Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị

Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư đầu cổ được

điều trị xạ trị hoặc điều trị hóa xạ trị đồng thời.

Phương pháp nghiên cứu: Theo dõi dọc, nghiên cứu tiến cứu quan sát thông qua các cuộc phỏng

vấn và công cụ nghiên cứu trên 50 bệnh nhân chẩn đoán ung thư đầu cổ được điều trị có xạ trị tại các

thời điểm trước xạ trị, ngay sau khi xạ trị và 1, 3 tháng sau xạ. Nghiên cứu tiến hành tại Trung tâm Ung

Bướu, bệnh viện Quân Y 103, thời gian từ tháng 6/2018 đến tháng 3/2020.

Kết quả và bàn luận: Trước khi điều trị phần lớn bệnh nhân (92%) được nuôi dưỡng tốt theo PGSGA, nhưng tại thời điểm kết thúc xạ trị có tới 76% bệnh nhân bị suy dinh dưỡng. Nghiên cứu chỉ ra quá

trình xạ trị làm cho lượng tiêu thụ thức ăn giảm (>50% so với khẩu phần ăn), các chỉ số (cân nặng, BMI,

TSF, MUAC, MAMA) và các chỉ số sinh hóa máu (protein, albumin) đều giảm. Tình trạng suy dinh dưỡng

nguy cơ nặng hơn ở những bệnh nhân ung thư khoang miệng - hầu họng; giai đoạn bệnh tiến triển; điều

trị hóa xạ kết hợp; những bệnh nhân nhẹ cân, không được can thiệp dinh dưỡng kịp thời. Các độc tính tại

các cơ quan như niêm mạc miệng, tuyến nước bọt, hầu họng và thực quản xấu đi trong quá trình điều trị

xạ, nặng nhất ở thời điểm vừa kết thúc xạ trị và hồi phục dần sau tia xạ, càng suy dinh dưỡng thì độc tính

càng nặng.

Kết luận: Quá trình xạ trị ở bệnh nhân ung thư đầu cổ tác động không tốt đến tình trạng dinh dưỡng.

Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị trang 1

Trang 1

Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị trang 2

Trang 2

Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị trang 3

Trang 3

Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị trang 4

Trang 4

Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị trang 5

Trang 5

Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị trang 6

Trang 6

Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị trang 7

Trang 7

Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị trang 8

Trang 8

Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 10460
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị

Khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân ung thư đầu cổ điều trị xạ trị
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 407 
KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG 
Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐẦU CỔ ĐIỀU TRỊ XẠ TRỊ 
HỒ VIẾT HOÀNH1; NGHIÊM THỊ MINH CHÂU2; NGUYỄN VĂN BA3, NGUYỄN HỮU THIỆN4 
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hữu Thiện 
Email:huuthienk71@gmail.com 
Ngày nhận bài: 05/10/2020 
Ngày phản biện: 03/11/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 
1 ThS. Phó Khoa Hóa trị - Trung tâm Ung Bướu Bệnh viện Quân Y 103 
2 PGS.TS. Trưởng Bộ môn Ung thư - Trưởng Khoa Hóa trị - Trung tâm Ung Bướu Bệnh viện Quân Y 103 
3 PGS.TS. Giám đốc Trung tâm Ung bướu - Trưởng Khoa Xạ trị - Trung tâm Ung Bướu Bệnh viện Quân Y 103 
4 CNĐD Điều dưỡng Trưởng- Khoa Hóa trị - Trung tâm Ung Bướu bệnh viện Quân Y 103 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư đầu cổ không phải là loại ung thư phổ 
biến trong các loại ung thư trên thế giới, nhưng có vị 
trí đặc biệt quan trọng, bởi khối ung thư tác động lên 
các cấu trúc đường hô hấp và đường tiêu hóa trên, 
ảnh hưởng lên các quá trình ăn uống, hô hấp và 
giao tiếp. Những tác động này có thể do tổ chức u 
phát triển chèn ép cũng có thể do các tác dụng phụ 
của điều trị, đặc biệt là xạ trị. Một trong những chức 
năng quan trọng của cơ thể là ăn uống, tùy thuộc 
vào vị trí, kích thước trường chiếu, liều chiếu và thời 
gian điều trị, sự thiếu hụt dinh dưỡng là hậu quả 
biến chứng cấp hoặc mạn của xạ trị. 
Thật vậy, các biến chứng cấp như viêm niêm 
mạc miệng, khô miệng, thay đổi vị giác, khó nuốt, 
nuốt đau, đau miệng và cổ họng hoặc chán ăn. Đây 
chính là nguyên nhân làm cho tình trạng dinh dưỡng 
ở bệnh nhân ung thư đầu cổ kém đi. Bệnh nhân ung 
thư đầu cổ nhận liệu pháp xạ trị có nguy cơ suy dinh 
dưỡng đáng kể, các nghiên cứu chỉ ra có tới 80% 
bệnh nhân giảm cân đáng kể trong thời gian điều trị. 
Tình trạng suy nhược, suy giảm chức năng, tăng 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư đầu cổ được 
điều trị xạ trị hoặc điều trị hóa xạ trị đồng thời. 
Phương pháp nghiên cứu: Theo dõi dọc, nghiên cứu tiến cứu quan sát thông qua các cuộc phỏng 
vấn và công cụ nghiên cứu trên 50 bệnh nhân chẩn đoán ung thư đầu cổ được điều trị có xạ trị tại các 
thời điểm trước xạ trị, ngay sau khi xạ trị và 1, 3 tháng sau xạ. Nghiên cứu tiến hành tại Trung tâm Ung 
Bướu, bệnh viện Quân Y 103, thời gian từ tháng 6/2018 đến tháng 3/2020. 
Kết quả và bàn luận: Trước khi điều trị phần lớn bệnh nhân (92%) được nuôi dưỡng tốt theo PG-
SGA, nhưng tại thời điểm kết thúc xạ trị có tới 76% bệnh nhân bị suy dinh dưỡng. Nghiên cứu chỉ ra quá 
trình xạ trị làm cho lượng tiêu thụ thức ăn giảm (>50% so với khẩu phần ăn), các chỉ số (cân nặng, BMI, 
TSF, MUAC, MAMA) và các chỉ số sinh hóa máu (protein, albumin) đều giảm. Tình trạng suy dinh dưỡng 
nguy cơ nặng hơn ở những bệnh nhân ung thư khoang miệng - hầu họng; giai đoạn bệnh tiến triển; điều 
trị hóa xạ kết hợp; những bệnh nhân nhẹ cân, không được can thiệp dinh dưỡng kịp thời. Các độc tính tại 
các cơ quan như niêm mạc miệng, tuyến nước bọt, hầu họng và thực quản xấu đi trong quá trình điều trị 
xạ, nặng nhất ở thời điểm vừa kết thúc xạ trị và hồi phục dần sau tia xạ, càng suy dinh dưỡng thì độc tính 
