Kiều thanh quế với những công trình ra đời trong thời gian bị quản thúc ở Cần Thơ
Kiều Thanh Quế là nhà phê bình, nghiên cứu văn học tiêu biểu ở Nam Bộ vào
những năm đầu thế kỷ XX. Ông là một người yêu nước, từng tham gia các hoạt
động cứu nước, có thái độ căm ghét cường quyền và từng bị quản thúc tại Cần
Thơ. Cần Thơ đã trở thành vùng đất nặng ân tình với ông. Trên xứ sở Cầm Thi,
trong những ngày bị chính quyền đương thời theo dõi, kìm kẹp ông đã đạt được
nhiều thành tựu trong sự nghiệp cầm bút. Đất, người Cần Thơ đã lưu dấu ấn
trong các công trình nghiên cứu của ông.
Những công trình, bài báo ra đời trong thời gian Kiều Thanh Quế ở Cần Thơ đã
thể hiện tấm lòng, tài năng của một người say mê văn học, miệt mài cống hiến
vì sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc. Tuy vẫn còn đâu đó hạn chế nhất định,
nhưng các công trình ấy vẫn đủ để chứng minh thời gian ở Cần Thơ là thời gian
Kiều Thanh Quế viết sung sức nhất và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp nghiên
cứu, phê bình ở buổi bình minh của văn học quốc ngữ
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiều thanh quế với những công trình ra đời trong thời gian bị quản thúc ở Cần Thơ
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 23 KIỀU THANH QUẾ VỚI NHỮNG CÔNG TRÌNH RA ĐỜI TRONG THỜI GIAN BỊ QUẢN THÚC Ở CẦN THƠ HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG* NGUYỄN VĂN NỞ** Kiều Thanh Quế là nhà phê bình, nghiên cứu văn học tiêu biểu ở Nam Bộ vào những năm đầu thế kỷ XX. Ông là một người yêu nước, từng tham gia các hoạt động cứu nước, có thái độ căm ghét cường quyền và từng bị quản thúc tại Cần Thơ. Cần Thơ đã trở thành vùng đất nặng ân tình với ông. Trên xứ sở Cầm Thi, trong những ngày bị chính quyền đương thời theo dõi, kìm kẹp ông đã đạt được nhiều thành tựu trong sự nghiệp cầm bút. Đất, người Cần Thơ đã lưu dấu ấn trong các công trình nghiên cứu của ông. Những công trình, bài báo ra đời trong thời gian Kiều Thanh Quế ở Cần Thơ đã thể hiện tấm lòng, tài năng của một người say mê văn học, miệt mài cống hiến vì sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc. Tuy vẫn còn đâu đó hạn chế nhất định, nhưng các công trình ấy vẫn đủ để chứng minh thời gian ở Cần Thơ là thời gian Kiều Thanh Quế viết sung sức nhất và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp nghiên cứu, phê bình ở buổi bình minh của văn học quốc ngữ. Từ khóa: Kiều Thanh Quế, Tây Đô văn đoàn, quản thúc, văn học quốc ngữ Nhận bài ngày: 12/12/2019; đưa vào biên tập: 15/12/2019; phản biện: 20/1/2020; duyệt đăng: 15/3/2020 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Phê bình, khảo cứu, nghiên cứu văn học là những hoạt động không thể thiếu trong lịch sử phát triển văn học của mọi quốc gia trên thế giới. Văn học Việt Nam không ngoại lệ. Vào thời kỳ đầu của văn học hiện đại, Nam Bộ đi tiên phong trong lĩnh vực sáng tác nhƣng chƣa có thành tựu cao về nghiên cứu, phê bình văn học. Trong bối cảnh văn học Nam Bộ bị cho là: “thƣờng chỉ nở ra