Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội

Mô tả thực trạng kiến thức,

thực hành cho trẻ bú sớm và bú mẹ hoàn

toàn sau sinh của bà mẹ sinh con tại Bệnh

viện Phụ Sản Hà Nội trong năm 2020. Đối

tượng và phương pháp nghiên cứu:

Mô tả cắt ngang có phân tích kết hợp

giữa nghiên cứu định lượng và định tính.

Đối tượng 290 bà mẹ sinh con tại bệnh

viện Phụ Sản Hà Nội trong tháng 4/2020.

Sử dụng phiếu điều tra thu thập thông

tin hàng ngày rồi tiến hành tập hợp và

thống kê. Kết quả: Chủ yếu là các bà mẹ

ở độ tuổi tuổi 25-34 với tỷ lệ 69,3%, có

tới 78,6% bà mẹ biết bú sớm trẻ sẽ được

cung cấp kháng thể, 51,4% biết bú càng

sớm càng tốt. và chỉ có 1,3% không biết

về khái niệm cho bú sớm, Có 73,1% đạt

kiến thức về cho trẻ bú sớm, Có 46,9% bà

mẹ hiểu đúng về khái niệm bú mẹ hoàn

toàn, Chỉ có 33,8% bà mẹ thực hành cho

trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh,

Có 53,8% bà mẹ cho rằng mẹ mệt và đau

sau sinh đã cản trở việc cho con bú sớm,

chỉ có 14,5% bà mẹ cho trẻ bú hoàn toàn

tại thời điểm xuất viện và còn tới 85,5%

cho trẻ uống thêm sữa công thức hoặc 1

số thứ khác Kết luận: Kiến thức của bà

mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ khá tốt tuy

nhiên thực hành nuôi con bằng sữa mẹ

còn nhiều hạn chế. Cần tăng cường tư

vấn cho các bà mẹ ngay sau sinh về bú

sớm và bú mẹ hoàn toàn đồng thời phát

huy hơn nữa vai trò tư vấn của Nhân viên

y tế và các kênh truyền thông nhằm giúp

bà mẹ có thêm kiến thức và kỹ năng thực

hành trong việc NCBSM

Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội trang 1

Trang 1

Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội trang 2

Trang 2

Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội trang 3

Trang 3

Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội trang 4

Trang 4

Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội trang 5

Trang 5

Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội trang 6

Trang 6

Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 8100
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội

Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội
102
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH CHO TRẺ BÚ SỚM SAU SINH 
VÀ BÚ MẸ HOÀN TOÀN CỦA BÀ MẸ TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI 
Nguyễn Thị Liên1, Phạm Thị Thanh Hương1, Nguyễn Thị Mai Hương2
 1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
 2Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức, 
thực hành cho trẻ bú sớm và bú mẹ hoàn 
toàn sau sinh của bà mẹ sinh con tại Bệnh 
viện Phụ Sản Hà Nội trong năm 2020. Đối 
tượng và phương pháp nghiên cứu: 
Mô tả cắt ngang có phân tích kết hợp 
giữa nghiên cứu định lượng và định tính.
Đối tượng 290 bà mẹ sinh con tại bệnh 
viện Phụ Sản Hà Nội trong tháng 4/2020. 
Sử dụng phiếu điều tra thu thập thông 
tin hàng ngày rồi tiến hành tập hợp và 
thống kê. Kết quả: Chủ yếu là các bà mẹ 
ở độ tuổi tuổi 25-34 với tỷ lệ 69,3%, có 
tới 78,6% bà mẹ biết bú sớm trẻ sẽ được 
cung cấp kháng thể, 51,4% biết bú càng 
sớm càng tốt. và chỉ có 1,3% không biết 
về khái niệm cho bú sớm, Có 73,1% đạt 
kiến thức về cho trẻ bú sớm, Có 46,9% bà 
mẹ hiểu đúng về khái niệm bú mẹ hoàn 
toàn, Chỉ có 33,8% bà mẹ thực hành cho 
trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, 
Có 53,8% bà mẹ cho rằng mẹ mệt và đau 
sau sinh đã cản trở việc cho con bú sớm, 
chỉ có 14,5% bà mẹ cho trẻ bú hoàn toàn 
tại thời điểm xuất viện và còn tới 85,5% 
cho trẻ uống thêm sữa công thức hoặc 1 
số thứ khác Kết luận: Kiến thức của bà 
mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ khá tốt tuy 
nhiên thực hành nuôi con bằng sữa mẹ 
còn nhiều hạn chế. Cần tăng cường tư 
vấn cho các bà mẹ ngay sau sinh về bú 
sớm và bú mẹ hoàn toàn đồng thời phát 
huy hơn nữa vai trò tư vấn của Nhân viên 
y tế và các kênh truyền thông nhằm giúp 
bà mẹ có thêm kiến thức và kỹ năng thực 
hành trong việc NCBSM
Từ khóa: Kiến thức, thực hành, nuôi con 
bằng sữa mẹ, bà mẹ sau sinh
KNOWLEDGE AND PRACTICES OF EARLY BREASTFEEDING AND EXCLUSIVE 
BREASTFEEDING AFTER BIRTH OF THE MOTHERS GIVING BIRTH 
AT HANOI OBSTETRICS AND GYNECOLOGY HOSPITAL
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Liên
Email: lienynd@gmail.com
Ngày phản biện: 27/5/2021
Ngày duyệt bài: 01/6/2021
Ngày xuất bản: 28/6/2021 
ABSTRACT
Objective: To describe the real 
situation of knowledge, practices of early 
breastfeeding and exclusive breastfeeding 
after birth of the mothers giving birth at Hanoi 
Obstetrics and Gynecology Hospital in 2020. 
Method: A descriptive cross-sectional 
study with a combination of quantitative 
and qualitative research. Subjects of the 
study were 290 mothers who gave birth at 
Hanoi Obstetrics and Gynecology Hospital 
in April 2020. The survey forms were used 
to collect information daily, then collected 
and made statistics. Results: The mothers 
were moslty at the age of 25-34, which 
accounted for 69.3%, up to 78.6% of the 
mothers who knew that early breastfeeding 
would provide the infants antibodies, 
103
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
51.4% of them knew that the sooner their 
infants breastfed the better they were. And 
only 1.3% of them did not know about the 
concept of early breastfeeding. 73.1% 
of them achieved the knowledge about 