càng nặng. 
Kết luận: Quá trình xạ trị ở bệnh nhân ung thư đầu cổ tác động không tốt đến tình trạng dinh dưỡng. 
Từ khóa: Ung thư đầu cổ, tình trạng dinh dưỡng, điều trị xạ trị. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 408 
biến chứng, tác dụng phụ của điều trị, giảm chất 
lượng cuộc sống và tăng tỷ lệ tử vong cũng đã được 
nhiều báo cáo chứng minh. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm 50 bệnh nhân chẩn đoán ung thư đầu cổ 
được điều trị có xạ trị tại Trung tâm Ung Bướu, bệnh 
viện Quân Y 103, thời gian từ tháng 6/2018 đến 
tháng 3/2020. 
Tiêu chẩn lựa chọn bệnh nhân là tất cả các 
bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vùng đầu cổ 
có chỉ định điều trị xạ trị tự nguyên tham gia vào 
nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Theo dõi dọc, nghiên cứu tiến cứu quan sát thông 
qua các cuộc phỏng vấn và công cụ nghiên cứu. 
Các bước tiến hành 
Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu được khai 
thác tiền sử bệnh, khám xét lâm sàng tỉ mỉ (đo đạc 
các thông số nhân trắc học), xét nghiệm sinh hóa, 
công thức máu, đánh giá tổng thể tình trạng dinh 
dưỡng theo chủ quan (PG - SGA: Patient-Generated 
Subjective Global Assessment). 
Các thang điểm này sẽ được đánh giá vào 4 
thời điểm khác nhau: trước xạ trị, sau xạ trị, sau xạ 
trị 1 tháng và 3 tháng. Bệnh nhân cũng được theo 
dõi lượng thực phẩm cần cung cấp và lượng thực 
phẩm thực tế qua sổ nhật ký dinh dưỡng. 
PG - SGA: Là công cụ đánh giá tình trạng dinh 
dưỡng đơn giản dễ thực hiện, bao gồm 2 phần 
chính: 
1. Bệnh sử (sự thay đổi cân nặng, khả năng 
ăn uống, triệu chứng đường tiêu hóa, khả năng sinh 
hoạt, mức độ chuyển hóa liên quan Stress bệnh lý). 
2. Thăm khám lâm sàng (đo độ dày lớp mỡ 
dưới da, khối cơ, phù). 
Phân loại 
SGA-A tình trạng dinh dưỡng tốt khi bệnh nhân 
không bị sụt cân hay có tăng cân nhẹ trong thời gian 
ngắn (không phải do tình trạng phù hay báng bụng) 
hoặc sụt cân nhẹ sau đó lại tăng cân bình thường, 
khả năng ăn uống bình thường và không có các dấu 
hiệu mất lớp mỡ dưới da hay teo cơ, phù chi. 
SGA-B tình trạng suy dinh dưỡng vừa hay nghi 
ngờ có suy dinh dưỡng khi bệnh nhân có sụt cân ít 
nhất 5% trọng lượng cơ thể trước nhập viện nhưng 
không tăng cân; ăn ít đi trong vòng 2 tuần trước 
nhập viện, khám có dấu hiệu mất ít lớp mỡ dưới da 
hay teo cơ nhẹ. 
SGA-C là suy dinh dưỡng nặng khi có tình trạng 
sụt cân > 10%, có ăn kém (ăn thức ăn sệt hay lỏng) 
kéo dài 2 tuần, có dấu hiệu rõ mất lớp mỡ dưới da, 
teo cơ nặng hoặc kèm phù chi, phù cột sống thắt 
lưng. 
Trong trường hợp khó phân biệt giữa SGA-A và 
SGA-B thì nên xếp loại SGA-A, hoặc nghi ngờ giữa 
SGA-B với SGA-C thì xếp loại SGA-B. 
 ... được lấy máu xét 
nghiệm đánh giá chỉ số albumin và protein toàn phần trước, sau khi xạ trị và tại các thời điểm 1 và 3 tháng sau 
xạ trị. Nhận thấy các chỉ số giảm rõ rệt sau khi xạ (p <0,001; 0,001). 
Các yếu tố liên quan với tình trạng dinh dưỡng 
Bảng 3. Các yếu tố liên quan với tình trạng dinh dưỡng 
 Dinh dưỡng tốt Suy dinh dưỡng 
 n % n % Χ2 p 
Loại bệnh 
Thanh quản 10 37,5 22 62,5 5,687 0,23 
Khoang miệng, hầu họng, 
k tuyến nước bọt mang tai 
2 11,1 16 88,9 
Giai đoạn bệnh 
I - II 7 77,8 2 22,2 10,18 0,016 
III - IV 5 12,2 36 87,8 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 411 