bề mặt, trên một báo chí phù du. Đôi khi ngƣời ta có những sáng kiến, đi những bƣớc tiên phong táo bạo, nhƣng mà thiếu tiềm lực ở giới viết cũng nhƣ giới đọc để nuôi dƣỡng cho thành phong trào phát tỏa ra toàn quốc” (Phạm Thế Ngũ 1965: 629), Kiều Thanh Quế đã xuất hiện nhƣ một ngôi sao sáng của văn học Nam Bộ. Ông trở thành “nhà phê bình văn học hiếm có của Nam Bộ” (Hoài Anh, 2001: 923-939). Sự nghiệp viết văn của Kiều Thanh Quế song hành cùng những biến thiên của lịch sử dân tộc, có những khúc quanh nhƣng đã lên đƣợc đỉnh cao. Ông trở *, ** Trƣờng Đại học Cần Thơ. HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ 24 thành ngƣời “có công đối với sự phát triển của phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX” (Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 3). 2. CƠ DUYÊN VỚI CẦN THƠ VÀ TÂM TÀI CỦA KIỀU THANH QUẾ “Hoàn cảnh và phong thổ đào tạo nên một thiên tài”, một tiêu đề trong “Thi hào Tagore” của Kiều Thanh Quế có ghi nhƣ thế. Đúng nhƣ vậy. Không chỉ với trƣờng hợp của Tagore, mà còn là của nhiều ngƣời. Biết rằng chƣa thể nói Kiều Thanh Quế là thiên tài nhƣng vẫn phải thừa nhận năng lực ngòi bút của ông. Hoàn cảnh, môi trƣờng khách quan cũng đã tác động nhiều đến sự thành ông của Kiều Thanh Quế. Bị cƣỡng bức xuống Cần Thơ, sống trong vòng quản thúc của chính quyền Pháp, phải chăng đã làm nên một “hoàn cảnh” đặc biệt! Đất và ngƣời Cần Thơ đã giúp ông phát triển văn tài. Những “hạt giống” ý tƣởng đã gặp “phong thổ” thích hợp, nhanh chóng nảy mầm, từ đó tạo nên nhiều công trình có đóng góp lớn cho văn học Nam Bộ. Cần Thơ với cuộc đời cầm bút của Kiều Thanh Quế chắc hẳn rất nhiều ân tình, kỷ niệm khó phai, là nơi đã đem lại cho ông “thời kỳ viết sung sức nhất trong quãng đời sáng tạo ngắn ngủi của mình” (Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 3). 2.1. “Duyên tình” của đất và ngƣời Cần Thơ đối với Kiều Thanh Quế Cần Thơ gạo trắng nước trong Ai đi đến đó lòng không muốn về. Câu ca dao quen thuộc ấy, theo thời gian đã đi vào tâm thức ngƣời Việt, nhƣ chào mời, vẫy gọi những ai chƣa từng đến vùng đất này. Chắc hẳn, Cần Thơ có sức mời gọi lớn, mà cũng rất biết lƣu tình. Và năm 1940, Kiều Thanh Quế đã đến, nhƣng không vì nhu cầu để đƣợc khám phá vẻ đẹp sông nƣớc miền Tây, hay tìm cảm hứng sáng tác. Ông đã bị nhà cầm quyền Pháp cƣỡng bức đến đây, phải chịu sự quản thúc gắt gao của kẻ thù. Vốn sinh trƣởng trong một gia đình giàu lòng yêu nƣớc, có nhiều ngƣời tham gia cứu nƣớc, ở Bà Rịa - Vũng Tàu, bản thân ông cũng từng tham gia các tổ chức yêu nƣớc trong thời gian học ở Sài Gòn. Tuổi trẻ, tính cƣơng trực, nỗi bất bình về những chuyện phi lý trong xã hội đã dẫn ông đến chỗ xích mích với tên sếp chợ ngƣời Ấn, quốc tịch Pháp, khiến nhà chức trách đƣơng thời phải tìm cách đối phó. Nào ngờ đó lại là cái “duyên”, đƣa đẩy ông đến với đất và ngƣời Cần Thơ. Cái “duyên” bất đắc dĩ ấy lại tạo nên những kỷ niệm đẹp, những ấn tƣợng sâu sắc trong cuộc đời viết văn của ông. Những năm đầu của thập niên 40, ở thế kỷ trƣớc, không khí chính trị có nhiều phức tạp nhƣng lại hâm nóng đƣợc ý thức dân tộc ở tầng lớp trí thức Việt Nam, trong đó có trí thức Nam Bộ, đặc biệt là những ngƣời cầm bút. Họ xông xáo lao vào nhiều hoạt động văn hóa, xã hội, muốn góp sức cho sự phát triển văn hóa dân tộc, vì lợi ích quốc gia. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 25 Nhiều sinh hoạt văn hóa, văn học diễn ra trong thời gian này, nhƣ tuần lễ triển lãm sách báo ở Sài Gòn, năm 1942, do nhà sách Nguyễn Khánh Đàm tổ chức, có bình chọn 10 quyển sách quốc văn có giá trị nhất (Nho giáo của Trần Trọng Kim đƣợc xếp hạng nhất, Truyện Kiều đứng thứ hai). Báo Tri Tân tổ chức thi về sử khảo. Giải nhất thuộc về Trần Văn Hai với bài Lãnh sự Việt Nam ở Sài Gòn. Sinh hoạt văn học ở Nam Bộ lúc đó trở nên khởi sắc. Đấy là nhờ sự hỗ trợ, khích lệ của các hội Khuyến học. Những tổ chức mang tính chính quy, hợp pháp thời bấy giờ có chức năng điều hành nhiều sinh hoạt văn hóa. Đáng chú ý là những ngƣời đứng đầu của tổ chức ấy thƣờng quan tâm đến hoạt động văn học nghệ thuật. Họ mong muốn làm gì đó để thúc đẩy văn học nƣớc nhà phát triể ... ỳ vọng ở những nhà phê bình chân chính, mong mỏi họ sẽ là ngƣời có đủ tài, lực, tâm huyết để đƣa các nhân tài bị lãng quên hay bị vùi lấp trong định kiến, thoát ra khỏi bóng tối, giúp họ khẳng định đƣợc đóng góp vốn có. Tấm lòng của ông luôn hƣớng về sự thịnh vƣợng của nền văn học Việt Nam. Vì thế, theo Kiều Thanh Quế, nhà phê bình phải giữ vai trò hƣớng đạo viên, là chất xúc tác mạnh mẽ, khích lệ ngƣời sáng tác. Cốt sao cho nền văn học nƣớc nhà có nhiều viên ngọc lấp lánh. Là ngƣời chân tâm với văn học, Kiều Thanh Quế rất lo lắng trƣớc bao biểu hiện xấu, có thể làm cản trở sự phát triển chung của văn học Việt Nam. Ông ái ngại trƣớc “cái lối văn chƣơng rƣờm rà mà trống rỗng đang nhiễu hại xứ này” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 213). Ông băn khoăn, trăn trở vì “cái thói nhân tuần nó nhiễu hại dƣờng kia” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 214). Đối với những ngƣời nhạy cảm, biết yêu cái đẹp trong cuộc sống, có niềm đam mê cống hiến, chỉ cần một tiếng thở nhẹ của cuộc đời cũng đủ làm bật dậy nguồn cảm hứng trào dâng. Với Kiều Thanh Quế, một nhà nghiên cứu, phê bình văn học rất có tâm, thì chỉ một bƣớc khẽ trong chuyển động của văn học cũng làm ông chú ý, quan tâm, trăn trở. Để rồi nhanh chóng trở thành bao đề tài thiết thực cho những công trình nghiên cứu đáng ghi nhận. Vì lẽ đó, chúng ta không khó lý giải tại sao trong một thời gian ngắn, sống với cảnh bị quản thúc, xa quê nhà, đối mặt với nhiều khó khăn, Kiều Thanh Quế vẫn có thể viết thật nhiều, khai thác thật nhiều vấn đề của văn học đƣơng thời và trƣớc đó. Kiều Thanh Quế còn luôn ƣớc ao sách bằng chữ quốc ngữ phổ biến, để tất cả ngƣời Việt đều có thể đọc đƣợc. Ông cũng mong muốn văn học dịch phát triển để tinh hoa văn học nƣớc ngoài đến với ngƣời Việt sâu rộng hơn, văn học Việt Nam phát triển mạnh hơn. Ông tin tƣởng: “Nƣớc ta