Khảo sát tình trạng rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ giai đoạn cấp tại khoa thần kinh bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương

Xác định tỷ lệ, mức độ rối loạn nuốt

bằng thang điểm GUSS ở người bệnh đột quỵ giai

đoạn cấp và phân tích một số yếu tố nguy cơ liên

quan đến tình trạng rối loạn nuốt ở người bệnh đột

quỵ giai đoạn cấp tại khoa Thần kinh bệnh viện đa

khoa tỉnh Hải dương. Phương pháp: Thiết kế nghiên

cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang, tiến cứu.

Gồm 86 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên

cứu. Cỡ mẫu cho nghiên cứu tính theo công thức ước

tính một tỷ lệ trong quần thể. Cách chọn mẫu thuận

tiện, khi thực hiện lấy mẫu chúng tôi đã lấy được 86

bệnh nhân. Sử dụng thang điểm GUSS đánh giá. Kết

quả: Bệnh nhân có tuổi trung bình 69,2 ± 12,90,

nhóm bệnh nhân có độ tuổi < 60 chiếm tỷ lệ khá cao.

Tỷ lệ rối loạn nuốt là 38,4%. Một số yếu tố liên quan

nổi trội của rối loạn nuốt:Tuổi, giới, tình trạng ý thức,

nguy cơ mắc viêm phổi cao ở nhóm ho không hiệu

quả. Kết luận: Tỷ lệ mắc rối loạn nuốt khá cao ở

bệnh nhân đột quỵ giai đoạn cấp khi sàng lọc bằng

thang GUSS tại bệnh viện tỉnh Hải Dương. Nên có

chiến lược sàng lọc rộng rãi và toàn diện hơn tình

trạng rối loạn nuốt ở các cơ sở điều trị bệnh nhân đột quỵ.

Khảo sát tình trạng rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ giai đoạn cấp tại khoa thần kinh bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương trang 1

Trang 1

Khảo sát tình trạng rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ giai đoạn cấp tại khoa thần kinh bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương trang 2

Trang 2

Khảo sát tình trạng rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ giai đoạn cấp tại khoa thần kinh bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương trang 3

Trang 3

Khảo sát tình trạng rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ giai đoạn cấp tại khoa thần kinh bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương trang 4

Trang 4

Khảo sát tình trạng rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ giai đoạn cấp tại khoa thần kinh bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương trang 5

Trang 5

pdf 5 trang minhkhanh 9520
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tình trạng rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ giai đoạn cấp tại khoa thần kinh bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tình trạng rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ giai đoạn cấp tại khoa thần kinh bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương

Khảo sát tình trạng rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ giai đoạn cấp tại khoa thần kinh bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương
vietnam medical journal n01 - MAY - 2021 
230 
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN NUỐT Ở BỆNH NHÂN 
 ĐỘT QUỴ GIAI ĐOẠN CẤP TẠI KHOA THẦN KINH 
BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HẢI DƯƠNG 
Đinh Thị Hoa1, Mạc Doanh Thịnh2 
TÓM TẮT54 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ, mức độ rối loạn nuốt 
bằng thang điểm GUSS ở người bệnh đột quỵ giai 
đoạn cấp và phân tích một số yếu tố nguy cơ liên 
quan đến tình trạng rối loạn nuốt ở người bệnh đột 
quỵ giai đoạn cấp tại khoa Thần kinh bệnh viện đa 
khoa tỉnh Hải dương. Phương pháp: Thiết kế nghiên 
cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang, tiến cứu. 
Gồm 86 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên 
cứu. Cỡ mẫu cho nghiên cứu tính theo công thức ước 
tính một tỷ lệ trong quần thể. Cách chọn mẫu thuận 
tiện, khi thực hiện lấy mẫu chúng tôi đã lấy được 86 
bệnh nhân. Sử dụng thang điểm GUSS đánh giá. Kết 
quả: Bệnh nhân có tuổi trung bình 69,2 ± 12,90, 
nhóm bệnh nhân có độ tuổi < 60 chiếm tỷ lệ khá cao. 
Tỷ lệ rối loạn nuốt là 38,4%. Một số yếu tố liên quan 
nổi trội của rối loạn nuốt:Tuổi, giới, tình trạng ý thức, 
nguy cơ mắc viêm phổi cao ở nhóm ho không hiệu 
quả. Kết luận: Tỷ lệ mắc rối loạn nuốt khá cao ở 
bệnh nhân đột quỵ giai đoạn cấp khi sàng lọc bằng 
thang GUSS tại bệnh viện tỉnh Hải Dương. Nên có 
chiến lược sàng lọc rộng rãi và toàn diện hơn tình 
trạng rối loạn nuốt ở các cơ sở điều trị bệnh nhân đột quỵ. 
SUMMARY 
SURVEY THE REALITY OF SWALLOW 
DISORDER IN ACUTE STROKE AT 
NEUROLOGY DEPARTMENT IN HAI DUONG 
PROVINCE GENERAL HOSPITAL 
Subject: Determine the rate and level of the 
swallow disorder by the GUSS scale in patients with 
acute stroke and analyze some of the risk factors 
related to swallow disorder in patients with acute 
stroke at Neurology Department in Hai Duong 
province general hospital. Method: Using a cross-
sectional study, the sample size was 86 patients. The 
sample size for this study is based on the formula that 
estimates a proportion in a population. With the 
convenient way to select samples, when we did 
sample collection. the GUSS scale was used to 
evaluate. Result: The mean ages of patients was 
69.2 ± 12.90 years old, the proportion of patients 
aged <60 years old is quite high. Rate of swallow 
disorders was 38.4%. Some related factors of swallow 
disorder: Age, sex, consciousness, and high risk of 
pneumonia in ineffective cough group. Conclusion: 
1Trường Đại học kỹ thuật Y tế Hải Dương 
2Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương 
Chịu trách nhiệm chính: Đinh Thị Hoa 
Email: hoadinhhoa@hmtu.edu.vn 
Ngày nhận bài: 2.3.2021 
Ngày phản biện khoa học: 23.4.2021 
