
mình cần phải ‘nghe’ cùng một lúc với các âm thanh được phát ra, thậm chí nghe 
âm điệu là chính. Nếu không thì ta hiểu sai, hoặc không hiểu gì cả. Đừng tưởng 
rằng khi ta nghe được từ ‘hate’ là ta hiểu ngay: ghét! 
Vì dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: I hate you! Câu này không phải lúc nào 
cũng là ‘Em ghét anh’! Nói với một ngữ điệu nào đó thì có thể hiểu là: Tôi căm thù 
anh; hay Thôi, để tôi yên; hay Anh làm tôi bực mình; hoặc trái lại: Anh làm em 
cảm động quá; thậm chí: Em yêu anh quá chừng chừng! 
Và cách nhấn câu cũng thế. Ví dụ trong câu sau đây: 
Ididn’t say Paul stole my watch! 
Nếu người nói nhấn mạnh các từ theo 7 cách khác nhau, mỗi cách nhấn một từ ( I – 
didn’t – say – Paul – stole – my – watch ) thì nghĩa sẽ khác nhau hoàn toàn: 
I didn’t say Paul stole my watch! (Somebody else said that!) 
I didn’t say Paul stole my watch! (No! I didn’t act like that) 
I didn’t say Paul stole my watch! (I disclosed by another way, but I didn’t SAY) 
v.v 
Khi học tiếng Việt, chúng ta nghe toàn bộ giai điệu, nên nghe (và nói) đúng cao độ 
của một từ (đúng các dấu); thế nhưng khi một người nước ngoài học tiếng Việt, 
chúng ta phải khổ công giải thích cho họ lên giọng, xuống giọng, uốn giọng như 
thế nào để nói các dấu sắc, huyền, nặng, hỏi – ngã (do học nghe bằng tai nên người 
Nam và người Trung đồng hóa ? và ~, trong khi người Bắc phân biệt chúng rõ 
ràng). Vì thế, ngược lại, khi nghe tiếng Anh, cần phải nghe toàn bộ âm điệu để nắm 
bắt những tình cảm bên dưới câu nói. 
Nghe với cả giai điệu, mình sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu hay thành ngữ 
một cách chính xác như người bản ngữ, mà không cần phải dịch ra. Ví dụ: các câu 
ngắn như: Oh my God! Look at this! Hoặc No way! Hoặc You’re joking/kidding! 
Với giọng điệu khác nhau, những câu nói hằng ngày đó có thể được hiểu là một 
tiếng khen hay chê, thán phục hay thất vọng, bằng lòng hay bất bình, chấp thuận 
hay từ chối! 
Và từ đó, mình sẽ biết đối xử khi dùng tiếng Anh cho đúng nghĩa, chứ không chỉ 
đúng văn phạm. Ví dụ, khi tiếp một nhân vật quan trọng đến công ty bạn, bạn 
chuẩn bị nói một câu mời rất trân trọng và đúng nghi thức (formal): Would you 
please take a seat? Thế nhưng bạn căng thẳng đến độ nói theo một âm điệu nào đó 
khiến người kia bực mình với bạn (mà bạn không hề biết), vì ngỡ rằng bạn diễu cợt 
người ta! Thế là hỏng cả một cuộc đàm phán. Thà rằng bạn nói đơn sơ: Sit down! 
Với một giọng hòa nhã, thái độ tôn trọng, cử chỉ lịch thiệp và nụ cười nồng hậu, thì 
không ai lầm bạn! Trái lại, nói câu rất formal trên kia, với thái độ căng thẳng và 
giọng nói cộc lốc (vì sợ nói sai!), thì tai hại hơn nhiều. 