Tiền sử phẫu thuật 
Có 5 22 18 78 0,82 1.000 
Không 7 26 20 74 
Phương pháp điều trị 
Xạ trị đơn thuần 9 31 20 69 4,423 0,047 
Hóa xạ trị 3 14 18 86 
Liều xạ 
< 60Gy 3 30 7 70 0,007 1,000 
≥ 60Gy 9 22,5 31 77,5 
Chế độ dinh dưỡng bổ sung (đường miệng/qua ống thông) 
Không 4 8 28 56 7,354 0,023 
Có 8 16 10 20 
Lượng thức ăn tiêu thụ (% khẩu phần ăn) 
< 50% 2 6,25 30 93,75 16,726 < 0,001 
≥ 50% 10 55,6 08 44,4 
Chỉ số nhân trắc Mean ± SD Median Mean ± SD Median ZMWU p 
Cân nặng (Kg) 66,34 ± 9,22 64,56 63,96 ± 12,87 62,45 -2,465 0,043 
Giảm cân (Kg) -0,43 ± 2,2 -0,75 5,75 ± 4,36 5,47 -4,49 0,023 
BMI (Kg/m2) 22,63 ± 3,43 21,68 21,39 ± 4,55 20,28 -1,423 0,095 
TSF (mm) 19,22 ± 4,76 19,37 18,92 ± 3,74 28,87 -0,265 0,984 
MUAC (cm) 25,92 ± 2,39 26,04 24,07 ± 3,53 24,34 -1,982 0,052 
MAMA (cm2) 22,92 ± 7,08 23,12 20,28 ± 7,45 20,42 -2,355 0,053 
Chỉ số sinh hóa máu 
Protein (g/l) 62,7 ± 5,20 63,10 63,2 ± 5,56 63,20 -0,280 0,866 
Albumin (g/l) 32,0 ± 4,2 33,3 33,2 ± 2,80 33,32 -0,675 0,593 
Tình trạng dinh dưỡng lúc bệnh nhân vừa kết thúc xạ trị được xem là nặng nhất làm tham chiếu, chúng tối 
nhận thấy bệnh nhân ung thư khoang miệng, ung thư hầu họng và tuyến nước bọt mang tai (p = 0,021) và giai 
đoạn bệnh tiến triển bị suy dinh dưỡng (p = 0,016). Nhóm bệnh nhân được điều trị hóa xạ kết hợp khả năng bị 
suy dinh dưỡng hơn so với nhóm bệnh nhân được điều trị bằng xạ trị đơn thuần (p = 0,047). Liều xạ, tiền sử 
phẫu thuật (bao gồm cả phẫu thuật mở khí quản), chỉ số sinh hóa máu không liên quan với tình trạng dinh 
dưỡng. Tiến hành so sánh giá trị các chỉ số nhân trắc học giữa nhóm không suy dinh dưỡng và nhóm suy dinh 
dưỡng, chúng tôi nhận thấy đối với những bệnh nhân nhẹ cân (p = 0,043), sút cân (p = 0,023), nếu nuôi dưỡng 
kém thì sẽ có nguy cơ bị suy dinh dưỡng. Các yếu tố khác như nếp gấp da vùng cơ tam đầu (TSF), chu vi 
cánh tay, dịch tích vùng giữa cánh tay, chỉ số khối chưa thấy liên quan với tình trạng dinh dưỡng. Những bệnh 
nhân không được bổ sung dinh dưỡng đầy đủ (lượng thức ăn tiêu thụ <50% so với khẩu phần ăn) hay không 
được can thiệp dinh dưỡng kịp thời (đường miệng hoặc sonde nuôi dưỡng) thì có nguy cơ bị suy dinh dưỡng. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 412 
Ảnh hưởng độc tính xạ trị đối với tình trạng dinh dưỡng 
Hình 1. Sự thay đổi số điểm độc tính do xạ trị (Kiểm định friedman so sánh điểm độc tính trung bình 
tại các thời điểm khác nhau trong và sau xạ trị) 
Độc tính được đánh giá tại các cơ quan như niêm mạc miệng, tuyến nước bọt, hầu họng và thực quản, 
nhận thấy độc tính bắt đầu xấu đi trong quá trình điều trị xạ trở đi và nặng nhất ở thời điểm vừa kết thúc xạ trị 
và hồi phục dần sau tia xạ. 
Hình 2. Liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với điểm độc tính do xạ trị 
(Kiểm định mann-Whitney so sánh điểm độc tính trung bình giữa 2 nhóm) 
Đánh giá độc tính xạ trị ở nhóm bệnh nhân suy dinh dưỡng với nhóm không suy dinh dưỡng chúng tôi 
nhận thấy tình trạng dinh dưỡng kém liên quan đến độc tính, độc tính xạ trị càng nặng thì tình trạng suy dinh 
dưỡng tăng với (p <0,001; p <0,002; p <0,003). 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 413 
THẢO LUẬN 
Như chúng ta đã biết, những bệnh nhân ung 
thư đầu cổ trong và sau khi xạ trị có nguy cơ gây suy 