Ngày duyệt bài: 4.5.2021 
The incidence of swallowing disorder is quite high in 
patients with acute stroke when screening with the 
GUSS scale at Hai Duong province general hospital. 
There should be a strategy for a broader screening of 
swallow disorder in acute stroke-patient settings. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đột quỵ là một bệnh rất thường gặp trong 
thực hành lâm sàng và đang trở thành một thách 
thức của y học hiện nay. Đột quỵ đang trở thành 
một vấn đề thời sự cấp bách do tỷ lệ mắc bệnh 
trong cộng đồng ngày càng tăng, tỷ lệ tử vong 
đứng hàng thứ hai trên thế giới [1]. Trên toàn thế 
giới, đột quỵ đã cướp đi sinh mạng của bốn triệu 
người mỗi năm, số người sống sót có di chứng 
nhẹ và vừa chiếm tới 50% [2]. Trong số những 
người sống sót, chỉ có 26% trở lại nghề cũ, số 
còn lại phải chuyển hoặc bỏ nghề nên thu nhập 
thấp và trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội 
[3]. Rối loạn nuốt (RLN) là vấn đề thường gặp 
trên bệnh nhân tai biến mạch não cấp, chiếm 
khoảng 42 – 67%[4], gây hít sặc dẫn đến viêm 
phổi với tỉ lệ lên đến 73,4% [5]. Viêm phổi có 
nguy cơ tử vong tăng gấp 5,4 lần [6]. Trong đó, 
rối loạn nuốt làm tăng nguy cơ viêm phổi gấp 
3,17 lần và hít sặc tăng nguy cơ viêm phổi gấp 
6,95 – 11,57 lần thậm chí gấp 18 lần[4],[5]. Các 
hậu quả khác của rối loạn nuốt là tình trạng suy 
dinh dưỡng, mất nước, kéo dài thời gian nằm viện 
và tiên lượng xấu [4][7]. Sàng lọc, phát hiện sớm 
rối loạn nuốt không những giúp hạn chế nguy cơ 
viêm phổi hít mà còn giúp làm giảm nguy cơ suy 
dinh dưỡng, giảm thời gian nằm viện và tỉ lệ tử 
vong [8]. Vì vậy chẩn đoán và phát hiện sớm và 
dự phòng rối loạn nuốt ở bệnh nhân đột quỵ được 
xem là một biện pháp làm giảm biến chứng cũng 
như tử vong [9]. Tại Hải Dương, cho đến bây giờ 
chưa có nghiên cứu nào đánh giá thực trạng và 
những nguy cơ của rối loạn nuốt được thực hiện ở 
bệnh nhân đột quỵ. Vì vậy chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu đề tài: “Khảo sát tình trạng rối loạn 
nuốt ở bệnh nhân Đột quỵ giai đoạn cấp tại khoa 
Thần kinh bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương” với 
hai mục tiêu: 
1. Xác định tỷ lệ và mức độ rối loạn nuốt 
bằng thang điểm GUSS ở người bệnh đột quỵ 
giai đoạn cấp tại khoa Thần kinh bệnh viện đa 
khoa tỉnh Hải dương. 
TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 502 - th¸ng 5 - sè 1 - 2021 
231 
2. Phân tích một số yếu tố nguy cơ liên quan 
đến tình trạng rối loạn nuốt ở người bệnh đột 
quỵ giai đoạn cấp tại khoa Thần kinh bệnh viện 
đa khoa tỉnh Hải dương. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu: Là 86 bệnh nhân 
(BN) đã được chẩn đoán xác định là Đột quỵ 
khám và điều trị nội trú tại khoa Thần kinh - 
bệnh viện đa khoa Tỉnh Hải Dương trong năm 
2019 được lựa chọn vào nghiên cứu dựa trên các 
tiêu chuẩn và loại trừ sau: 
 Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhân bị đột 
quỵ lần đầu và nhập viện điều trị trước 7 ngày; 
Có điểm Glassgow > 10điểm; Chụp cắt lớp vi 
tính hoặc chụp cộng hưởng từ sọ não thấy có 
hình ảnh nhồi máu não hay hình ảnh xuất huyết 
não; Tự nguyện tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân đột quỵ có 
suy hô hấp phải đặt nội khí quản, rối loạn ý 
thức, hôn mê không làm theo lệnh. Người bệnh 
đột quỵ tái phát. Tổn thương não do các nguyên 
nhân khác: chấn thương sọ não, nhiễm khuẩn hệ 
thầ ... m 
mức độ vừa, 13 -14 điểm mức độ nhẹ, 15 điêm 
tỉnh táo hoàn toàn 
- Chụp CT scanner sọ não và/hoặc MRI sọ 
não xác định chẩn đoán. 
- Đánh giá và phân độ rối loạn nuốt dựa vào 
bảng điểm GUSS của Trapl và cộng sự. 
*Bệnh nhân đủ tiêu chuẩn được tiến hành: 
Khám đánh giá các dấu hiệu lâm sàng; Đảm bảo 
các chức năng sống; Điều trị Đột quỵ; Được giải 
thích và đồng ý tham gia đánh giá. 
3. Xử lý số liệu: Dùng phần mềm SPSS 16.0 
để xử lý số liệu. 
4. Vấn đề đạo đức của đề tài: Đảm bảo 
các vấn đề về đạo đức nghiên cứu trong lâm sàng. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1: Tỷ lệ phân bố theo tuổi, giới, 
tuổi trung bình 
Biến số Số BN (n) Tỷ lệ % 
Tuổi 
<60 23 26,7 
60-69 23 26,7 
70-80 18 20,9 
>80 22 25,7 
Giới 
(p<0,05) 
Nam 61 70,9 
Nữ 25 29,1 
Tuổi TB của 
tổng BN 
 86 
69,2 ± 
12,90 
Tuổi TB của 
nhóm BN 
(p < 0,05) 
Có RLN 33 
65,6 ± 
12.16 
Không 
RLN 
53 
75,8 ± 
11,71 
TB điểm Glasgow 
(11->15 điểm) 
86 
14,3 ± 
1,22 
Nhận xét: BN có tuổi cao nhất là 101 tuổi, 
thấp nhất là 48 tuổi, tuổi trung bình 69,2 ± 12,90. 
BN là nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn 2,4 lần so 
với BN là nữ (61/25 = 2,4). Có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê giữa tuổi TB của hai nhóm có và 
không RLN 
Bảng 2: Các triệu chứng về hệ hô hấp 
của đối tượng nghiên cứu 
Triệu chứng 
Có Không 
n % n % 
Thở rõ 75 87,2 11 12.8 
Giọng ướt 31 36,1 55 63,9 
Ho hiệu quả 58 67.4 28 32.6 
vietnam medical journal n01 - MAY - 2021 
232 
Hơi thở ngắn 18 20,9 68 79,1 
Tiếng ồn ở đường 
thở trên 
12 14.0 74 86,0 
Ho theo yêu cầu 68 79,1 18 20,9 
Tằng hắng giọng 65 75.7 21 24.3 
Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê tỷ lệ BN có và không có của các triệu chứng 
hô hấp khi khảo sát. 
Bảng 3: Tỷ lệ và mức độ rối loạn nuốt 
khi đánh giá bằng thang GUSS 
Độ khó nuốt n % 
Rối loạn nuốt nặng 24 27,9 
Rối loạn nuốt vừa 4 4,6 
Rối loạn nuốt nhẹ 5 5.9 
Không rối loạn nuốt 53 61,6 
Tổng 86 100 
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân bị RLN khá cao 
38,4% (BN bị RLN nặng 27,9%, còn lại là 10,5% 
BN RLN nhẹ, vừa) 
2. Một số yếu tố nguy cơ liên quan của rối loạn nuốt 
Bảng 4: Mối liên quan giữa rối loạn nuốt và tuổi, giới 
Nhóm tuổi 
Có RL nuốt Không RL nuốt 
OR (95%CI) p 
n % n % 
Tuổi: <60 4 17,4 19 82,6 1 
60-69 8 34,8 15 65,2 3,92 (0,68-22,70) 0,127 
