Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013

Với mục tiêu xác định tỷ lệ người dân có kiến thức, thái độ, thực hành đúng về sử

dụng nhà vệ sinh và các yếu tố liên quan, nghiên cứu mô tả cắt ngang triển khai từ tháng

4/2013 đến hết tháng 10/2013 trên địa bàn 3 xã nông thôn là xã Vĩnh Hòa Phú (huyện

Châu Thành), xã Vĩnh Bình Bắc (huyện Vĩnh Thuận), và xã Vĩnh Hòa Hưng Bắc (huyện

Gò Quao). Kết quả cho số hộ sử dụng nhà cầu hợp vệ sinh (NCHVS) chỉ chiếm 33,08%;

về kiến thức chỉ có 13,08% người dân hiểu đúng về NCHVS; Vẫn còn 1,92% hộ dân

chưa được tiếp cận thông tin về NCHVS. 70,38% người dân muốn xoá bỏ cầu tiêu ao cá

(CTAC), 78,08% muốn xóa bỏ cầu tiêu trên sông đạt. Có mối liên quan giữa kiến thức,

thái độ thực hành đúng về sử dụng NCHVS theo độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp

và thu nhập bình quân.

Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013 trang 1

Trang 1

Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013 trang 2

Trang 2

Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013 trang 3

Trang 3

Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013 trang 4

Trang 4

Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013 trang 5

Trang 5

Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013 trang 6

Trang 6

Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013 trang 7

Trang 7

Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013 trang 8

Trang 8

Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013 trang 9

Trang 9

pdf 9 trang viethung 2880
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013

Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng nhà vệ sinh của người dân vùng nông thôn tại các huyện Châu Thành, Vĩnh Thuận và Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, năm 2013
110 
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ SỬ DỤNG NHÀ VỆ SINH 
CỦA NGƯỜI DÂN VÙNG NÔNG THÔN TẠI CÁC HUYỆN CHÂU THÀNH, 
VĨNH THUẬN VÀ GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG, NĂM 2013 
CN. Trần Hữu Lộc, BSCKII. Bùi Kim Chiên, 
CN. Nguyễn Quốc Oai, KS. Đào Thiện Trí, CN. Lâm Vĩ Hằng 
Trung tâm truyền thông GDSK Kiên Giang 
Tóm tắt nghiên cứu 
Với mục tiêu xác định tỷ lệ người dân có kiến thức, thái độ, thực hành đúng về sử 
dụng nhà vệ sinh và các yếu tố liên quan, nghiên cứu mô tả cắt ngang triển khai từ tháng 
4/2013 đến hết tháng 10/2013 trên địa bàn 3 xã nông thôn là xã Vĩnh Hòa Phú (huyện 
Châu Thành), xã Vĩnh Bình Bắc (huyện Vĩnh Thuận), và xã Vĩnh Hòa Hưng Bắc (huyện 
Gò Quao). Kết quả cho số hộ sử dụng nhà cầu hợp vệ sinh (NCHVS) chỉ chiếm 33,08%; 
về kiến thức chỉ có 13,08% người dân hiểu đúng về NCHVS; Vẫn còn 1,92% hộ dân 
chưa được tiếp cận thông tin về NCHVS. 70,38% người dân muốn xoá bỏ cầu tiêu ao cá 
(CTAC), 78,08% muốn xóa bỏ cầu tiêu trên sông đạt. Có mối liên quan giữa kiến thức, 
thái độ thực hành đúng về sử dụng NCHVS theo độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp 
và thu nhập bình quân. 
1. Đặt vấn đề 
Phân và nước tiểu do con người và gia súc tạo ra, ngoài việc gây mùi hôi khó chịu 
và mất thẩm mỹ, còn mang nhiều mầm bệnh, nếu không được xử lý sẽ qua nguồn nước, 
đất, côn trùng, tay, chân người xâm nhập vào thực phẩm mang theo mầm bệnh trở lại 
cho chính con người và cộng đồng của họ. Vì vậy, các chất thải này cần phải có công 
trình tiếp nhận và xử lý tại chỗ trước khi cho vào hệ thống chung. Các nhà cầu tại gia 
đình hay tập thể trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong một xã hội hiện đại và văn 
minh. 
Theo báo cáo của khoa Sức khoẻ cộng đồng thuộc Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh, 
trung bình hàng năm toàn tỉnh đã có trên 10 ngàn NCHVS của nhân dân được hướng dẫn 
xây dựng và sửa chữa. Cụ thể năm 2011 có 10.966 nhà cầu, năm 2012 có 11.487 
NCHVS được hướng dẫn xây dựng và sửa chữa. Cũng theo báo cáo thống kê các bệnh 
truyền nhiễm năm 2012 của Trung tâm Y tế dự phòng, 10/28 bệnh truyền nhiễm gây 
dịch được giám sát có số mắc cao nhất theo thứ tự là tiêu chảy, cúm, tay chân miệng, sốt 
xuất huyết, thuỷ đậu, quay bị, lỵ trực khuẩn, lỵ amib,... Như vậy, khoảng một nửa các 
bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc cao nhất là những bệnh có liên quan tới nước sạch vệ 
sinh môi trường (NSVSMT). Chỉ tính riêng bệnh tiêu chảy, năm 2010 toàn tỉnh có 
12.910 ca; năm 2011 có 11.068 ca và năm 2012 có 9.466 ca mắc. Đối với bệnh tay chân 
miệng, năm 2010 có 383 ca mắc, tử vong 1; năm 2011 có 2.751 ca mắc, chết 4 và năm 
2012 có 2.920 ca mắc, không có tử vong. 
Như vậy, xét về mặt lý thuyết thì theo báo cáo của Trung tâm Y tế dự phòng số 
NCHVS của nhân dân được hướng dẫn xây dựng và sửa chữa hàng năm đều tăng và 
luôn ở mức cao nhưng các bệnh lây truyền qua đường tiêu hoá thì không giảm. Ở đây có 
111 
sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tế. Phân tích các yếu tố khách quan như tăng dân số 
