Kiều hối và tỷ giá hối đoái: Nghiên cứu thực nghiệm tại các thị trường mới nổi
Đối với một quốc gia mở cửa nền kinh tế,
tỷ giá hối đoái luôn đóng vai trò quan trọng, tỷ
giá tác động đến cả hoạt động thương mại, đầu
tư và rủi ro vĩ mô của các quốc gia này. Có
nhiều yếu tố tác động đến tỷ giá như lạm phát,
lãi suất, cán cân thanh toán quốc tế, trong đó
một trong những yếu tố có vai trò ngày càng
quan trọng trong hơn một thập kỷ qua là dòng
kiều hối khi giá trị của dòng kiều hối ngày càng
lớn, đặc biệt tại các nền kinh tế mới nổi. Nghiên
cứu này sử dụng dữ liệu tại 21 quốc gia có được
xếp vào nhóm nước là thị trường mới nổi trong
giai đoạn 2001 – 2013 để xem xét tác động của
kiều hối đến tỷ giá hối đoái của các quốc gia
này. Thông qua mô hình ước lượng cho dữ liệu
bảng, chúng tôi phát hiện rằng kiều hối làm
tăng giá trị đồng nội tệ, kết quả này không thay
đổi do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính
toàn cầu năm 2008
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiều hối và tỷ giá hối đoái: Nghiên cứu thực nghiệm tại các thị trường mới nổi
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 Trang 39 Kiều hối và tỷ giá hối đoái: Nghiên cứu thực nghiệm tại các thị trường mới nổi Nguyễn Phúc Cảnh Trường Đại học Kinh tế TP HCM - Email: canhnguyen@ueh.edu.vn (Bài nhận ngày 21 tháng 09 năm 2015, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 29 tháng 12 năm 2015) TÓM TẮT Đối với một quốc gia mở cửa nền kinh tế, tỷ giá hối đoái luôn đóng vai trò quan trọng, tỷ giá tác động đến cả hoạt động thương mại, đầu tư và rủi ro vĩ mô của các quốc gia này. Có nhiều yếu tố tác động đến tỷ giá như lạm phát, lãi suất, cán cân thanh toán quốc tế, trong đó một trong những yếu tố có vai trò ngày càng quan trọng trong hơn một thập kỷ qua là dòng kiều hối khi giá trị của dòng kiều hối ngày càng lớn, đặc biệt tại các nền kinh tế mới nổi. Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu tại 21 quốc gia có được xếp vào nhóm nước là thị trường mới nổi trong giai đoạn 2001 – 2013 để xem xét tác động của kiều hối đến tỷ giá hối đoái của các quốc gia này. Thông qua mô hình ước lượng cho dữ liệu bảng, chúng tôi phát hiện rằng kiều hối làm tăng giá trị đồng nội tệ, kết quả này không thay đổi do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Từ khóa: kiều hối, tỷ giá hối đoái, khủng hoảng, thị trường mới nổi. 1. GIỚI THIỆU Mặc dù có bị ảnh hưởng nhẹ bởi khủng hoảng năm 2008, lượng kiều hối nhận được của các quốc gia được xếp vào nhóm thị trường mới nổi vẫn gia tăng về giá trị trong hơn 10 năm qua (hình 1). Với giá trị kiều hối tăng lên, vai trò của dòng tiền này với các quốc gia đang phát triển, đặc biệt các quốc gia được xếp vào nhóm các thị trường mới nổi cũng ngày càng quan trọng. Hình 1. Kiều hối nhận đƣợc tại 20 thị trƣờng mới nổi Nguồn: Tổng hợp từ dữ liệu của Worldbank - 20000000,000 40000000,000 60000000,000 80000000,000 2000 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014 Kiều hối (USD/năm) SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 Trang 40 Trong khi đó, tăng trưởng GDP thực của các quốc gia này tăng lên trong giai đoạn 2001 – 2007 thì bị ảnh hưởng tương đối mạnh trong giai đoạn 2008 – 2009, sau đó tiếp tục xu hướng giảm trong giai đoạn 2011 – 2013. Điều này cho thấy rằng khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế và các yếu tố khác của các nền kinh tế mới nổi (hình 2). Trong khi đó, hoạt động thương mại và đặc biệt là xuất khẩu được xem là thế mạnh