70-80 8 44,4 10 55,6 7,44 (1,25-44,19) 0,027 
>80 13 59,1 9 40,9 12,14 (2,10-70,22) 0,005 
Giới: Nam 18 29,5 43 70,5 3,14 (1,07-9,22) 0,033 
Nữ 15 60,0 10 40,0 1 
Tổng 33 38,4 53 61,6 
Nhận xét: Nhóm BN trên 80 tuổi, 70-80, và 60-69 có nguy cơ bị RLN cao hơn nhóm <60 tuổi lần 
lượt là 12,14 lần, 7,44 lần và 3,92 lần. có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. BN là nam có nguy cơ bị 
RLN cao hơn nữ 3,14 lần, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
Bảng 5: Liên quan giữa rối loạn nuốt và điểm Glasgow 
Glasgow 
Có RLN Không RLN 
OR (95%CI) p 
n % n % 
11-12 điểm 10 100 0 0 - 
13-14 điểm 13 92,9 1 7,1 30,71 (5,52-170,76) 0,000 
15 điểm 10 16,1 52 83,9 1 
Nhận xét: - Nhóm BN có điểm Glasgow 13-14 có nguy cơ bị RLN cao hơn nhóm BN 15 điểm 
30,71 lần, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001 
- Nhóm BN có điểm Glasgow 11-12 chắc chắn có RLN trên lâm sàng. 
Bảng 6: Liên quan giữa ho không hiệu quả và viêm phổi 
Triệu chứng 
Viêm phổi Không viêm phổi OR 
(95% CI) 
p 
n % n % 
Ho hiệu quả 6 10,3 52 89,7 1 
Hokhông hiệu quả 12 42,9 16 57,1 20(4,8-82,2) <0,05 
Tổng 18 20,9 68 79,1 
Nhận xét: Nguy cơ mắc viêm phổi ở nhóm ho không hiệu quả cao hơn 20 lần so với nhóm ho có 
hiệu quả OR = 20 (4,8-82,2). 
Bảng 7: Mối liên quan giữa thể đột quỵ và viêm phổi 
Triệu chứng 
RLN Không RLN OR 
(95% CI) 
p 
n % n % 
Xuất huyết não 17 44,7 21 55,3 1,63 (0,61-4,35) 0,334 
Nhồi máu não 16 33,3 32 66,7 1 
Tổng 33 38,4 53 61,6 
Nhận xét: Nguy cơ BN nhóm Xuất huyết não có RLN cao hơn nhóm Nhồi máu não 1,63 lần, 
nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
IV. BÀN LUẬN 
1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên 
cứu. Tuổi BN trong nghiên cứu của chúng tôi 
dao động từ 48 đến 101 tuổi, trung bình là 69,2 
± 12,90. Tỷ lệ BN trong các độ tuổi tương đương 
nhau. Nhóm tuổi dưới 60 tuổi chiếm tỷ lệ khá 
cao 26,7%, điều này thể hiện xu hướng trẻ hóa 
của bệnh đột quỵ. Tuy nhiên tỷ lệ BN trên 70 
tuổi rất cao là 46,6%. Độ tuổi trung bình của BN 
trong NC của chúng tôi cao hơn so với một số 
TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 502 - th¸ng 5 - sè 1 - 2021 
233 
NC khác Lê Văn Thính (2007): 62,3 ± 8,8, tương 
tự Nguyễn Thế Dũng (2009): 63,4 ± 17,7, 
Nguyễn Thị Dung (2014): 60,3 ± 12,01. Kết quả 
NC cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
giữa tuổi TB của hai nhóm có và không RLN 
(p<0,05). Nhóm RLN trong NC có độ tuổi TB là 
65,6 ± 12.16. Kết quả này cao hơn so với một 
số NC khác. Falsetti và cs (2009): 57,9 ± 11,9. 
Kết quả NC của chúng tôi cho thấy BN là nam 
giới chiếm tỷ lệ cao hơn so với BN là nữ (2,4/1). 
So với các NC khác thì kết quả NC tương đồng, 
tỷ lệ BN nam cao hơn nữ. Tuy nhiên có sự dao 
động tỷ lệ BN cụ thể: Lê Văn Thính (2007): 
1,8/1, Phan Nhựt Chí và cs (2011): 1,6/1, 
Nguyễn Thị Dung (2014): 2,2/1. Có thể lý giải 
các lý do như là: Nam giới có nhiều nguyên nhân 