tự nhiên khiến cho tỷ lệ hộ dân sử dụng NCHVS không tăng hoặc người dân quá nghèo, 
không có tiền xây nhà vệ sinh thì chúng ta có thể loại trừ vì trong những năm gần đây 
kinh tế của nước ta, trong đó có Kiên Giang đều phát triển theo chiều hướng tốt. Mặt 
khác, nếu cho rằng báo cáo chưa chính xác thì cũng cần được loại trừ vì số liệu hàng 
năm có sự chênh lệch không đáng kể. 
Vậy tỷ lệ hộ sử dụng NCHVS ở nông thôn là bao nhiêu? Tại sao tỷ lệ hộ sử dụng 
NCHVS không tăng? Những nguyên nhân nào khiến cho tỷ lệ hộ sử dụng nhà cầu không 
hợp vệ sinh ở vùng nông thôn không giảm? 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
1. Xác định tỷ lệ người dân có kiến thức, thái độ thực hành đúng về sử dụng nhà vệ 
sinh. 
2. Xác định các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ thực hành đúng về sử dụng 
nhà vệ sinh. 
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 
3.1. Đối tượng nghiên cứu: 
- Chủ hộ gia đình (tuổi từ 18 -60) có khả năng cung cấp đầy đủ thông tin, cư trú tại 
địa phương từ 1 năm trở lên, phải đảm bảo mẫu đại diện cho: người dân tộc, 
người nghèo/cận nghèo; đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu. 
3.2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 4/2013 đến hết tháng 10/2013 
3.3. Địa điểm nghiên cứu: 3 xã nông thôn: xã Vĩnh Hòa Phú (huyện Châu Thành), xã 
Vĩnh Bình Bắc (huyện Vĩnh Thuận), xã Vĩnh Hòa Hưng Bắc (huyện Gò Quao). 
3.4. Phương pháp nghiên cứu 
3.4.1. Thiết kế nghiên cứu: là một nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. 
3.4.2. Cỡ mẫu nghiên cứu: Được tính toán theo công thức ước lượng cho 1 tỷ lệ nghiên 
cứu mô tả cắt ngang: 
Trong đó: - n cỡ mẫu tối thiểu cần có 
 - Z1-α/2: hệ số tin cậy cho kiểm định 2 phía (bằng 1,96) 
 - α: mức ý nghĩa thống kê (bằng 0,05) 
 - P: ước lượng tỉ lệ biến nghiên cứu trong quần thể bằng 0,2 
 - d: sai số cho phép (bằng 0,05) 
112 
Vậy số lương mẫu cần thiết là 246 hộ và 5% dự phòng cho các trường hợp mất 
mẫu do bỏ cuộc là 13 mẫu. Tổng số hộ gia đình được khảo sát: n = 246+13 = 259, làm 
tròn 260 hộ. 
3.4.3. Kỹ thuật thu thập số liệu: Phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi được thiết kế sẵn. 
3.4.4. Xử lý số liệu: Số liệu nghiên cứu được nhập bằng phần mềm EpiData 3.1; phân 
tích số liệu bằng phần mềm SPSS. 
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Tuổi của đối tượng đánh giá tập trung chủ yếu ở nhóm 30 đến 39 tuổi (40,77%), 
tiếp đến là nhóm 40 đến 49 tuổi (30,38%). Nhóm 15 đến 19 tuổi có tỷ lệ thấp nhất 
(5,38%). 
Bảng 1: Trình độ học vấn của đối tượng đánh giá 
Dân tộc 
Trình độ học vấn (n=260) 
Tổng 
Mù chữ Tiểu học THCS THPT Trên THPT 
Kinh 
n 4 76 113 6 3 202 
% 1,98 37,62 55,94 2,97 1,49 100,00 
Khơ me 
n 12 29 8 2 0 51 
% 23,53 56,86 15,69 3,92 0,00 100,00 
Hoa 
n 0 3 4 0 0 7 
% 0,00 42,86 57,14 0,00 0,00 100,00 
Tổng 
n 16 108 125 8 3 260 
% 6,15 41,54 48,08 3,08 1,15 100,00 
77,69% đối tượng được phỏng vấn là người dân tộc Kinh, dân tộc Hoa chỉ có 
2,69%. Tỷ lệ đối tượng mù chữ của dân tộc Khơ me là nhiều nhất 23,53%, đây sẽ là đối 
tượng cần được quan tâm nhiều hơn. 
Nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu tập trung chủ yếu ở nhóm Nông, Lâm, 
Ngư nghiệp (50,77%), kế đến là nhóm làm mướn (19,23%), thấp nhất là nhóm công 
nhân và cán bộ, viên chức nhà nước (1,92%). Đáng lưu ý là có tới 16% đối tượng thất 