4. Nghe với những gì một từ bao hàm. 
Ngôn ngữ dùng để truyền tin, nhưng đồng thời cũng truyền cảm. Vì thế, mỗi danh 
từ vừa chỉ định một cái gì cụ thể (denotation), vừa kèm theo một tình cảm 
(connotation). Các từ this gentleman, this man, this guy, this rascal đều có một 
denotation như nhau là một người nam nào đó, nhưng connotation thì hoàn toàn 
khác; cũng như đối với một người nữ nào đó ta có thể dùng: a lady, a woman, a 
girl, a whore. Cùng một từ như communism chẳng hạn. Đối với một đảng viên 
đảng Cộng Sản hay một cảm tình viên, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều dịu dàng 
cao đẹp, còn đối với người chống cộng, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều xấu xa, độc 
ác! Trong khi denotation của nó chỉ là một triết thuyết như trăm ngàn thuyết thuyết 
khác, mà dù thích dù không, người ta cũng phải dùng để chỉ định triết thuyết do 
Karl Marx đề ra! Từ đó, câu nói ‘You’re a communist!’ có thể là một lời khen 
nồng ấm hoặc là một lời chỉ trích thậm tệ, tùy theo connotation của nó. 
Khi học tiếng Anh, muốn nâng cao vốn từ vựng thì ta cố học nhiều từ đồng nghĩa 
(synonyms). Thế nhưng, không bao giờ có synonyms đích thực cả: chỉ tương 
đương trong denotation chứ connotation hoàn toàn khác (và cũng vì thế mà không 
bao giờ có hai từ hoàn toàn có nghĩa giống nhau ở hai ngôn ngữ khác nhau: 
father/mother không hoàn toàn là cha/mẹ – và daddy/mummy không hoàn toàn là 
ba/má; vì tình cảm đính kèm với các từ ấy khác hẳn giữa người Việt và người 
Anh). “Nghe” tiếng Anh, chính là biết nghe những connotations trong các thuật 
ngữ mình nghe. 
Cho đến nay, tôi chỉ đề nghị các bạn nghe tin tức. Nhưng đó là giai đoạn nghe để 
quen với các âm. Trong giai đoạn ‘nghe’ tiếng Anh này, phải bớt giờ nghe tin tức 
mà xem phóng sự hoặc các phim truyện. Trên thế giới, các speakers của các 
chương trình tin tức buộc phải nói với thái độ neutral, nghĩa là không được dùng từ 
kèm theo tình cảm, và không được xử lý âm điệu để bộc lộ tình cảm của mình, vì 
thế họ nói rất dễ nghe, nhưng chỉ nghe tin tức thôi thì ta bỏ sót một phần khá chủ 
yếu trong tiếng Anh. 
(Trái lại xướng ngôn viên Việt Nam nhiều khi chưa làm chủ được tình cảm mình 
trong quá trình đọc một bản tin, và người ta thấy ngay là xướng ngôn viên vui 
mừng hay bực tức, tán đồng hay bất đồng, với nội dung bản tin mình đọc. Còn 
người viết bản tin thì dùng những từ có connotation: ví dụ trước kia, khi nói đến 
một tổng thống Mỹ thì bao giờ cũng là ‘tên Kennedy’ hoặc ‘tên tổng thống 
Kennedy’. Còn hiện nay thì ‘Ngài tổng thống Bush’, mà ít khi nói một cách trung 
lập: Tổng Thống G. Bush. Trong khi đó, hầu như không bao giờ nghe trong một 
bản tin: ‘Cố chủ tịch Hồ Chí Minh’, mà lúc nào cũng là ‘Bác Hồ’. Thuật ngữ ‘Bác 
Hồ’ mặc nhiện tiềm ẩn một tình yêu thương và kính trọng đến độ cụm từ ‘cố chủ 
tịch Hồ Chí Minh’, vốn là một cụm từ neutral, lại trở thành một cụm từ ‘thất kính, 
xem thường’ đối với ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh’!) 