và yếu tố nguy cơ gây tai biến hơn so với nữ giới 
như: THA, đái đường các thói quen có hại, 
dùng chất kích thích nhiều, mức độ nặng  tâm 
lý không cân bằng bằng giới nữ. 
Kết quả nghiên cứu ở bảng 2 có 62 bệnh 
nhân nhập viện với tình trạng ý thức tỉnh táo 
hoàn toàn, chiếm 72,1%. Bệnh nhân có điểm rối 
loạn ý thức nhẹ điểm là 10/86 bệnh nhân chiếm 
11,6%; bệnh nhân có điểm rối loạn ý thức vừa 
14/86 chiếm 16,3%. Hầu hết bệnh nhân trong 
nghiên cứu này có ý thức tỉnh táo, tiêu chuẩn 
lựa chọn bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu của 
chúng tôi là điểm Glasgow từ 11 điểm trở lên, 
những bệnh nhân có rối loạn ý thức nặng hoặc 
hôn mê chúng tôi không chọn vào mẫu nghiên 
cứu vì các bệnh nhân này sẽ không có khả năng 
kiểm soát được động tác nuốt, bởi vì động tác 
nuốt là nửa tùy ý nửa tự động. 
Dấu hiệu hô hấp và tỉ lệ viêm phổi: Có 
36,1% bệnh nhân có dấu hiệu giọng nói thay 
đổi. Đây là dấu hiệu nhận biết trên lâm sàng để 
các bác sỹ và điều dưỡng chú ý theo dõi tình 
trạng ứ đọng do rối loạn nuốt. Kết quả nghiên 
cứu ở bảng 2 có 18/86 bệnh nhân có dấu hiệu 
thở ngắn chiếm 20,9% và 12/86 bệnh nhân có 
tiếng ồn đường hô hấp đây là dấu hiệu dự báo 
tình trạng viêm phổi trên bệnh nhân đột quỵ. 
Tỷ lệ và mức độ rối loạn nuốt: Tỷ lệ bệnh 
nhân có RLN trong nghiên cứu là 38,4%. Tỷ lệ 
này thấp hơn với tỷ lệ rối loạn nuốt của các 
nghiên cứu khác sử dụng bảng điểm GUSS để 
đánh giá. Tác giả Lường Văn Long là 59,3%, 
Nguyễn Thế Dũng là 64,3% . Khi so sánh với các 
tác giả ngoài nước, tỷ lệ rối loạn nuốt của chúng 
tôi cũng khá phù hợp. Theo tác giả Martino 
(2006) tỉ lệ rối loạn nuốt là 45% , Tuy nhiên kết 
quả của chúng tôi thấp hơn với một số nghiên 
cứu Daniels có tỉ lệ nuốt là 65%, D. Kidd và cộng 
sự sử dụng phương pháp uống 50ml nước phối 
hợp với chiếu điện quang quay video với cỡ mẫu 
60 bệnh nhân cho kết quả rối loạn nuốt dao 
động 42-65%.,. Qua kết quả nghiên cứu cho 
thấy tỷ lệ rối loạn nuốt ở BN đột quỵ là rất cao ở 
các mức độ nặng nhẹ khác nhau. Vì vậy việc xác 
định một bệnh nhân đột quỵ cấp có RLN hay 
không cần được thực hiện sớm trong vòng 24-48 
giờ khi bệnh nhân nhập viện nhằm phòng ngừa 
các biến chứng của nó, đặc biệt là hít phải dị 
vật. Phương pháp đánh giá và sàng lọc bệnh 
nhân có rối loạn nuốt bằng bảng điểm GUSS có 
độ tin cậy cao và dễ thực hiện, phù hợp với điều 
kiện thực tế trên lâm sàng. 
2. Một số yếu tố nguy cơ liên quan của 
rối loạn nuốt. Từ kết quả NC của bảng 4 cho 
thấy: Có mối liên quan giữa tình trạng RLN và 
độ tuổi của bệnh nhân. Nguy cơ RLN ở BN có độ 
tuổi >80 tuổi và 70-80 tuổi cao hơn nhóm <60 
tuổi lần lượt là 12, 2 lần và 7,4 lần. (OR = 12,2; 
95%CI=2,1 – 70,22). Có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả này phù 
hợp với NC của Lường Văn Long, nhóm bệnh 
nhân có tuổi trên 50 có tỷ lệ rối loạn nuốt là 
68,18% cao hơn nhóm bệnh nhân tuổi dưới 50 