early breastfeeding, 46.9% of the mothers 
understood the concept of exclusive 
breastfeeding correctly. Only 33 .8% of them 
did practice of early breastfeeding within the 
first hour after birth. 53.8% of them showed 
that postpartum fatigue and pain hinders 
them from giving early breastfeeding. Only 
14.5% of the mothers exclusively breastfed 
their infants at the time of discharge, and 
up to 85.5% of them gave their infants 
formula milk or other things apart from 
breastfeeding. Conclusion: Mother’s 
knowledge about breastfeeding is quite 
good. However, the practice of breastfeeding 
is still limited. It is necessary to strengthen 
counseling for mothers immediately after 
giving birth about early breastfeeding and 
exclusive breastfeeding and also promote 
the counseling role of health workers and 
communication channels further to help 
mothers gain more knowledge and practical 
skills in breastfeeding.
Keywords: Knowledge, practice, 
breastfeeding, postpartum mother
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu 
sau đẻ và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng 
đầu là một trong những can thiệp có hiệu 
quả nhất trong các can thiệp tăng cường 
sức khỏe và giảm tỷ lệ tử vong trẻ em [1]. 
Mặc dù lợi ích của việc cho con bú sớm và 
bú mẹ hoàn toàn đã được rất nhiều nghiên 
cứu khẳng định nhưng kiến thức và thực 
hành NCBSM của nhiều bà mẹ vẫn còn hạn 
chế. Một số bà mẹ thường cho con ăn các 
thức ăn khác trước khi bú mẹ lần đầu. Việc 
làm này không những đã bỏ phí đi những 
giọt sữa non quí giá cho trẻ mà còn có ảnh 
hưởng không tốt đến thực hành NCBSM 
sau này [2], [3]. 
Ở Việt Nam, mặc dù hầu hết các bà mẹ 
đều NCBSM nhưng tỷ lệ cho con bú sớm chỉ 
đạt được 55% [4]. Hỗ trợ các bà mẹ trong 
khi mang thai và sau khi sinh về NCBSM để 
tăng tỷ lệ cho con bú sớm và bú mẹ hoàn 
toàn sau sinh cần được ưu tiên trong các 
chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ và 
trẻ em và Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội cũng 
không ngoại lệ. Tuy nhiên với lưu lượng thai 
phụ đến khám và sinh con ngày càng tăng, 
cơ sở hạ tầng chật hẹp nên quy trình thăm 
khám thai phụ, theo dõi sản phụ sau sinh, 
tư vấn dinh dưỡng, hỗ trợ NCBSM cho bà 
mẹ tại bệnh viện còn tồn tại nhiều hạn chế. 
Xuất phát từ những vấn đề trên trên chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu để tìm hiểu kiến 
thức và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ 
của bà mẹ sau sinh tại Bệnh viện Phụ sản 
Hà nội với mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến 
thức, thực hành cho trẻ bú sớm và bú mẹ 
hoàn toàn sau sinh của bà mẹ sinh con tại 
Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội trong năm 2020
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng 
- Tiêu chuẩn lựa chọn
Bà mẹ sau sinh thường và sinh mổ trong 
3 ngày đầu có con ở cùng phòng với mẹ 
đồng ý hợp tác 
- Tiêu chuẩn loại trừ: Bà mẹ mắc các 
bệnh mạn tính, bệnh lây truyền, nhiễm 
khuẩn cấp tính, tâm thần, câm, điếc, con 
chết và từ chối tham gia nghiên cứu.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Từ 1 tháng 4 năm 2020 đến 30 tháng 4 
năm 2020 tại khoa chăm sóc sau đẻ (A3, 
D4)BVPS Hà Nội
2.3. Thiết kế nghiên cứu và công cụ 
thu thập số liệu