sau này hay dở thế nào đều nhờ ở sách dịch, và sự phiên dịch nó là nòng cốt khả dĩ đƣa văn học quốc ngữ đến cõi hoàn mỹ” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 207). Phê bình cũng là một hoạt động tiếp nhận. Kiều Thanh Quế là nhà phê bình có cách tiếp nhận vừa tinh tế, vừa khách quan. Ông luôn xem xét vấn đề của văn học trong hoàn cảnh nó ra đời và cũng biết đứng trên quan điểm thời đại với một thái độ trung TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 31 hòa, để đánh giá sao cho công bằng. Ông cho rằng: “quan niệm về đẹp, về nghệ thuật, tùy mỗi thời đại, mỗi xã hội, mỗi cái khác nhau” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 213). Có lẽ nhờ thế và cùng với cái tâm thiện, Kiều Thanh Quế thƣờng có cách phê bình rất ôn hòa, khách quan. Bao giờ ông cũng có khen chê rạch ròi, đúng mực. Hiếm thấy hiện tƣợng hạ bệ, chỉ trích nặng nề hay đả phá cay nghiệt nhƣ một số nhà phê bình khác từng làm. Bởi thâm tâm ông luôn hƣớng vào mục đích cuối cùng là nghiên cứu, phê bình để đƣa nền văn học Việt Nam đến sự phát triển một cách hoàn mỹ. Đôi khi, ông cũng buông lời trách móc: “Tự lực văn đoàn mỗi năm có phát giải thƣởng văn chƣơng khuyến khích nhân tài. Nhƣng rất tiếc giải thƣởng Tự lực văn đoàn chỉ là một giải tặng ròng cho các loại tiểu thuyết, phóng sự, thơ ca, kịch bản, chớ chẳng hề có tặng cho một tập văn nghị luận, khảo cứu phê bình nào! Phạm vi một giải thƣởng văn chƣơng mà chật hẹp nhƣ thế, thật đáng phiền hà lắm” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 178). Cũng có lần, xuất phát từ sự lo lắng cho cái chung, Kiều Thanh Quế không kiềm nén đƣợc cảm xúc, trở nên cay cú, bực dọc: “trình độ thấp kém của độc giả nƣớc ta đã giết chết bao nhiêu tạp chí, tuần báo giá trị rồi?” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 179). Con ngƣời nặng tình với văn chƣơng và trách nhiệm lớn với văn hóa dân tộc ấy, lắm lúc phải xót xa trƣớc thất bại của báo chí Trung Kỳ: “Thật là buồn!” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 179). Không riêng gì thời gian ở Cần Thơ, mà cả cuộc đời ngắn ngủi gắn bó với sự nghiệp nghiên cứu, phê bình văn học, Kiều Thanh Quế đã vui, buồn, sƣớng, khổ cùng với những thăng trầm của văn học nƣớc nhà. Tâm hồn ông nhƣ hòa nhập vào số phận chung của văn học nƣớc nhà. Nguyễn Du từng cho rằng “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, nhƣng phải có tài, tâm mới thỏa. Kiều Thanh Quế vừa có tâm lại có tài. Cái tài của nhà phê bình không từng “học nghề” nhƣng lại rất chuyên nghiệp. Ở vào cái thời mà hoạt động phê bình còn hết sức non trẻ, Nam Bộ lại là nơi hiếm hoi ngƣời đặt chân vào địa hạt vừa mới mẻ, vừa phức tạp này, Kiều Thanh Quế đã rất vững bƣớc trên hành trình gian nan, nhiều thách thức, chính là nhờ vào tài năng nhƣ là thiên bẩm. Ông nhƣ một tay lái tài hoa, nắm vững quy luật sông nƣớc, biết rõ cách chèo chống. Cho nên dù có phong ba, vẫn đƣa thuyền băng băng lƣớt sóng, chẳng hề biết sợ gì cả. Các công trình nghiên cứu của Kiều Thanh