là 30,0% (p < 0,05. OR = 5,0 ; 95%CI (1,51-
17,88). Kết quả NC của bảng 4 cho thấy: BN là 
nam trong NC có nguy cơ bị RLN cao hơn nữ 3,1 
lần (OR = 3,1; 95%CI=1,07 – 9,22), có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Rối loạn nuốt có liên quan tới tình trạng ý 
thức của bệnh nhân. Kết quả NC bảng 5 cho 
thấy Nhóm BN có điểm Glasgow 13-14 có nguy 
cơ bị RLN cao hơn nhóm BN 15 điểm 30,7 lần, 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p 
<0,001. Nhóm BN có điểm Glasgow 11-12 chắc 
chắn có RLN trên lâm sàng.Kết quả này cũng 
tương đồng với kết quả NC của Lường Văn Long 
các bệnh nhân có điểm Glasgow 10-14 điểm hầu 
hết các bệnh nhân có điểm Glasgow từ 10-14 
điểm đều có rối loạn nuốt. Điều này cũng phù 
hợp với cơ chế sinh lý bệnh của rối loạn nuốt 
trong đột quỵ là rối loạn nuốt chủ yếu ở pha 
miệng-họng là động tác có ý thức, một tình 
trạng rối loạn ý thức sẽ làm ảnh hưởng tới quá 
trình nuốt. Vì thế nếu bệnh nhân đột quỵ vào 
viện trong tình trạng có rối loạn ý thức, dù ở 
mức độ nào cũng cần được đánh giá rối loạn nuốt. 
Dựa vào kết quả bảng 6 cho thấy, tỷ lệ bệnh 
nhân bị viêm phổi của nhóm có rối loạn nuốt là 
(15/86 BN) 17,4% cao hơn tỷ lệ viêm phổi của 
của bệnh nhân không có rối loạn nuốt là 3,4%. 
Tuy nhiên không có mối liên quan giữa RLN và 
viêm phổi chỉ số OR < 1, không có sự khác biệt 
vietnam medical journal n01 - MAY - 2021 
234 
có ý nghĩa thống kê. Kết quả NC bảng 6 cũng 
cho thấy triệu chứng ho không hiệu quả là yếu 
tố nguy cơ có liên quan đến tình trạng viêm 
phổi. Tỷ lệ BN ho không hiệu quả trong nhóm 
viêm phổi cao hơn nhóm không viêm phổi, có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Nguy cơ mắc 
viêm phổi ở nhóm ho không hiệu quả cao hơn 20 
lần so với nhóm ho có hiệu quả OR = 20 (4,8-
82,2), có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p 
<0,05. Kết quả này cũng giống với NC của 
Nguyễn Thị Dung nguy cơ viêm phổi của nhóm 
ho không hiệu quả cao nhóm ho hiệu quả. 
V. KẾT LUẬN 
1. Tỷ lệ BN tham gia NC trên 70 tuổi khá cao 
là 46,6%. Độ tuổi trung bình: 69,2 ± 12,90. 
- Tỷ lệ BN có RLN khá cao 38,4%. Nam giới 
mắc nhiều hơn nữ giới. 
2. Một số yếu tố nguy cơ liên quan nổi trội 
của RLN: Độ tuổi cao, nam giới có nguy cơ bị rối 
loạn nuốt cao hơn nữ. BN có tình trạng ý thức 
thông qua điểm Glasgow thấp có nguy cơ bị rối 
loạn nuốt cao hơn nhóm BN có điểm Glasgow 15 
điểm. Nguy cơ mắc viêm phổi ở nhóm ho không 
hiệu quả cao hơn so với nhóm ho có hiệu quả. 
KIẾN NGHỊ 
1. Tất cả các bệnh nhân đột qụy cấp nên 
được sàng lọc RLN bởi các thang sàng lọc sớm 
(GUSS) ngay sau khi nhập viện tại các khoa cấp 
cứu và thần kinh. 
2. Đào tạo nhân viên để tham gia trị liệu rối 
loạn nuốt cho bệnh nhân tại các khoa Thần kinh 
bệnh viện tuyến tỉnh để nâng cao chất lượng 
điều trị và chăm sóc bênh nhân đột qụy ở giai 