dinh dưỡng, một trong 6 dấu hiệu quan trọng nhận 
biết là giảm cân. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ 
lệ suy dinh dưỡng là 76% tại thời điểm vừa kết thúc 
xạ trị. Kết quả này tương đương với kết quả của 
Unsal và cộng sự với tỷ lệ suy dinh dưỡng là 88,2%. 
Theo dõi các thông số liên quan đến dinh dưỡng 
trong quá trình xạ trị cho thấy mô hình suy dinh 
dưỡng tiến triển cùng với xạ trị. Trong khi hầu hết 
bệnh nhân (92%) nuôi dưỡng tốt trước khi bắt đầu 
xạ trị và con số này giảm đáng kể tại thời điểm kết 
thúc xạ trị (24%). Tương tự lượng thức ăn tiêu thụ 
so với nhu cầu (>50%) giảm từ 94% xuống còn 36% 
tại thời điểm kết thúc xạ trị. Khi xem xét việc giảm 
lượng thức ăn tiêu thụ các nghiên cứu khác cũng chỉ 
ra rằng không chỉ xảy ra ở bệnh nhân ung thư mà 
còn ở tất cả các bệnh nhân nhập viện, phát hiện của 
chúng tôi ở bệnh nhân ung thư vùng đầu cổ không 
có gì ngạc nhiên do vị trí khối u liên quan tới khu vực 
ăn uống. 
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ bệnh nhân được bổ 
sung dinh dưỡng bằng đường miệng hoặc qua 
sonde tăng từ 8% lên tới 44% và tỷ lệ này giảm sau 
khi xạ trị 1 và 3 tháng, sở dĩ trong và sau khi xạ trị 
tổn thương viêm niêm mạc miệng cấp tính do tia xạ 
là cho miệng bệnh nhân đau nên rất khó ăn uống, 
đồng thời xạ trị tổn thương tuyến nước bọt làm mất 
cảm giác ngon miệng ở bệnh nhân. Larsson và cộng 
sự cũng cho thấy xu hướng tương tự trong nghiên 
cứu của họ. Can thiệp dinh dưỡng trong quá trình xạ 
trị trước đây đã được chứng minh là ảnh hưởng tích 
cực đến tình trạng dinh dưỡng. Các tác giả cũng 
tuyên bố rằng rất khó để đưa ra kết luận hiệu quả 
của một can thiệp cụ thể vì các nghiên cứu không 
đồng nhất[10] và đồng thuận đưa ra một chế độ ăn 
riêng cho mỗi đối tượng[26]. Sự giảm trọng lượng cơ 
thể trung bình của mẫu nghiên cứu là 3,71 ± 4,2 kg, 
tương đương 5% trọng lượng cơ thể. Trong đó một 
tỷ lệ cao bệnh nhân (21%) giảm tới 10% trọng lượng 
trong quá trình xạ trị. Các thông số đo nhân trắc học 
khác (BMI, TSF, MUAC và MAMA) và các xét 
nghiệm (Protein, albumin) cũng giảm đáng kể khi kết 
thúc quá trình xạ trị. Pistóia và cộng sự cũng đã báo 
cáo suy giảm đáng kể MUAC, MAMA ở bệnh nhân 
ung thư đầu cổ. Hopanci và cộng sự đã báo cáo chỉ 
số BMI, trong lượng cơ thể, tỷ lệ % chất béo, khối 
lượng mỡ, khối lượng mỡ tự do và khối cơ giảm 
đáng kể khi kết thúc xạ trị nếu bệnh nhân không 
được bổ sung dinh dưỡng đầy đủ. Nghiên cứu của 
chúng tôi đã chứng minh mối liên quan giữa tình 
trạng dinh dưỡng với các yếu tố liên quan tới bệnh 
tật. Các bệnh nhân ung thư khoang miệng, ung thư 
hầu họng và ở giai đoạn tiến triển thì nguy cơ suy 
dinh dưỡng cao nếu không được nuôi dưỡng tốt. 
Giai đoạn bệnh tiến triển là một trong những yếu tố 
được báo cáo nguy cơ gây suy dinh dưỡng. 
Về phương pháp điều trị, ở những bệnh nhân 
được điều trị kết hợp cả xạ trị và hóa chất liên quan 
đến tình trạng suy dinh dưỡng ở bệnh nhân và đã 
được báo cáo tại nghiên cứu. Các độc tính của bức 
xạ lên niêm mạc miệng, tuyến nước bọt, hầu họng, 
thực quản góp phần làm nghiêm trọng hơn tình trạng 
suy dinh dưỡng. Độc tính của xạ trị đã được báo cáo 
là một trong những yếu tố nguy cơ gây giảm cân và 
giảm chỉ số MUAC trong quá trình xạ trị. Các yếu tố 
liên quan khác liên quan đến tình trạng suy dinh 