và là động cơ tăng trưởng trong những năm gần đây của các quốc gia này khi mở cửa nền kinh tế với lợi thế về lao động giá rẻ và nguồn tài nguyên dồi dào tạo cơ sở để các quốc gia này gia tăng xuất khẩu đồng thời cải thiện hoạt động sản xuất nội địa để tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới cho hàng hóa sản xuất nội địa. Hình 2. Tăng trƣởng GDP thực tại 20 thị trƣờng mới nổi Nguồn: Tổng hợp từ dữ liệu của Worldbank Tuy nhiên, biến động trong tỷ giá sẽ có tác động mạnh đến hoạt động thương mại của các quốc gia này, đặc biệt với thực tế đồng tiền của các thị trường mới nổi không phải là đồng tiền mạnh trên thế giới, cho nên biến động trong các dòng vốn hay các yếu tố vĩ mô sẽ có tác động mạnh đến thay đổi trong tỷ giá hối đoái và ảnh hưởng đến hoạt động thương mại và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này. Do đó việc xem xét các yếu tố tác động đến sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái là cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là Ngân hàng trung ương trong điều hình chính sách tỷ giá phù hợp. Trong khi đó, dòng kiều hối ngoài tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua hiệu ứng thu nhập thì dòng vốn này còn có hiệu ứng tiêu cực lên nền kinh tế của một quốc gia vì dòng vốn này tăng lên làm tăng giá trị đồng nội tệ và làm xấu đi cán cân thương mại nên ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Do đó, nghiên cứu này xem xét tác động của kiều hối đến tỷ giá hối đoái tại 20 quốc gia1 được xem là thị trường mới nổi trong giai đoạn 2001 - 2013. Phần tiếp theo trình bày cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu. 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT Rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm xem xét tác động của kiều hối đến các yếu tố vĩ mô của quốc gia như tiêu dùng tư nhân, đầu tư tư nhân, sự phát triển của hệ thống tài chính, thể chế, tham nhũng, tỷ giá và cả cán cân thương mại 1 20 quốc gia đang phát triển có nhận kiều hối tại Châu Á Thái Bình Dương bao gồm: Bangladesh, Brazil, China, Colombia, Egypt, India, Indonesia, Malaysia, Mauritius, Mexico, Morocco, Nigeria, Pakistan, Peru, Philippines, South Africa, Thailand, Turkey, Ukraine, Vietnam -10 -5 0 5 10 15 2000 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014 Tăng trƣởng GDP thực (%/năm) TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 Trang 41 (Abdih et al., 2012; Acosta et al., 2009; Adams Jr & Cuecuecha, 2010, 2013; Aggarwal et al., 2011; Beine et al, 2012; Berdiev et al., 2013), thông qua tác động của kiều hối lên thu nhập hay của cải của hộ gia đình do đó có tác động đến tiêu dùng và đầu tư tư nhân (Adams Jr & Cuecuecha, 2010; Combes & Ebeke, 2011; Fransen & Mazzucato, 2014). Các nghiên cứu khác lại xem xét tác động của kiều hối lên chất lượng thể chế thông qua tình trạng tham nhũng và chất lượng của Chính phủ (Abdih et al., 2012; Berdiev, Kim & Chang, 2013). Những nghiên cứu đó thường tập trung vào xem xét tác động của kiều hối lên khả năng giúp các quốc gia nhận kiều hối giảm nghèo đói và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân (Acosta et al., 2008; Adams Jr & Cuecuecha, 2013; Adams Jr & Page, 2005; Imai et al, 2014), hay tác động giúp phát triển hệ thống tài chính cũng như tiến trình mở cửa thị trường tài chính của các quốc gia (Aggarwal, Demirgüç-Kunt & Pería, 2011; Anzoategui et al., 2014; Beine, Lodigiani & Vermeulen, 2012; Chowdhury, 2011; Giuliano & Ruiz-Arranz, 2009). Tuy vậy, trọng tâm trong các nghiên cứu về ảnh hưởng của kiều hối lên các yếu tố vĩ mô là khả năng kích thích tăng ... 