đoạn cấp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phan Nhựt Trí (2011), “Nghiên cứu rối loạn 
nuốt ở bệnh nhân tai biến mạch não cấp tại Bệnh 
Viện Cà Mau năm 2010”, Luận văn Bác sỹ chuyên 
khoa cấp II, Đại học y Hà Nội. 
2. Trần Văn Minh (2002), “ Nghiên cứu biến chứng 
sặc phổi ở các bệnh nhân điều trị hồi sức cấp cứu 
và chống độc”, Luân văn Bác sỹ CKII, Đại học Y HN. 
3. Adam et al (2007). “Guiline for the Early 
Management of Adult with Ischemic Stroke”. 
Circilation 2007. 478 – 534. 
4. Martino et al (2006), “Management of 
Dysphagia in Acute Stroke: An Educational Manual 
for the Dysphagia Screening Professional”, The 
Heart and Stroke Foundation of Ontario, J A N U A 
RY 2 0 0 6 
5. Nguyễn Thị Dung (2014). Bước đầu tìm hiểu rối 
loạn nuốt và nhu cầu can thiệp PHCN nuốt ở bệnh 
nhân tai biến mạch máu não. Luận văn bác sĩ nội 
trú. Đại học Y Hà Nội. 
6. Falsetti P et al (2009). Oropharyngeal 
dysphagia after stroke: insidence, diagnosis, and 
clinical predictors in patients admitted to a 
neurorehabilitation unit. J stroke cerebrovasc Dis; 
18: 329-335. 
7. D. Kidd et al (1993), “Aspiration in acute stroke: 
a clinical study with videofluoroscopy”, Quarterly 
journal of Medicine, 1993; 86:825-829. 
8. C.Gordon et al (1987), “Dysphagia in acute 
stroke”, British Medical Journal, volume 295 15 
August 1987. 
KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ HỒI PHỤC KHI 
RA VIỆN VỚI MỘT SỐ THANG ĐIỂM CỦA BỆNH NHÂN 
ĐỘT QUỴ NHỒI MÁU NÃO KHÔNG DO NGUYÊN NHÂN TỪ TIM 
Nguyễn Văn Quốc1, Dương Văn Duy2, Nguyễn Trung Kiên2, 
Trương Xuân Dương2, Nguyễn Quang Huy2, 
 Nguyễn Thái Sơn2, Đặng Phúc Đức3 
TÓM TẮT55 
Mục tiêu: Nhận xét các yếu tố nguy cơ, đặc điểm 
lâm sàng và các thang điểm đột quỵ của BN Đột quỵ 
nhồi máu não cấp không do nguyên nhân từ tim và 
1Hệ Sau đại học, Học viện Quân Y 
2Hệ Đại học, Học viện Quân Y 
3Bệnh viện Quân Y 103 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Văn Quốc 
Email: bs.vanquoc@gmail.com 
Ngày nhận bài: 5.3.2021 
Ngày phản biện khoa học: 22.4.2021 
Ngày duyệt bài: 7.5.2021 
khảo sát mối liên quan giữa mức độ hồi phục khi ra 
viện với các thang điểm đột quỵ. Đối tượng và 
phương pháp: 159 BN Đột quỵ nhồi máu não lần 
đầu không do nguyên nhân từ tim được điều trị tại 
Khoa Đột quỵ, Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 6/2020 
đến tháng 1/2021, thời gian nhập viện dưới 7 ngày 
tính từ khi khởi phát. Kết quả: Các yếu tố nguy cơ 
đột quỵ: tuổi ≥ 55 83,6%, nam 64,8%, tăng huyết áp 
51,6%, đái tháo đường 11,9%, rối loạn lipid 26,4%, 
béo phì 15,7%, hút thuốc lá 29,6% và uống rượu bia 
30,4%. Các thang điểm lúc nhập viện: Điểm GCS 
trung bình 14,41 ± 1,31 GCS = 15 điểm là 74,2%; 
điểm NIHSS trung bình 7,47 ± 5,80, NIHSS < 5 điểm 
là 39,6% và điểm ASPECT trung bình 7,87 ± 1,39, 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_tinh_trang_roi_loan_nuot_o_benh_nhan_dot_quy_giai_d.pdf