dưỡng như nhân trắc học, giá trị xét nghiệm protein, 
albumin. Những bệnh nhân nhẹ cân, gầy sút cân, 
MUAC thấp hơn và điểm diện tích vùng cơ giữa 
cánh tay MAMA thấp thì nguy cơ bị suy dinh dưỡng 
cao hơn. Như chúng ta đã biết điểm MAMA liên 
quan với sự suy giảm cơ bắp, đây là dấu hiệu của 
thiểu cơ, suy giảm khối cơ và cơ xương. Ngoài ra 
những bệnh nhân được cung cấp dinh dưỡng thông 
thường sẽ nguy cơ suy dinh dưỡng cao hơn so với 
bệnh nhân được bổ sung dinh dưỡng bằng đường 
miệng hoặc ống sonde nuôi dưỡng. Cochrane và 
cộng sự đã chỉ ra rằng dinh dưỡng bằng đường 
miệng thông thường sẽ không cung cấp đủ dinh 
dưỡng trong quá trình xạ trị đối với bệnh nhân ung 
thư đầu cổ. Phát hiện của chúng tôi xác nhận lại tầm 
quan trọng của việc bổ sung dinh dưỡng ở nhóm 
bệnh nhân này. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, khi ở giai 
đoạn bệnh tiến triển ngay cả dự phòng bằng việc mở 
thông dạ dày nuôi dưỡng cũng không cải thiện được 
lượng dinh dưỡng cung cấp. 
Những bệnh nhân được báo cáo tiêu thụ lượng 
thức ăn dưới 50% khẩu phần ăn thông thường nguy 
cơ suy dinh dưỡng cao hơn so với nhóm bệnh nhân 
tiêu thụ lượng thức ăn trên 50%. Nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy có tới 44,4% số bệnh nhân bị suy 
dinh dưỡng mặc dù ăn trên 50% khẩu phần ăn thông 
thường. Tuy nhiên trong số liệu của chúng tôi có tới 
40% số bệnh nhân đã được bổ sung dinh dưỡng suy 
dinh dưỡng có thể cho thấy thời điểm bổ sung có thể 
bệnh nhân đã suy dinh dưỡng và do chỉ định lâm 
sàng bắt buộc bổ sung trong quá trình xạ trị chứ 
không phải bổ sung ngay từ đầu. Trong thực hành 
điều trị ung thư, việc bổ sung dinh dưỡng và thời 
điểm bổ sung là rất quan trọng để suy trì khối cơ bắp 
và các báo cáo cho thấy rằng bổ sung sau khi đã 
suy dinh dưỡng thì không ngăn được sự suy giảm 
cơ bắp. Nghiên cứu của chúng tôi đã chứng minh 
được sự khác biệt đáng kể giữa nhóm nuôi dưỡng 
tốt với đối chứng về tình trạng suy dinh dưỡng đối 
với chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 414 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu chúng tôi chứng minh rằng liệu 
pháp xạ trị ở bệnh nhân ung thư đầu cổ làm cho tình 
trạng dinh dưỡng xấu đi và nặng nhất thời điểm kết 
thúc xạ. Các yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến tình 
trạng dinh dưỡng của bệnh nhân là lượng thức ăn 
tiêu thụ bằng đường miệng, các chỉ số nhân trắc học 
và nồng độ protein, albumin huyết thanh. Điều quan 
trọng cần lưu ý là bệnh nhân không những suy giảm 
cân mà còn giảm khối lượng cơ của cơ thể. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi tình trạng dinh dưỡng 
được nhận thấy là xấu đi ở ung thư khoang miệng - 
hầu họng và ở những bệnh nhân bệnh giai đoạn tiến 
triển. Kết quả nhấn mạnh sự cần thiết quan trọng 
phải hỗ trợ cho bệnh nhân ung thư đầu cổ trong quá 
trình xạ trị. Đánh giá về tình trạng dinh dưỡng trong 
quá trình điều trị và can thiệp thay đổi chế độ dinh 
dưỡng kịp thời là yếu tố quan trọng và cần thiết 
trong việc chăm sóc bệnh nhân ung thư đầu cổ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Larsson M, Hedelin B, Johansson I, Athlin E 
(2005) “Eating problems and weight loss for 
patients with head and neck cancer: achart 
review from diagnosis until one year after 
treatment”. Cancer Nurs 28(6): 425 - 435. 