nghiệp. Mức thu nhập bình quân từ 1 đến 2 triệu đồng/người/tháng chiếm đa số 
(33,46%), số hộ có thu nhập bình quân trên 4 triệu đồng/người/tháng chỉ chiếm 11,92%. 
Đặc biệt có 8,46% hộ có thu nhập dưới 1 triệu đồng/người/ tháng, điều này chỉ ra rằng 
đời sống người dân vùng nông thôn vẫn còn nhiều khó khăn. 
Thực trạng có NCHVS còn rất thấp chỉ 33,08%; trong khi đó có tới 66,92% là 
NCKHVS. 
113 
4.2. Kiến thức, thái độ, thực hành về sử dụng NCHVS 
4.2.1. Kiến thức người dân trong sử dụng NCHVS 
25,0%
46,2%
15,8% 13,1%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
Không có mùi hôiKhông thải ra môi
trường xung
quanh
Có khả năng diệt
được mầm bệnh
Cả 3 ý trên
Biểu đồ 1: Người dân kể được các tiêu chí NCHVS 
Đa số người dân cho rằng NCHVS phải đạt tiêu chí không thải phân ra môi 
trường xung quanh (46,15%), trong khi đó tiêu chí không có mùi hôi chiếm 25% và 
NCHVS phải có khả năng diệt được mầm bệnh chỉ chiếm 15,77%. Số người trả lời có 
kiến thức đúng về NCHVS đạt cả 3 tiêu chí chiếm 13,08%. 
4.2.2. Thái độ của người dân về sử dụng nhà cầu 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 70,03% xóa bỏ hình thức cầu tiêu ao 
cá, trong khi đó có tới 29,62% vẫn muốn duy trì. 
Cùng với thái độ muốn bỏ cầu tiêu ao cá thì có tới 78,08% mong muốn xóa bỏ 
cầu tiêu trên sông vì cho rằng nó gây ô nhiễm môi trường, mất mỹ quan. 
4.2.3. Thực hành của người dân về sử dụng nhà cầu 
5,0%
7,0%
33,0%
55,0%
Nhà cầu tự hoại
Nhà cầu "cầu cá"
nhà cầu trên sông
Không có nhà cầu riêng
Biều đồ 2: Thực hành của người dân sử dụng nhà cầu 
Trong số 260 hộ gia đình, có 143 hộ sử dụng cầu cá (55%), nghĩa là quá nửa số 
hộ gia đình được điều tra làm nhà vệ sinh trên hầm nuôi cá tại gia đình và sử dụng phân 
tươi như một nguồn thức ăn cho cá, và vẫn còn 13 hộ (chiếm tỉ lệ 5%) đi ngoài thẳng ra 
sông, đưa số hộ sử dụng nhà tiêu không hợp vệ sinh lên 174/260 hộ (chiếm tỷ lệ 
66,92%). Đây là vấn đề tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường sống và lây truyền các 
bệnh truyền nhiễm. 
114 
Bảng 2: Lý do sử dụng cầu tiêu ao cá 
Ý kiến Hợp vệ 
sinh 
Kín 
đáo 
Thoáng mát, 
thoải mái 
Thói 
quen 
Kinh tế 
gia đình 
Tăng thu 
nhập 
Tổng 
cộng 
Tần số 43 25 18 23 32 2 143 
Tỷ lệ % 30,07 17,48 12,59 16,08 22,38 1,40 100,00 
Có đến 30,07% cho rằng việc sử dụng cầu cá là hợp vệ sinh vì đã có cá ăn; 
17,48% cho rằng ao cá kín đáo, các chất thải không phát tán ra sông rạch được; 12,59% 
đi cầu cá với lý do thoáng mát, thoải mái; 22,38% do thói quen; 22,38% do kinh tế gia 
đình khó khăn nên không có đủ tiền xây nhà cầu hợp vệ sinh và chỉ có 1,4% sử dụng cầu 
các nhằm tăng thu nhập. 
4.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ thực hành đúng về sử dụng nhà vệ 
sinh của người dân. 
Bảng 3: Kiến thức, thực hành đúng về sử dụng NCHVS theo nhóm tuổi 
TT Độ tuổi 
Kiến thức đúng Thực hành đúng 
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) 
1 Từ 15 đến 19 tuổi 12 35,29 12 13,95 
2 Từ 20 đến 29 tuổi 10 29,41 24 27,91 
3 Từ 30 đến 39 tuổi 8 23,53 28 32,56 
4 Từ 40 đến 49 tuổi 4 11,76 22 25,58 
Tổng cộng 34 100,00 86 100,00 
Trong số những người có kiến thức, thực hành đúng thì lứa tuổi 15-19 chỉ chiếm 
tỷ lệ tương ướng là 35,29% và 13,95%. Số người thực hành đúng ở độ tuổi từ 30 đến 39 
tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (32,56%). 