- Nghiên cứu bằng phương pháp mô tả 
cắt ngang có phân tích kết hợp giữa nghiên 
cứu định lượng và định tính
- Dùng phiếu thu thập thông tin được 
thiết kế sẵn nội dung về kiến thức, thực 
104
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
hành nuôi con bằng sữa mẹ thông qua hình 
thức phỏng vấn
- Bộ câu hỏi được khảo sát thử để điều 
chỉnh và hoàn thiện trước khi tiến hành 
nghiên cứu.
2.4. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
*Nghiên cứu định lượng: Áp dụng công 
thức tính: 
 2)2/1(
2 )1(
d
ppZn −= −α 
Trong đó: n: Cỡ mẫu tối thiểu, Z1- α/2. Với 
ý nghĩa α = 0,05 thì Z1- α/2 = 1,96. p: Tỷ 
lệ kiến thức thực hành bà mẹ cho trẻ bú 
mẹ sớm p = 0,55 (Theo điều tra của viện 
Dinh dưỡng), q = 1- p = 0,45, d: Sai số chấp 
nhận được ở mức 5% (d = 0,06)
Áp dụng vào công thức tính cỡ mẫu thì 
cỡ mẫu tối thiểu là n =265.
Ước tính khoảng 10% dự phòng thì cỡ 
mẫu cần nghiên cứu là 265+265*10%. Do 
vậy cỡ mẫu thực tế cần cho nghiên cứu làm 
tròn là 290
2.5. Thu thập, xử lý số liệu
- Bước nhập liệu: Toàn bộ số phiếu thu 
thập được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1. 
- Bước xử lý và phân tích số liệu: phân 
tích bằng phần mềm SPSS 16.0. 
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1. Thông tin chung về bà mẹ (n = 290)
Các thông tin chung SL TL %
Nhóm tuổi 17 – 24 62 21,4
25 – 34 201 69,3
35 – 44 27 9,3
Nghề nghiệp Làm ruộng 13 4,5
Tự do 78 26,9
CNVC 160 55,2
Khác (HS, SV) 39 13,4
Nơi sống Nông thôn 104 35,9
Thành thị 186 64,1
Trình độ học vấn THCS 9 3,2
THPT 61 21,0
Trung cấp/cao đẳng 90 31,0
Đại học trở lên 130 44,8
Nhận xét:
- Chủ yếu là các bà mẹ ở độ tuổi tuổi 25-34 với tỷ lệ 69,3%.
- Nhóm bà mẹ ở độ tuổi 35-44 thấp nhất với 9,3% 
- Nhóm sản phụ làm ruộng có tỷ lệ thấp nhất chỉ 4,5%. Nhóm CNVC chiếm tỷ lệ cao 
nhất 55,2%.
- Có 64,1% số bà mẹ sống ở nội thành và 35,9% ở ngoại thành. Trình độ văn hóa là đại 
học và sau đại học chiếm tới 44,8%, tiếp đến là trung cấp/cao đẳng (31,0%), THPT chiếm 
21,0%. Số sản phụ tốt nghiệp THCS rất ít chỉ 3,2%
105
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
3.2. Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm và bú mẹ hoàn toàn sau sinh của bà mẹ
Biểu đồ 1. Kiến thức về lợi ích cho trẻ khi bú mẹ sớm của bà mẹ
Nhận xét: Có tới 78,6% bà mẹ biết bú sớm trẻ sẽ được cung cấp kháng thể, giảm nguy 
cơ vàng da là 67,2%. Có 41,4% cho rằng bú sớm tránh hạ thân nhiệt. Tuy nhiên rất ít bà 
mẹ chỉ 6,2% biết về lợi ích khác và 5,9% bà mẹ không biết về kiến thức này
Bảng 2. Kiến thức về thời gian cho trẻ bú sớm của bà mẹ (n=290)
Thời gian cho bú SL TL %
24 gờ sau sinh 77 26,6
Trong vòng một giờ đầu sau khi sinh 149 51,4
Cho bú khi sữa về 60 20,7
Không biết 4 1,3
Tổng số 290 100
Nhận xét: Có 26,6% bà mẹ biết cho trẻ bú sớm là bú trong vòng một giờ sau khi sinh, 
51,4% biết bú càng sớm càng tốt. Có 20,7% số bà mẹ cho là phải chờ sữa về mới cho bú 
và chỉ có 1,3% không biết về khái niệm cho bú sớm. 
 Biểu đồ 2. Kiến thức về cho trẻ bú sớm của bà mẹ
Nhận xét: Có 73,1% đạt kiến thức về cho trẻ bú sớm nhiều hơn hẳn tỷ lệ không đạt là 
26,9%.
106
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
Bảng 3. Kiến thức về bú mẹ hoàn toàn 
của bà mẹ
SL TL %
Khái niệm về bú mẹ 
hoàn toàn
Chỉ bú mẹ không cho bất 