Quế đã chứng minh ông là một nhà phê bình có kiến thức uyên bác. Ông nắm rõ văn học trong và ngoài nƣớc. Để nghiên cứu thành công văn học, Kiều Thanh Quế còn ý thức trau dồi kiến thức của nhiều lĩnh vực khác. Nhờ thế, ông rất am hiểu lịch sử, địa lý, văn hóa. Đặc biệt, Kiều Thanh Quế có trình độ ngoại ngữ đáng ngƣỡng mộ. Ông đã vận dụng tài tình vốn ngoại ngữ vào việc nghiên cứu, phê bình. HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ 32 Nhất là với công trình Thi hào Tagore. Ông có kỹ năng đọc sách rất tốt. Sự thông minh, nhạy bén giúp ông đọc nhanh nên tiếp cận rất nhiều sách Đông Tây, thâu tóm đúng những gì cần thiết để đem ra bàn. Dù chƣa qua trƣờng lớp đào tạo, chƣa đƣợc trang bị một cách bài bản về phƣơng pháp nghiên cứu khoa học nhƣng các công trình nghiên cứu của Kiều Thanh Quế đã thể hiện tính khoa học khá cao. Các bài báo của Kiều Thanh Quế thƣờng ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề muốn nói, không biện giải dài dòng nhƣng vẫn cung cấp đủ lƣợng thông tin cho ngƣời đọc tiếp nhận đúng vấn đề. Công trình Ba mươi năm văn học dù đƣợc hoàn thành vào buổi bình minh của văn học quốc ngữ, công việc biên soạn văn học sử chƣa có nhiều thành tựu, Kiều Thanh Quế vẫn có đƣợc cách trình bày khoa học, rõ ràng, theo một quan điểm riêng, phác họa gƣơng mặt mới của văn học Việt Nam qua từng thể loại. Cách làm này, giúp ngƣời đời sau có thể nhận diện sự thịnh vƣợng hoặc chậm tiến của từng thể loại. Đồng thời, hình dung đƣợc tính đa dạng, phong phú của văn học quốc ngữ trong buổi đầu mới hình thành. Lập luận của Kiều Thanh Quế trong phê bình rất súc tích và chắc, mà cũng rất sinh động, dẫn dắt ngƣời đọc đi vào sự chú ý, cuốn hút theo dõi đến cùng. Văn phê bình của Kiều Thanh Quế gãy gọn, mộc mạc, chân tình. Một nét đặc biệt là đoạn văn trong bài báo hay chuyên khảo của Kiều Thanh Quế thƣờng rất ngắn nhƣng không vì thế mà thiếu ý. Giọng văn đặc sệt Nam Bộ nhƣng không có vẻ quê mùa, lƣợm thƣợm nhƣ một số tác giả cùng thời. Kiều Thanh Quế thích dùng từ Hán Việt vì thế câu văn tự nhiên mà vẫn trang trọng, mực thƣớc. Trong diễn đạt, ông có những liên tƣởng sinh động. Bàn về cách kết cấu trong đoản thiên tiểu thuyết, để nhấn mạnh tính chặt chẽ của nó, ông đã có một liên tƣởng khá thú vị: “Đoản thiên tiểu thuyết trọng nhất ở chỗ kết cấu. Nếu kết cấu làm sao khi đọc dứt bài rồi ngƣời ta mới thấy manh mối đầu đuôi và chừng ấy manh mối đầu đuôi mới càng ngày càng tỏ rõ thêm mãi, thời là một bài đoản thiên tiểu thuyết hay. Làm sao cho ngƣời đọc càng nhớ trở lại câu chuyện, càng thấy mỗi câu mỗi lời, có ý nghĩa thâm trầm thấm thía hơn hồi đƣơng đọc; càng thấy mỗi câu mỗi lời ở đúng vào chỗ của nó, càng thấy rút ra câu nào, lời nào, thời bài không còn vững nữa, cũng nhƣ trong một cái khung cửa vòng nguyệt xây bằng gạch không rút đƣợc viên nào ra mà không làm sập khung cửa vậy” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 216). Ngƣời đọc thời nay, tiếp nhận trang văn của Kiều Thanh Quế không cảm thấy quá xa