Những người có trình độ học vấn trung học phổ thông trở lên thì có kiến thức và 
thực hành tốt, tuy nhiên nhóm này lại rất ít chỉ có <5% số đối tượng. Trong 6,15% đối 
tượng là người mù chữ thì có dưới 10% số hộ có thực hành tốt. Điều này sẽ là khó khăn 
lớn đối với người làm công tác truyền thông tại địa phường bởi khả năng thu nhận kiến 
thức của họ bị hạn chế và họ khó thay đổi hành vi của mình. 
Bảng 4: Kiến thức, thực hành đúng về sử dụng NCHVS theo nghề nghiệp 
TT Độ tuổi 
Kiến thức đúng Thái độ thực hành đúng 
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) 
1 Nông/lâm/ngư nghiệp 10 29,41 32 37,21 
2 Công nhân 4 11,76 3 3,49 
3 CB, viên chức nhà nước 5 14,71 4 4,65 
4 Buôn bán, dịch vụ 7 20,59 7 8,14 
5 Thất nghiệp 4 11,76 15 17,44 
6 Làm mướn 3 8,82 21 24,42 
7 Khác 1 2,94 4 4,65 
Tổng cộng 34 100.00 86 100.00 
115 
Cán bộ, viên chức nhà nước có kiến thức đúng cao nhất 5/5 đối tượng khảo sát, 
tỷ lệ này thấp nhất ở nhóm đối tượng làm mướn. Thực hành đúng ở đối tượng 
Nông/lâm/ngư nghiệp tuy cao 37,21% nhưng so với nghề nghiệp của đối tượng khảo sát 
(biểu đồ 2) thì tỷ lệ ở đối tượng này thấp nhất (32/132=24,24%) 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ kiến thức và thực hành đúng ở 
người có mức thu nhập bình quân từ 3 đến 4 triệu đồng chiếm cao nhất (32,35% và 
27,91%). Tỷ lệ này thấp nhất ở đối tượng có mức thu nhập dưới 1 triệu đồng (8,82%) 
Hầu hết các hộ đều được tiếp cận thông tin về NCHVS từ nhiều nguồn khác 
nhau, chiếm đa số là tình nguyện viên sức khoẻ và cán bộ y tế, đoàn thể. 
5. Bàn luận 
Tỷ lệ hộ dân sử dụng NCHVS đạt 33,08% là quá thấp. Tuy nhiên, so với báo cáo 
của Cục quản lý môi trường Y tế (Bộ Y tế), năm 2012 đã tăng 4,50% và tăng 24,92% so 
với nghiên cứu năm 2002 của tác giả Nguyễn Thị Kim Tiến, Huỳnh Thu Thủy, Lương 
Chấn Quang và CS là phù hợp. 
Kiến thức đúng của người dân về NCHVS đạt 13,08%. Điều này cho thấy vẫn 
còn một khoảng trống khá lớn trong công tác truyền thông. Trong chiến dịch vận động 
dẹp bỏ cầu tiêu ao cá trước đây có thể nói việc trang bị kiến thức cũng như kỹ năng 
truyền thông cho đội ngũ TNV cũng như cán bộ ban ngành, đoàn thể xã, ấp chưa đáp 
ứng yêu cầu, thể hiện trong phỏng vấn cán bộ ban ngành, đoàn thể tham gia dự án 
NSVSMT ở 3 xã khảo sát, hầu như không người nào nêu được khái niệm nước sạch là gì 
và các bệnh nào liên quan đến nước sạch và nhà cầu. Điều quan trọng hơn là có trên 
80% những người được phỏng vấn cũng không biết đầy đủ về tiêu chí nhà cầu hợp vệ 
sinh, qui cách xây dựng như thế nào, giá thành bao nhiêu. 
Vậy nếu muốn xoá bỏ NCKHVS thì phải giải quyết đồng bộ ít nhất hai vấn đề cơ 
bản: kiểu nhà cầu thích hợp cho vùng đồng bằng sông nước và kỹ năng truyền thông 
giáo dục người dân liên quan đến NSVSMT. Và chỉ có thể xoá bỏ từ từ, theo sự phát 
triển kinh tế và năng lực của cán bộ trong từng thời điểm. 
Thái độ đúng của người dân trong sử dụng nhà cầu chỉ đạt tỷ lệ 70,38%. Đáng 
lưu ý là có 29,62% người dân cho rằng không cần phải dẹp bỏ cầu tiêu ao cá. 
Hành vi đúng của người dân chỉ đạt 33,08%. Mặt khác, hành vi sử dụng nhà cầu 
của người dân hiện tại khá đa dạng, có thể tóm tắt như sau: 
- Nhà cầu bắc ra ngoài sông, rạch là một cái chòi khoảng 1m vuông, quây cao khoảng 