cứ thức ăn, nước uống 
nào khác 
136 46,9
Bú mẹ là chính, có thể 
cho uống thêm sữa công 
thức, nước lọc tráng 
miệng
154 53,1
Tổng cộng 290 100
Nhận xét: Có 46,9% bà mẹ hiểu đúng 
về khái niệm bú mẹ hoàn toàn là chỉ cho trẻ 
bú mẹ không cho ăn bất cứ thức ăn, nước 
uống nào khác.
mẹ mệt và đau sau sinh, 51,3% bà mẹ gặp 
1 số khó khăn khi cho trẻ bú. Bà mẹ mổ 
đẻ chiếm 25,9%, trẻ không chịu bú mẹ là 
21,7%, chỉ có 7,9% không gặp khó khăn gì
Biểu đồ 3. Thực hành cho trẻ bú sớm 
sau sinh của bà mẹ
Nhận xét: Chỉ có 33,8% bà mẹ thực 
hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu 
sau sinh. 
Biểu đồ 4. Nguyên nhân bú mẹ sớm 
cản trở thực hành sau sinh
Nhận xét: Có 53,8% bà mẹ cho rằng 
Biểu đồ 5. Thực hành cho trẻ bú mẹ 
hoàn toàn tại thời điểm xuất viện
Nhận xét: Chỉ có 14,5% bà mẹ cho trẻ 
bú mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất viện còn 
tới 85,5% cho trẻ uống thêm sữa công thức 
hoặc 1 số thứ khác.
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng 
nghiên cứu 
Với thời gian thực hiện trong 1 tháng, 
chúng tôi khảo sát đánh giá được 290 bà 
mẹ Độ tuổi trung bình 25-34 có tỷ lệ cao nhất 
là 69,3%, cao hơn tỷ lệ nghiên cứu của Đỗ 
Thị Thúy Liễn là 57% [5] tỷ lệ này là phù hợp 
với độ tuổi sinh đẻ. Nhóm bà mẹ làm ruộng 
có tỷ lệ thấp nhất chỉ 4,5%. Hơn một nửa số 
trong số họ là cán bộ công chức 68,6% Trình 
độ văn hóa là đại học và sau đại học chiếm 
44,8%.
4.2. Kiến thức về bú sớm và bú mẹ 
hoàn toàn
- Kiến thức về lợi ích cho trẻ khi bú mẹ 
sớm của bà mẹ: Có tới 78,6% bà mẹ biết bú 
sớm trẻ sẽ được cung cấp kháng thể, giảm 
nguy cơ vàng da là 67,2%. Có 41,4% cho 
rằng bú sớm tránh hạ thân nhiệt. Tuy nhiên 
rất ít bà mẹ chỉ 6,2% biết về 1 số lợi ích khác 
và có 5,9% không biết về kiến thức này.Như 
vậy về cơ bản bà mẹ đã hiểu kiến thức về 
lợi ích cho bú sớm, chứng tỏ bà mẹ đã được 
hướng dẫn,cập nhật và cung cấp kiến thức 
qua 1 số kênh thông tin hữu ích.
107
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
- Kiến thức về thời gian cho trẻ bú: Tỷ 
lệ cho trẻ bú sớm trong 1 giờ đầu sau sinh 
ở Phần Lan là 77%, Thụy Sĩ 67%, Ba Lan 
65% [6], cao hơn Tỷ lệ bú sớm theo kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi là 51,4% tuy nhiên 
với tỷ lệ này lại cao hơn so với Anh 45%, 
Columbia 49% [6] và cao hơn nhiều so với tỷ 
lệ ở Châu Á chỉ có 19,4% và tương đương 
kết quả của Trương Hoàng Mối và cộng sự 
là 51% [7].
Ở Bệnh viện Phụ sản Hà Nội tỷ lệ sinh 
mổ lấy thai ngày càng gia tăng nên việc thực 
hành bú sớm sau sinh mổ còn rất thấp, mẹ 
lại tiết ít sữa [8], kèm theo cảm giác đau và 
khó chịu ở bà mẹ sau sinh thường cũng như 
sinh mổ nên đã hạn chế việc cho con bú 
sớm trong 1 giờ đầu sau sinh. Cộng với sự 
quảng bá các sản phẩm thay thế sữa mẹ 
trên 1 số các phương tiện truyền thông
- Kiến thức đúng về bú sớm: Có 73,1% 
số bà mẹ trong nghiên cứu của chúng tôi có 
kiến thức đúng về bú sớm ngay trong vòng 
1 giờ đầu sau đẻ Tỷ lệ này cao hơn nhiều so 
với nghiên cứu của Trần Hữu Bích và cộng 
sự [9] và Bùi Thị Duyên và cộng sự [10], tại 
3 xã thuộc cụm Long Vân huyện Bá Thước 
tỉnh Thanh Hóa. Nhưng thấp hơn nghiên 
cứu của Nguyễn Thị Thanh Huyền và cộng 
sự [11] là 80,4%. 
Nhiều bà mẹ trong nghiên cứu của chúng 
tôi có kiến thức tốt về sữa non và cho con 