2008 có tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt tại các nước đã mở cửa và đang phát triển như các thị trường mới nổi. Do đó, nghiên cứu này chia bộ dữ liệu ra thành 2 giai đoạn: giai đoạn 2001 – 2007 và giai đoạn 2008 – 2013 để kiểm tra sự thay đổi trong các mối quan hệ được nghiên cứu ở trên do ảnh hưởng của khủng hoảng. Kết quả ước lượng được trình bày ở bảng 5. Kết quả ước lượng với mô hình cho giai đoạn 2001 – 2007 cho thấy kiều hối vẫn có tác động làm tăng giá trị đồng nội tệ. Tuy nhiên, tăng trưởng trong tăng trưởng GDP thực lại làm giảm giá trị đồng nội tệ, điều này có nghĩa rằng trong giai đoạn nền kinh tế phát triển ổn định khi tăng trưởng kinh tế cao hơn sẽ làm mất giá đồng nội tệ. Kết quả này có thể được giải thích thông qua hiệu ứng thu nhập, khi tăng trưởng kinh tế cao hơn sẽ tăng thu nhập của người dân qua đó tăng tiêu dùng mà đặc biệt là các loại hàng hóa có thể giao thương nên nhập khẩu tăng, đồng thời các nhà sản xuất hàng xuất khẩu có thể quay lại phục vụ cho nhu cầu nội địa nên xuất khẩu sẽ giảm từ đó làm giảm giá trị đồng nội tệ. Điều này có thể xảy ra tại các thị trường mới nổi với dân số đông và trẻ nên nhu cầu chi tiêu mà đặc biệt là các loại hàng hóa nhập khẩu cao, do đó khi thu nhập tăng hiệu ứng thu nhập có thể xảy ra. Bên cạnh đó, biến thay đổi trong lạm phát có tác động dương lên thay đổi trong tỷ giá, kết quả này trùng khớp với lý thuyết đã phân tích. Có nghĩa rằng trong giai đoạn kinh tế phát triển ổn định, sự gia tăng trong lạm phát sẽ làm giảm giá đồng nội tệ. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 Trang 47 Bảng 5. Kiều hối và tỷ giá hối đoái trƣớc và sau khủng hoảng Giai đoạn Trƣớc 2008 Sau 2008 Der Hệ số P-value Hệ số P-value Der(-1) 0.276*** 0.000 0.266*** 0.000 Dre -0.013*** 0.001 -0.025*** 0.006 DrealGDPg 0.145* 0.077 -1.901*** 0.000 Dinf 0.629*** 0.000 -1.440*** 0.000 Dextdebt 0.000 0.970 0.002 0.459 N 119 96 Số quốc gia 20 20 AR(2) test -1.00 0.317 0.04 0.971 Sargan test 34.61 0.487 25.55 0.143 *,**,*** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5% và 1% Nguồn: tính toán của tác giả Với mô hình ước lượng cho giai đoạn 2008 – 2013 cho thấy các kết quả thú vị. Trước tiên, tác động của kiều hối lên tỷ giá hối đoái là không thay đổi, như vậy mối quan hệ giữa kiều hối và tỷ giá không bị thay đổi do khủng hoảng. Tuy nhiên hệ số ước lượng của biến kiều hối trong giai đoạn khủng hoảng có giá trị tuyết đối (0.025) cao hơn trong giai đoạn trước khủng hoảng (0.013) cho thấy rằng tác động của kiều hối lên tỷ giá trong giai đoạn khủng hoảng có xu hướng mạnh hơn. Bên cạnh đó, tác động của thay đổi trong tăng trưởng GDP thực lên tỷ giá là âm, tức phù hợp với lý thuyết và ngược với mối quan hệ trong giai đoạn trước khủng hoảng. Như vậy, trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, khi nền kinh tế có tăng trưởng GDP thực cao hơn sẽ làm gia tăng giá trị thực của đồng nội tệ. Điều này trùng với lý thuyết đã phân tích trước đó. Tuy nhiên với lạm phát, khác với giai đoạn trước khủng hoảng lạm phát làm mất giá đồng nội tệ, thì trong giai đoạn khủng hoảng lạm phát tăng lên làm tăng giá trị đồng nội tệ. Có thể giải thích rằng trong giai đoạn khủng hoảng sức chi tiêu kém, nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, lạm phát rất thấp thì sự gia tăng trong lạm phát là dấu hiệu tích cực cho sự phục hồi của nền kinh