nửa mét đủ ngồi, bằng vật liệu như lá dừa nước, gỗ, tôn, người ta đi ngoài thẳng 
xuống sông. Nhà cầu kiểu này, theo người dân cho biết cách đây khoảng vài năm là 
khá phổ biến, đã được các chiến dịch vận động phá bỏ, chỉ còn lại rất ít nhưng nó 
vẫn tồn tại rải rác ở các điạ phương. Theo kết quả khảo sát, số này chiếm 5%. 
116 
- Nhà cầu theo kiểu cầu tiêu ao cá là những nhà cầu theo kiểu nói trên nhưng không 
phải ở trên sông mà là bắc ngay trên những hầm nuôi cá của mỗi hộ gia đình, người 
dân đi ngoài thẳng xuống hầm cá (thường rộng khoảng 15 - 20 mét vuông). Đây loại 
nhà cầu này là phổ biến nhất ở các xã, chiếm đến 55%. Người dân sử dụng cầu tiêu 
ao cá như một nguồn cung cấp thức ăn cho cá nuôi. 
- Nhà cầu tự hoại, loại này được thiết kế giống như chương trình NSVSMT cung cấp. 
Có thể là hỗ trợ từ nhiều nguồn khác hoặc tự chi trả toàn bộ. Ước tính loại này chiếm 
dưới 10%. 
- Không có/không sử dụng nhà cầu, người ta có thể đi nhờ nhà hàng xóm, nhà bố mẹ, 
họ hàng gần nhà. Với trẻ em đi ngoài, hoặc người lớn vào ban đêm không tiện đi 
sang nhà hàng xóm người ta vứt xuống sông cạnh nhà. Số này chiếm 6,92%. 
Thực tế cho thấy, con số nhà cầu tự hoại tăng chưa phải là chỉ số nói lên sự 
chuyển đổi hành vi người dân, phần lớn các gia đình có nhà cầu tự hoại nhưng luôn tồn 
tại song song một cầu tiêu ao cá, loại này có thể coi như nhà cầu truyền thống hiện nay. 
Bên cạnh đó việc huy động sự tham gia của người dân cũng được coi như một 
nguyên tắc trong hoạt động, thí dụ như cùng đóng góp để hoàn thành mỗi công trình/mô 
hình, có thể là đóng góp bằng tiền, bằng công lao động để họ tự xác định được sự cần 
thiết, tầm quan trọng của việc họ làm và tự duy tu bảo dưỡng. 
Các kết quả đạt được từ Chương trình NSVSMT đã được địa phương ghi nhận và 
đang có một môi trường tốt để tiếp tục phát triển và bền vững đó là: nhà nước cho người 
dân vay vốn áp dụng các mô hình xây dựng 3 công trình vệ sinh, nước sạch và bảo vệ 
môi trường sống thông qua ngân hàng chính sách hoặc qua các Chương trình NSVSMT, 
Chương trình quốc gia như 134, Chương trình 127. 
Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ thực hành đúng cho thấy ở những 
người trẻ và tuổi trung niên, có học vấn bậc trung học cơ sở trở lên, cán bộ, viên chức 
nhà nước, có thu nhập khá là tiền đề để có kiến thức, thái độ, thực hành đúng, thể hiện ở 
nhóm đối tượng này chiếm tỷ lệ cao nhất. 
Đối với nguồn cung cấp thông tin về NCHVS cho người dân chưa được tốt, thể 
hiện người dân chưa từng nghe chiếm 1,92%. Từ các thông tin thu thập được về hành vi 
người dân, so sánh với tài liệu truyền thông cho thấy, nội dung các tài liệu này không 
cung cấp thông tin về sử dụng các công trình vệ sinh, tác hại, hậu quả của việc sử dụng 
phân tươi đối với sức khỏe và sự lây lan bệnh tật trong cộng đồng. Các phỏng vấn cho 
thấy có một vài người biết nhưng họ vẫn sử dụng vì lợi ích là nguồn thức ăn cho cá. Từ 
đây có thể thấy việc tuyên truyền cho người dân về các vấn đề này là chưa đầy đủ, đúng 
cách. 
117 
6. Kết luận 
Qua nghiên cứu tại 3 xã Vĩnh Hòa Phú (huyện Châu Thành), Vĩnh Bình Bắc 
(huyện Vĩnh Thuận), Vĩnh Hòa Hưng Bắc (huyện Gò Quao), cho thấy số hộ sử dụng 
NCHVS chỉ chiếm 33,08% là quá thấp. 
Kiến thức, thánh độ thực hành đúng của người dân trong sử dụng nhà cầu: 
- Về kiến thức chỉ có 13,08% người dân hiểu đúng về NCHVS. 