5. Nghe bằng trái tim để cảm điều họ cảm. 
Và cuối cùng, đối với các bạn muốn đi thật sâu vào tiếng Anh, thì có thể phối hợp 
tất cả các kỹ năng để hiểu những điều tiềm tàng bên dưới ngôn ngữ giao tiếp; và 
điều này hướng đến cách nghe văn học. Mọi ngôn ngữ đều gợi lên một cái gì đó 
vượt lên trên từ ngữ. Vì thế, thi ca là một ngôn ngữ đặc biệt. Người Việt nào, dù 
thích hay không thích, vẫn cảm được ngôn ngữ của thi ca. Do đó, muốn nâng cao 
kỹ năng ‘nghe’ tiếng Anh của mình thì cần tập nghe những bài thơ. Cho đến nay, 
khó tìm những bài thơ audio, nhưng không phải là không có. Tập nghe đọc thơ, 
dần dần, chúng ta sẽ cảm được cái tinh túy của tiếng Anh, từ đó ta cảm được vì sao 
cùng một tư tưởng mà diễn đạt cách này thì ‘hay’ hơn cách kia. Bấy giờ ta mới có 
quyền nói: tôi đã ‘nghe’ được tiếng Anh. 
Ví dụ, khi muốn người ta cảm nhận tiếng gió mùa thu, thì Xuân Diệu đã sử dụng 
âm ‘r’ trong bài “Đây Mùa Thu Tới”: 
Những luồng run rẩy rung rinh lá 
Tương tự như vậy Robert L. Stevenson viết trong The Wind 
I saw you toss the kites on high 
And blow the birds about the sky; 
And all around I heard you pass, 
Like ladies’ skirts across the grass.. 
Tác giả đã làm cho ta cảm được làn gió hiu hiu với các âm ‘r’ và ‘s’ nối tiếp và 
quyện vào nhau trong câu cuối, kèm với hình ảnh độc đáo của váy các mệnh phụ 
lướt qua trên cỏ (điều mà người Việt Nam hoàn toàn không có kinh nghiệm, vì mọi 
nét yêu kiều đều gắn liền với tà áo dài). 
Kết luận: 
Tôi đã bắt đầu gợi ý nghe tiếng Anh để rồi đi đến vấn đề ‘nghe’ tiếng Anh. Tuy 
nhiên, tôi lặp lại, những gì tôi nói chỉ là lý thuyết, và không có lý thuyết nào có thế 
làm cho bạn nghe được tiếng Anh. Cách duy nhất ấy là bạn phải tự mình nghe và 
rút ra những phương pháp thích hợp với xu hướng, kinh nghiệm và sở thích của 
mình. 
Qua loạt bài này, tôi luôn đả phá cách nghe dựa trên viết và dịch. Thế nhưng, 
những điều tôi cho là trở ngại, nhiều khi lại có ích cho bạn, vì những thứ ấy không 
cản trở mà còn giúp bạn những cột móc để bám vào. Vâng. Nếu các bạn thấy việc 
đọc script, hoặc học từ vựng, hoặc viết thành câu và tra từ điển – như vẫn làm từ 
trước đến nay – giúp cho bạn nghe và hiểu nhanh hơn thì cứ sử dụng phương pháp 
của mình. Tôi chỉ nhắc lại một điều này: 
Tất cả những trợ giúp đó cũng giống như chiếc phao cho người tập bơi. Khi tập 
bơi, nhiều người cần có một cái phao để bám vào cho dễ nổi, từ đó bạo dạn xuống 
nước mà tập bơi. Và không ít người bơi giỏi đã khởi sự như thế. Bạn cũng vậy, có 
thể những cách nghe từ trước đến giờ (nhìn script – học từ – kiểm tra văn phạm) 
giúp bạn những cột chắc chắn để bám vào mà nghe. Vậy thì xin nhớ rằng: Chiếc 
phao giúp cho bạn nổi, nhưng không giúp cho bạn biết bơi. Đến một giai đoạn nào 
đó, chính chiếc phao lại cản trở bạn và không cho bạn bơi thoải mái. 
Hãy vứt cái phao sớm chừng nào hay chừng nấy, nếu không nó trở thành một trở 
ngại cho bạn khi bạn muốn bơi nhanh và xa. 
Hãy vứt những chữ viết khi nghe nói, nhanh chừng nào hay chừng ấy, nếu không 
chúng sẽ cản trở bạn và bạn không bao giờ thực sự ‘nghe’ được tiếng Anh! 

File đính kèm:

  • pdflam_sao_nghe_duoc_tieng_anh_part_3.pdf