tế nên làm gia tăng giá trị đồng nội tệ. 5. KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH Kết luận Như vậy, thông qua ước lượng cho dữ liệu bảng tại 21 thị trường mới nổi trong giai đoạn 2001 – 2013 để nghiên cứu tác động của kiều hối lên tỷ giá hối đoái của các quốc gia trên, bài viết này rút ra một số kết luận sau: Kiều hối làm tăng giá trị đồng nội tệ của quốc gia nhận, mối quan hệ này không thay đổi do khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, nhưng mức độ tác động có xu hướng tăng lên trong khủng hoảng. Kết quả này cho thấy rằng dòng kiều hối tăng lên sẽ tạo ra sức ép gia tăng giá trị đồng nội tệ từ đó làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa và tạo ra hiện tượng kinh tế “căn bệnh Hà Lan”. Bên cạnh kiều hối, thay đổi trong tăng trưởng kinh tế thực cũng làm tăng giá đồng nội tệ, tuy nhiên mối quan hệ này khác biệt trong hai giai đoạn trước và sau khủng hoảng. Trong giai đoạn trước khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế thực cao hơn làm giảm giá đồng nội tệ do hiệu ứng thu nhập và chi tiêu hàng có thể giao thương cao hơn của người dân nên tạo sức ép SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 Trang 48 làm giảm giá đồng nội tệ. Nhưng trong giai đoạn khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế thực cao hơn tạo hiệu ứng gia tăng giá trị đồng nội tệ của quốc gia đó. Nợ nước ngoài có tác động làm giảm giá đồng nội tệ, điều này tạo ra nhiều vấn đề về chính sách tài khóa và chính sách vay nợ của các quốc gia có thị trường mới nổi trong thời gian tới. Cuối cùng, lạm phát làm giảm giá của đồng nội tệ, tuy nhiên tác động này rất mạnh trong giai đoạn kinh tế phát triển ổn định, còn trong giai đoạn khủng hoảng lạm phát là dấu hiệu của sự hồi phục của nền kinh tế nên làm tăng giá trị đồng nội tệ. Gợi ý chính sách Với các kết quả nghiên cứu đó, bài viết đưa ra đề xuất chính sách như sau: bên cạnh chính sách khuyến khích dòng kiều hối thì Chính phủ các quốc gia nhận kiều hối cần chủ động phòng tránh các cú sốc do dòng kiều hối gây ra, đặc biệt là tác động của các cú sốc này lên tỷ giá làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa. Để làm được vấn đề này Chính phủ các quốc gia phải có chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt trong việc điều chỉnh lượng cung nội tệ phù hợp để thu được nguồn ngoại tệ từ kiều hối đồng thời tránh làm giảm tỷ giá (tức để đồng nội tệ tăng giá) từ đó làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 Trang 49 Remittances and exchange rate - Empirical evidence from emerging economies Nguyen Phuc Canh University of Economics HCMC - Email: canhnguyen@ueh.edu.vn ABSTRACT The exchange rate plays an important role to trade, investment and macroeconomic risks of open economies. There are many factors that affect the exchange rate such as inflation, interest rates, balance of payments where remittance flows receive more and more attention of economists due to their increase in their values, particularly in emerging economies. This study uses data from 21 countries which are classified as emerging markets in the period between 2001 and 2013 to investigate the impacts of remittances on exchange rate. Through panel data estimations, we found that remittances increase the value of the local currencies, which is not altered by the 2008 global financial crisis. Keywords: personal remittance, exchange rate, crisis, emerging markets. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Abdih, Y., Chami, R., Dagher, J. & Montiel, P, Remittances and Institutions: Are Remittances a Curse?, World Development, vol. 40, no. 4, pp. 657-66 (2012). [2]. Acosta, P., Calderón, C., Fajnzylber, P. & Lopez, H X, What is the Impact of International Remittances on Poverty and Inequality in Latin America?, World Development, vol. 36, no. 1, pp. 89-114 (2012). [3]. Acosta, P.A., Lartey, E.K.K. & Mandelman, F.S, Remittances and the Dutch disease, Journal of International Economics, vol. 79, no. 1, pp. 102-16 (2009). [4]. Adams Jr, R.H. & Cuecuecha, A, Remittances, Household Expenditure and Investment in Guatemala, World Development, vol. 38, no. 11, pp. 1626-41 (2010). [5]. Adams Jr, R.H. & Cuecuecha, A, The Impact of Remittances on Investment and Poverty in Ghana, World Development, vol. 50, pp. 24-40 (2013). [6]. Adams Jr, R.H. & Page, J, Do international migration and remittances reduce poverty in developing countries?, World Development, vol. 33, no. 10, pp. 1645-69 (2005). [7]. Aggarwal, R., Demirgüç-Kunt, A. & Pería, M.S.M, Do remittances promote financial development?, Journal of Development Economics, vol. 96, no. 2, pp. 255-64 (2011). [8]. Alogoskoufis, G.S. & Smith, R, The Phillips curve, the persistence of inflation, and the Lucas critique: Evidence from exchange-rate regimes, The American Economic Review, pp. 1254-75 (1991). [9]. Amuedo-Dorantes, C. & Pozo, S, Workers' Remittances and the Real Exchange Rate: A Paradox of Gifts, World Development, vol. 32, no. 8, pp. 1407-17 (2004). SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 Trang 50 [10]. Anzoategui, D., Demirgüç-Kunt, A. & Martínez Pería, M.S, Remittances and Financial Inclusion: Evidence from El Salvador, World Development, vol. 54, pp. 338-49 (2014). [11]. Arellano, M. & Bond, S, Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and an application to employment equations, The review of economic studies, vol. 58, no. 2, pp. 277-97 (1991). [12]. Arellano, M. & Bover, O, Another look at the instrumental variable estimation of error- components models, Journal of econometrics, vol. 68, no. 1, pp. 29-51 (1995). [13]. Bayangos, V. & Jansen, K, Remittances and Competitiveness: The Case of the Philippines, World Development, vol. 39, no. 10, pp. 1834-46 (2011). [14]. Beine, M., Lodigiani, E. & Vermeulen, R. 2012, Remittances and financial openness, Regional Science and Urban Economics, vol. 42, no. 5, pp. 844-57. [15]. Berdiev, A.N., Kim, Y. & Chang, C.-P, Remittances and corruption, Economics Letters, vol. 118, no. 1, pp. 182-5 (2013). [16]. Bourdet, Y. & Falck, H, Emigrants' remittances and Dutch disease in Cape Verde, International Economic Journal, vol. 20, no. 3, pp. 267-84 (2006). [17]. Catrinescu, N., Leon-Ledesma, M., Piracha, M. & Quillin, B, Remittances, Institutions, and Economic Growth, World Development, vol. 37, no. 1, pp. 81-92 (2009). [18]. Chowdhury, K, Modelling the dynamics, structural breaks and the determinants of the real exchange rate of Australia, Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, vol. 22, no. 2, pp. 343-58 (2012). [19]. Chowdhury, M.B, Remittances flow and financial development in Bangladesh, Economic Modelling, vol. 28, no. 6, pp. 2600-8 (2011). [20]. Combes, J.