2. Munshi A, Pandey MB, DurgaT, PandeyCK, 
Bahadar S, Mohanti BK (2003) “Weight loss 
during radiotherapy for head and neck 
malignancies: what factors impact it?” Nutr 
Cancer 47(2):136 - 140. 
3. Unsal D, Mentes B, Akmansu M, Uner A, Oguz 
M, Pak Y (2006) “Evaluation of nutritional status 
in cancer patients receiving radiotherapy:a 
prospective study”. Am J Clin Oncol 29(2): 
183 - 188. 
4. EhrssonYT, Langius-EklöfA, LaurellG (2012) 
“Nutritional surveillance and weight loss in head 
and neck cancer patients”. Support Care Cancer 
20(4):757 - 765. 
5. Van Bokhorst- de van der Schuer, van Leeuwen 
PA, Kuik DJ, Klop WM, Sauerwein HP, Snow 
GB, Quak JJ (1999) “The impact of nutritional 
status on the prognoses of patients with 
advanced head and neck cancer”. Cancer 86(3): 
519 - 527. 
6. Bauer J, Capra S, Ferguson M (2002) “Use of 
the scored Patient Generated Subjective Global 
Assessment (PG-SGA) as a nutrition 
assessment tool in patients with cancer”. Eur J 
Clin Nutr 56(8): 779 - 785. 
7. National Health and Nutrition Examination 
Survey (NHANES) (2011) Anthropometry 
procedure manual. 
8. Radiation Therapy Oncology Group. Acute 
radiation morbidity scoring criteria 
 Associates/ 
Adverse Event Reporting/Acute Radiation 
Morbidity Scoring Criteria. aspx Accessed: 
22.03.2014. 
9. Leung JS, Seto A, LiGK (2017) “Association 
between preoperative nutritional status and 
postoperative outcome in head and neck cancer 
patients”. Nutr Cancer 69(3): 464 - 469. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 415 
ABSTRACT 
Assessment of nutritional status in head and neck cancer patients receiving radiotherapy 
Purpose: Evaluation of nutritional status and related factors in head and neck cancer patients receiving 
radiation therapy or chemoradiation therapy. 
Methods: This prospective observational study was by interviews and research tools on 50 patients 
diagnosed with head and neck cancer who received radiation therapy at the time before radiation therapy, 
immediately after radiation therapy and 1, 3 months after, adiation. The study was conducted at the Oncology 
Center, 103 Military Hospital, from June 2018 to March 2020. 
Results: Prior to treatment the majority of patients (92%) were well nourished according to PG-SGA, but at 
the end of radiation therapy up to 76% of patients were malnourished. Research has shown that radiation 
therapy reduces food consumption (> 50% compared to diet), anthropometric indices (weight, BMI, TSF, 
MUAC, MAMA) and blood serum biochemical indicators (protein, albumin) both decreased. The risk of 
malnutrition is worse in patients with cancer of the oral cavity - oropharynx; advanced disease stage; use of 
concomitant chemotherapy; underweight patients, without timely nutritional intervention. Organ toxicity such as 
oral mucosa, salivary glands, pharynx and esophagus worsened during radiation therapy, worst at the end of 
radiation therapy and gradual recovery from radiation. Radiation toxicity related to malnutrition. 
Conclusion: Radiation therapy in head and neck cancer patients has a negative impact on nutritional 
status. 
Keywords: Head and neck cancer, nutritional status, radiotherapy. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_tinh_trang_dinh_duong_o_benh_nhan_ung_thu_dau_co_di.pdf