- Thái độ đúng của người dân trong xoá bỏ CTAC đạt 70,38%, đối với cầu tiêu trên 
sông đạt 78,08%. 
- Hành vi đúng của người dân trong sử dụng NCHVS chỉ đạt 33,08%. 
Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ thực hành đúng 
- Theo độ tuổi: Kiến thức đúng tuổi 15-19 chiếm tỷ lệ cao nhất (85,71%). Thực hành 
đúng ở độ tuổi 30-39 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (32,56%). 
- Theo trình độ học vấn: Trên trung học phổ thông có kiến thức và thái độ thực hành 
đúng 100%. Người mù chữ chiếm tỷ lệ có kiến thức và thái độ thực hành đúng thấp 
nhất. 
- Theo nghề nghiệp: Cán bộ, viên chức nhà nước có kiến thức đúng 100% đối tượng 
khảo sát, tỷ lệ này thấp nhất ở nhóm đối tượng làm mướn (8,42%). Thực hành đúng 
ở đối tượng Nông/lâm/ngư nghiệp thấp nhất (24,24%). 
- Theo thu nhập bình quân: Kiến thức và thái độ thực hành đúng ở người có mức thu 
nhập từ 3 đến 4 triệu đồng chiếm cao nhất (32,35% và 27,91%). Tỷ lệ này thấp nhất 
ở đối tượng có mức thu nhập dưới 1 triệu đồng (8,82%). 
- Vẫn còn 1,92% hộ dân chưa được tiếp cận thông tin về NCHVS. 
7. Kiến nghị 
- Đối với Chương trình NSVSMT: 
+ Nhà cầu được thiết kế của chương trình NSVSMT phù hợp với khu vực, nên 
khuyến cáo lấy làm mô hình kỹ thuật để các hộ gia đình khác áp dụng. 
- Đối với công tác TT-GDSK: 
+ Phát huy hiệu quả kênh truyền thông sẵn có, phối hợp thêm các hình thức truyền 
thông khác để thay đổi hành vi người dân. 
+ Dựa trên nền tảng sẵn có, xây dựng chiến lược truyền thông thay đổi hành vi về 
NSVSMT cho tỉnh, trong đó lưu ý: Các nội dung, thông điệp truyền thông phù 
hợp với các vấn đề hiện nay tại cộng đồng, đa dạng hóa tài liệu truyền thông, 
phối hợp/lồng ghép nhiều kênh truyền thông, không nên chỉ sử dụng một hình 
thức thăm hộ gia đình. 
118 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (2013) - Nhà vệ sinh, Nông thôn Việt nam. 
2. Bộ Y tế, Quyết định 08/2005/QĐ-BYT ngày 11/3/2005 của Bộ Y tế về việc ban hành 
tiêu chuẩn vệ sinh đối với các loại nhà tiêu. 
3. Chương trình mục tiêu quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (Giai 
đoạn 2006 - 2010), tr: 4- 6. 
4. Cục Quản lý Môi trường Y tế (2012); Báo cáo Kết quả thực hiện công tác năm 2012 
và kế hoạch năm 2013, tr: 25, 26. 
5. Thủ tướng chính phủ, Quyết định số 99/2002/QĐ-TTg ngày 23/7/2002 của Thủ 
tướng Chính phủ về việc thành lập ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia 
nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. 
6. Lê Anh Tuấn (2005), Nhà vệ sinh nông thôn ở Việt Nam - hiện trang và vấn đề 
tr: 1-11. 
7. Lê Đại Trí, Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ sức khỏe Công đồng (2010), Cầu tiêu 
ao cá: có thể dẹp bỏ. tr: 1-3 
8. Nguyễn Thị Kim Tiến, Huỳnh Thu Thủy, Lương Chấn Quang và CS (2002), Thực 
trạng về xử lý phân, rác thải ở người và gia súc tại 3 tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp, 
Kiên Giang, tr: 1. 
9. Trung tâm TT-GDSK Kiên Giang, Báo cáo dự án nâng cao năng lực chăm sóc 
sức khoẻ và cải thiện điều kiện sống cho hộ nghèo ở các xã khó khăn (2007-
2013), tr: 10-12. 
10. Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh Kiên Giang (2012); Báo cáo tổng kết công tác Y tế dự 
phòng, tr: 9, 20. 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thai_do_thuc_hanh_ve_su_dung_nha_ve_sinh_cua_nguoi.pdf