bú sớm có thể là do họ có trình độ học vấn 
cao, hầu hết là có trình độ phổ thông trung 
học trở lên. 
- Kiến thức về bú mẹ hoàn toàn có 46,9% 
bà mẹ hiểu đúng định nghĩa về bú mẹ hoàn 
toàn. Các bà mẹ trong nghiên cứu của 
chúng tôi mặc dù có tỷ lệ hiểu biết về sữa 
non và bú sớm khá cao nhưng hiểu về bú 
mẹ hoàn toàn lại thấp. số còn lại 53,1% cho 
rằng cần cho trẻ uống thêm sữa công thức, 
nước lọc. Đây là một quan niệm không đúng 
vì bà mẹ nghĩ rằng lượng sữa mẹ ngày càng 
ít dinh dưỡng nên cần bổ sung sữa thay thế 
và nước làm sạch miệng trẻ. Cần cung cấp 
các kiến thức cụ thể hơn về thành phần của 
sữa mẹ để họ có thể biết rằng 82% thành 
phần của sữa là nước và chỉ bú mẹ cũng 
cung cấp đủ nước cho trẻ mà không cần cho 
trẻ uống thêm [7].
4.3. Thực hành cho con bú sớm trong 
vòng 1 giờ sau sinh và bú mẹ hoàn toàn
 Kết quả của chúng tôi cho thấy chỉ có 
33,8% bà mẹ cho con bú mẹ sớm sau sinh 
mặc dù tỷ lệ bà mẹ biết về thời gian cho trẻ 
bú là 51,4%. Nguyên nhân chính cản trở 
bà mẹ thực hành cho trẻ bú sớm là do mẹ 
mệt và đau sau sinh, cả sinh thường và sinh 
mổ chiếm 53,8% và có 51,3% gặp 1 số khó 
khăn khi cho trẻ bú, chỉ số ít với tỷ lệ 7,9% 
không gặp khó khăn gì. Và đây đang là vấn 
đề chưa giải quyết được ngay không những 
tại bệnh viện Phụ sản Hà nội nói riêng mà 
còn gặp tại tất cả các bênh viện khác
Tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn tại thời điểm xuất 
viện là rất thấp, chỉ đạt 14,5%. còn tới 85,5% 
cho trẻ uống thêm sữa công thức hoặc 1 số 
thứ khác.Tỷ lệ bà mẹ cho con ăn thức ăn 
khác trước khi bú mẹ lần đầu là 20%. Thức 
ăn thường là sữa công thức. 
Chính từ các bằng chứng lâm sàng,WHO 
đã đưa ra khuyến cáo áp dụng 6 bước chăm 
sóc thiết yếu bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và 
ngay sau đẻ trong đó có vấn đề “Hỗ trợ cho 
trẻ bú sớm và bú mẹ hoàn toàn”[6].Ở Việt 
Nam Bộ y tế đã xác định được tính cần thiết 
của việc cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ 
hoàn toàn nên đã ban hành Quyết định số 
4673/QĐ ngày 10/11/2014 - “Về việc phê 
duyệt tài liệu hướng dẫn chuyên môn chăm 
sóc thiết yếu bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và 
ngay sau đẻ” và tiếp tục đến năm 2016 Bộ 
y tế tiếp tục ban hành quyết định qui trình 
chuyên môn về:Chăm sóc sức khỏe bà mẹ 
và trẻ sơ sinh trong và sau mổ lấy thai.[12] 
nhằm đem lại cho bà mẹ và trẻ sơ sinh 1 
cuộc sống khỏe mạnh.
5. KẾT LUẬN 
- 69,3% bà mẹ trong độ tuổi tuổi sinh đẻ 
từ 25-34.
Về kiến thức: có tới 78,6% bà mẹ biết bú 
sớm trẻ sẽ được cung cấp kháng thể.
- Có 51,4% biết bú càng sớm càng tốt. 
108
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
và chỉ có 1,3% không biết về khái niệm cho 
bú sớm.
- Có 73,1% đạt kiến thức về cho trẻ bú 
sớm, Có 46,9% bà mẹ hiểu đúng về khái 
niệm bú mẹ hoàn toàn.
- Về thực hành Chỉ có 33,8% bà mẹ thực 
hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu 
sau sinh, Có 53,8% bà mẹ cho rằng mẹ mệt 
và đau sau sinh đã cản trở việc cho con bú 
sớm.
- 14,5% bà mẹ cho bú hoàn toàn tại thời 
điểm xuất viện.Còn tới 85,5% cho trẻ uống 
thêm sữa công thức hoặc 1 số thứ khác.
Tuy chỉ là khảo sát nhanh nhưng cũng 
phản ánh rõ thực trạng về kiến thức, thực 
hành của bà mẹ về việc cho trẻ bú sớm và 