cách, chuyện nói ở thế kỷ trƣớc mà cứ ngỡ nhƣ mới đây. Ngƣời Việt có câu tục ngữ rất hay: “Ngọc lành hay có tỳ vết”, ở đời không có gì là toàn vẹn cả! Thậm chí ngƣời tài còn dễ lắm tật. Kiều Thanh Quế không lắm tật nhƣ thói thƣờng của ngƣời đời. Và các công trình nghiên TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 33 cứu, phê bình của ông không sao tránh khỏi những hạn chế. Đọc tác phẩm của Kiều Thanh Quế, ta nhƣ đang ăn một bát cơm gạo mới thơm lừng, bất chợt chạm phải vài hạt sạn li ti, khiến ta ngậm ngùi tiếc nuối. Ngoài cái văn phong “còn khá luộm thuộm, cũ kỹ” (Nguyễn Thị Thanh Xuân 2004: 358), ông còn có những quan niệm, kiến giải chƣa chuẩn xác, thể hiện sự chủ quan nhất định. Trong Ba mươi năm văn học, Kiều Thanh Quế chọn mốc thời gian năm 1914 - 1941 để tính sổ ba mƣơi năm của văn học quốc ngữ trong buổi đầu là thiếu hợp lý, không dựa trên một cơ sở nào mang tính thuyết phục. Do vậy, công trình nghiên cứu, giới thiệu của ông chƣa thể khái quát đƣợc đặc trƣng của văn học quốc ngữ trong chặng đƣờng đầu. Là một cây bút tiêu biểu nhất của Nam Bộ thời bấy giờ, sinh ra, lớn lên và viết văn trên vùng đất này nhƣng Kiều Thanh Quế tỏ ra chƣa tin tƣởng nhiều vào văn học và các sinh hoạt văn hóa của Nam Bộ. Ông cộng tác đắc lực cho báo Tri Tân ở Hà Nội. Trong khi, báo chí Nam Bộ thời đó phát triển rất mạnh. Ở bài phụ lục “Chuyện buồn cười ở làng báo Nam Kỳ ngày xưa”, Kiều Thanh Quế tích cực khai thác mặt trái của giới báo chí Nam Bộ. Trong cái nhìn của ông, họ rất thực dụng, thiếu tƣ cách của ngƣời làm văn hóa: “hết công kích vị chủ bút nầy, lại chỉ trích ông đầu bút kia”, đến mức “phong trào cãi lộn ở làng báo Nam Kỳ bấy giờ ngày một thêm kịch liệt” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 209). Một điều thật đáng tiếc, Kiều Thanh Quế còn giữ khoảng cách khá xa với công chúng. Ông xem họ là những ngƣời ít học, kém hiểu biết, trình độ thấp. Không ít lần, trong các bài viết của mình, Kiều Thanh Quế cho rằng: “trình độ độc giả lúc bấy giờ thấp kém lắm” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 208). Và chính “trình độ thấp kém của độc giả nƣớc ta đã giết chết bao nhiêu tạp chí, tuần báo giá trị” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 179). Văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ là bộ phận đi tiên phong trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Nhiều cây bút tiểu thuyết, truyện ngắn ở Nam Bộ đã làm nên thành tựu xuất sắc trong giai đoạn mở đƣờng của văn học quốc ngữ. Thế mà, dƣờng nhƣ chƣa đƣợc Kiều Thanh Quế đánh giá cao và ghi nhận đúng mực. Nhất là vai trò đi tiên phong của văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ. Khi đề cập đến những tác phẩm tiểu thuyết quốc ngữ trong thời kỳ đầu, ông chỉ bàn đến Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Kiều Thanh Quế nhấn mạnh: “Tiểu thuyết quốc ngữ bắt đầu thạnh hành từ năm 1924, phát đạt vào năm 1932” và “1924: Tố Tâm ra đời” (Dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 186). Thực