-L. & Ebeke, C, Remittances and household consumption instability in developing countries, World Development, vol. 39, no. 7, pp. 1076-89 (2011). [21]. Corden, W.M, Booming sector and Dutch disease economics: survey and consolidation, oxford economic Papers, pp. 359-80 (1984). [22]. Corden, W.M. & Neary, J.P, Booming sector and de-industrialisation in a small open economy, The economic journal, pp. 825-48 (1982). [23]. De Gregorio, J., Giovannini, A. & Wolf, H.C, International evidence on tradables and nontradables inflation, European Economic Review, vol. 38, no. 6, pp. 1225-44 (1994). [24]. Dornbusch, R, Expectations and exchange rate dynamics, The Journal of Political Economy, pp. 1161-76 (1976). [25]. Dornbusch, R, External debt, budget deficits and disequilibrium exchange rates, National bureau of Economic Research (1984). [26]. Edwards, S, Real and monetary determinants of real exchange rate behavior: Theory and evidence from developing countries, Journal of Development Economics, vol. 29, no. 3, pp. 311- 41 (1988). [27]. Edwards, S, Exchange rate misalignment in developing countries, The World Bank Research Observer, vol. 4, no. 1, pp. 3-21 (1989). [28]. Fransen, S. & Mazzucato, V, Remittances and Household Wealth after Conflict: A Case Study on Urban Burundi, World Development, vol. 60, pp. 57-68 (2014). [29]. Giuliano, P. & Ruiz-Arranz, M, Remittances, financial development, and growth, Journal of Development Economics, vol. 90, no. 1, pp. 144-52 (2009). [30]. Imai, K.S., Gaiha, R., Ali, A. & Kaicker, N, Remittances, growth and poverty: New evidence from Asian countries, Journal of Policy Modeling, vol. 36, no. 3, pp. 524-38 (2014). TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 Trang 51 [31]. Jouini, J, Economic growth and remittances in Tunisia: Bi-directional causal links, Journal of Policy Modeling, vol. 37, no. 2, pp. 355-73 (2015). [32]. King, R.G., Plosser, C.I. & Rebelo, S.T, Production, growth and business cycles: I. The basic neoclassical model, Journal of monetary Economics, vol. 21, no. 2, pp. 195-232 (1988). [33]. Kumar, R.R, Remittances and economic growth: A study of Guyana, Economic Systems, vol. 37, no. 3, pp. 462-72 (2013). [34]. Lim, S. & Simmons, W.O, Do remittances promote economic growth in the Caribbean Community and Common Market?, Journal of Economics and Business, vol. 77, pp. 42-59 (2015). [35]. Nyamongo, E.M., Misati, R.N., Kipyegon, L. & Ndirangu, L, Remittances, financial development and economic growth in Africa, Journal of Economics and Business, vol. 64, no. 3, pp. 240-60 (2012). [36]. Rao, B.B. & Hassan, G.M, A panel data analysis of the growth effects of remittances, Economic Modelling, vol. 28, no. 1–2, pp. 701-9 (2011). [37]. Shapiro, A.C, Exchange rate changes, inflation, and the value of the multinational corporation, The Journal of Finance, vol. 30, no. 2, pp. 485-502 (1975). [38]. Sutherland, A, Fiscal crises and aggregate demand: can high public debt reverse the effects of fiscal policy?, Journal of Public Economics, vol. 65, no. 2, pp. 147-62 (1997). [39]. Talvi, E. & Vegh, C.A, Tax base variability and procyclical fiscal policy in developing countries, Journal of Development economics, vol. 78, no. 1, pp. 156-90 (2005). [40]. Tarditi, A, Modelling the Australian exchange rate, long bond yield and inflationary expectations, Economic Research Department, Reserve Bank of Australia (1996). [41]. Ziesemer, T.H.W, The impact of the credit crisis on poor developing countries: Growth, worker remittances, accumulation and migration, Economic Modelling, vol. 27, no. 5, pp. 1230-45 (2010).
File đính kèm:
- kieu_hoi_va_ty_gia_hoi_doai_nghien_cuu_thuc_nghiem_tai_cac_t.pdf