bú mẹ hoàn toàn. Như vậy việc áp dụng 
kiến thức vào thực tế còn là một thách thức 
lớn. Các chương trình tập huấn, truyền 
thông vẫn cần được duy trì nhưng cần ưu 
tiên hơn về lĩnh vực thực hành. Vai trò của 
cán bộ y tế là rất quan trọng trong việc hỗ 
trợ cho con bú sớm. Hướng dẫn tư thế cho 
con bú, động viên khuyến khích bà mẹ, 
hỗ trợ bà mẹ khắc phục những khó khăn 
và giúp bà mẹ có đủ tự tin cho trẻ bú sớm 
và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 
những can thiệp cơ bản nhằm tăng cường 
tỷ lệ bú sớm và bú mẹ hoàn toàn ở các cơ 
sở y tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mullany LC & et al (2008), “Breast-
feeding patterns, time to initiation, and 
mortality risk among newborns in southern 
Nepal”, J Nutrition, 138(3), tr. 599-603
2. Almroth S & Arts M, Quang ND, 
Hoa PT, Williams C (2008), “ Exclusive 
breastfeeding in Vietnam: an attainable goal 
“, Acta Paediatr, 97(8), tr. 9-1066
3. Bandyopadhyay M (2009), “Impact of 
ritual pollution on lactation and breastfeeding 
practices in rural West Bengal, India”, 
International Breastfeeding Journal, 4(1), tr. 27.
4. Tuyen LD (2011), Alive & Thrive, NIN 
and UNICEF 2011, Vietnam Nutrition Profile 
2010, Đà Nẵng
5. Đỗ Thị Thúy Liễu,Lưu Thị Mỹ Tiên “ 
Kiến thức, thái độ tực hành nuôi con bằng 
sữa mẹ và các yếu tố liên quan tại bệnh viện 
Quốc tế Phương Châu năm 2017”. Y học TP 
Hồ Chí Minh, Phụ bản Tập 2, số 6/2018
6. WHO (1998), Evidence for the ten 
steps to successful breastfeeding, Division 
of Child Health and Development, Geneva.
7. Trương Hoàng Mối, Võ Thị Kim Hoàn 
và Trương Kim Hoàn “ Khảo sát kiến thức 
và thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các 
bà mẹ có con đang điều trị tại khoa nhi bệnh 
viện An Giang năm 2012”
8. Bonuck K & et al (2002), “Breast-
feeding promotion intervention: good public 
health and economic sense”, J Perinatol, 
22(1), tr. 78-81.
9. Trần Hữu Bích và Đinh Phương Hòa 
(2012), “Sự thay đổi kiến thức của người 
cha về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn 
trong 6 tháng đầu – Phát hiện từ chương 
trình can thiệp cộng đồng hướng tới người 
cha tại khu vực nông thôn Việt nam”, Tạp chí 
Y tế Công Cộng. 24, tr. 43-49.
10. Bùi Thị Duyên, Trà Hà Linh và Phạm 
Hồng Tư (2012), “Mô tả kiến thức và một số 
yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức về bú sớm 
sau sinh và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng 
đầu của những bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại 
3 xã thuộc cụm Long Vân huyện Bá Thước 
tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí Y tế Công cộng, 
27(27), tr. 20-22
11. Nguyễn Thị Thanh Huyền.Mai Thị 
Yên,Hoàng Thu Tình. “Thực trạng thái độ và 
yếu tố liên quan cho con bú ngay sau sinh 
của các thai phụ đến khám tại bệnh viện Phụ 
sản tỉnh Nam Định năm 2020”. số 4, tạp chí 
khoa học điều dưỡng-Trường Đại học Điều 
dưỡng Nam Định 
12. Bộ Y Tế (2014, 2016) Tài liệu” Hướng 
dẫn dẫn chuyên môn chăm sóc thiết yếu bà mẹ 
và trẻ sơ sinh trong và ngay sau đẻ” và “Hướng 
dẫn chuyên môn về Chăm sóc sức khỏe bà mẹ 
và trẻ sơ sinh trong và sau mổ lấy thai “

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_va_thuc_hanh_cho_tre_bu_som_sau_sinh_va_bu_me_hoan.pdf