tế, trƣớc đó, từ năm 1910, Nam Bộ đã xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết, đánh dấu giai đoạn thịnh hành của tiểu thuyết quốc ngữ, nhƣ: Hoàng Tố Anh hàm oan (1910) của Trần Thiên Trung, Ai làm được (1912) của Hồ Biểu Chánh, Hà Hương phong HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ 34 nguyệt (1912) của Lê Hoằng Mƣu, Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc (1917) của Biến Ngũ Nhy, Nghĩa hiệp kỳ duyên (1920) của Nguyễn Chánh Sắt Ông chủ trƣơng phát triển văn học dịch, đề cao các thành tựu văn học nƣớc ngoài, nhằm hƣớng đến kích thích sự phát triển văn học nƣớc nhà. Đó là tấm lòng đáng ghi nhận ở Kiều Thanh Quế. Tuy nhiên, đôi khi ông quá đề cao nƣớc ngƣời, lại có phần tự ti về nƣớc mình: “tủ sách dịch của văn học quốc ngữ hãy còn kém tủ sách dịch ở các nƣớc lân bang nhiều lắm – nhƣ ở Tàu và Nhật chẳng hạn” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 204). Tuy nhiên, những hạn chế nói trên không hề làm lu mờ đóng góp đáng trân trọng của Kiều Thanh Quế đối với sự nghiệp nghiên cứu, phê bình và khảo cứu văn học. Chỉ là một chút tiếc nuối! Cái tâm, cái tài của Kiều Thanh Quế vẫn luôn ngời sáng trong lịch sử văn học nƣớc nhà. 3. KẾT LUẬN Kiều Thanh Quế đã sớm về với đất mẹ. Sự ra đi của ông là niềm tiếc nuối lớn lao. Với tài năng ấy, tâm chí ấy lẽ ra nền phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam còn đƣợc đón nhận nhiều công trình xuất sắc hơn nữa. Mặc dù thời gian cống hiến quá ngắn ngủi nhƣng Kiều Thanh Quế đã cung cấp cho những ngƣời nghiên cứu về sau một nguồn tƣ liệu văn học sử vô cùng quý giá. Giới nghiên cứu học đƣợc ở ông rất nhiều, về phƣơng pháp, cách lập luận, cũng nhƣ cách cấu trúc cho một bài phê bình. Đặc biệt, phong cách phê bình mạnh dạn, dứt khoát, thẳng thắn mà ân cần, thành thật và chân tình của ông luôn tạo đƣợc ấn tƣợng đẹp trong lòng ngƣời đọc. Những gì Kiều Thanh Quế đã làm đƣợc hôm qua, ngày nay các thế hệ tiếp nối đang ghi nhận. Đặt trong bối cảnh nửa đầu thế kỷ XX, những công trình của Kiều Thanh Quế rất đáng ngƣỡng mộ, tôn vinh. Ông xứng đáng là niềm tự hào của văn học Nam Bộ. Trong đó, đất và ngƣời Cần Thơ đã đóng góp ít nhiều cho sự phát triển văn tài Kiều Thanh Quế. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Hoài Anh. 2001. Kiều Thanh Quế - nhà phê bình văn học hiếm có của Nam Bộ, in trong Chân dung văn học. Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn. 2. Bằng Giang. 1974. Mảnh vụn văn học sử. Sài Gòn: Nxb. Chân Lƣu. 2. Phạm Thế Ngũ. 1965. Việt Nam văn học sử giản ước tân biên. Sài Gòn: Nxb. Quốc học Tùng thƣ. 3. Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng. 2009. Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam - Tuyển tập khảo cứu phê bình. Hà Nội: Nxb. Thanh niên. 4. Nguyễn Thị Thanh Xuân. 2004. Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. TPHCM. Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM.
File đính kèm:
- kieu_thanh_que_voi_nhung_cong_trinh_ra_doi_trong_thoi_gian_b.pdf