Khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhi bị ungthư dựa vào một số yếu tố liên quan đến sức khoẻ tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh
Mục tiêu: Khảo sát chất lượng cuộc sống của BNUT dựa vào một số yếu tố liên quan đến sức khoẻ
tại BVUB TP.HCM.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 188 cha mẹ BN nhi có con bị UT đang điều trị tại
khoa Ung bướu Nhi BVUB năm 2020. Phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Sử dụng BCH để thu thập số
liệu. Thống kê mô tả và phân tích được sử dụng để phân tích số liệu.
Kết quả: CLCS BN đạt mức độ TB, điểm số cao nhất là yếu tố nhận thức thích nghi về tình trạng
bệnh điểm với = 50.7; kế đến là “Lo sợ các thủ thuật” 49 điểm, điểm bằng nhau tiếp theo “Lo sợ về điều
trị và lo lắng về tình trạng bệnh” 48.5 điểm, điểm Cronbach’s Alpha cao nhất là 0.84 điểm là “lo lắng về
tình trạng bệnh”. Có mối liên hệ CLCS giữa tuổi BN và tuổi cha mẹ BN với p = 0.0 (p < 0.05), r = 1 và r =
0.426**, tương quan mức độ mạnh; và thời gian điều trị bệnh với tái phát bệnh p = 0.0 (p < 0.05), r = 1 và r
= -0.6** tương quan mức độ mạnh ngược chiều; CLCS có sự khác nhau giữa tái phát và thời gian điều
trị, cao nhất điều trị > 3 năm CLCS 93.8 điểm, p = 0.0 (< 0.05); khác nhau phương pháp điều trị, cao nhất
là xạ trị 93.75 điểm và CLCS giữa thu nhập trung bình và nghề nghiệp của cha mẹ BN với p = 0.0 (< 0.05).
Mối liên quan giữa buồn nôn với các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống đều tương quan với
nhau và có p < 0.05; cao nhất “cảm giác đau” với r = 1, p = 0.0 mức độ mạnh và “Lo sợ các thủ thuật” p =
0.0, r = 0.45; “Lo lắng” r = 0.37, p = 0.0; “Nhận thức, thích nghi” r = 0.32, p = 0.0 mức độ trung bình; còn lại
tương quan thấp.
Kết luận: CLCS BN đạt mức độ TB. Có mối liên hệ CLCS giữa tuổi BN và tuổi cha mẹ BN. CLCS
có sự khác nhau giữa tái phát và thời gian điều trị, cao nhất điều trị > 3 năm, khác nhau phương pháp
điều trị, CLCS có sự khác nhau giữa tái phát và thời gian điều trị. Mối liên quan giữa buồn nôn với các
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống đều tương quan với nhau.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhi bị ungthư dựa vào một số yếu tố liên quan đến sức khoẻ tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 452 KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHI BỊ UNGTHƯ DỰA VÀO MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỨC KHOẺ TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU TP. HỒ CHÍ MINH ĐẶNG THỊ THU TRÂM1, HOÀNG THỊ MỘNG HUYỀN1, PHẠM MINH THANH1, NGUYỄN THỊ THU VÂN2, NGUYỄN THỊ THU HÀ2 Địa chỉ liên hệ: Đặng Thị Thu Trâm Email: tramddt71@gmail.com Ngày nhận bài: 02/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 Phòng Điều dưỡng - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 2 Khoa Ung Bướu Nhi - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh ung thư (UT) ở trẻ em (TE) tăng đến mức báo động, hằng năm trên thế giới dao động khoảng 50-200/1.000.000 trẻ dưới 15 tuổi, 90-300/1.000.000 trẻ dưới 19 tuổi[1]. Tại Việt Nam, cũng có tới 4.200 trường hợp UT nhi mắc mới/ năm, tăng nhanh ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, tỉ lệ UT trẻ nhỏ hơn 5 tuổi gấp 2 lần trẻ từ 6 – 15 tuổi[2]. Hiện nay 80% tỷ lệ sống còn trên 5 năm của bệnh nhi (BN) UT cải thiện đáng kể so với trước đây là 30%[1]. Các phương pháp điều trị phổ biến như phẫu thuật, xạ trị, hóa trị liệu, dù là giảm nhẹ hay chữa bệnh, đều có TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát chất lượng cuộc sống của BNUT dựa vào một số yếu tố liên quan đến sức khoẻ tại BVUB TP.HCM. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 188 cha mẹ BN nhi có con bị UT đang điều trị tại khoa Ung bướu Nhi BVUB năm 2020. Phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Sử dụng BCH để thu thập số liệu. Thống kê mô tả và phân tích được sử dụng để phân tích số liệu. Kết quả: CLCS BN đạt mức độ TB, điểm số cao nhất là yếu tố nhận thức thích nghi về tình trạng bệnh điểm với = 50.7; kế đến là “Lo sợ các thủ thuật” 49 điểm, điểm bằng nhau tiếp theo “Lo sợ về điều trị và lo lắng về tình trạng bệnh” 48.5 điểm, điểm Cronbach’s Alpha cao nhất là 0.84 điểm là “lo lắng về tình trạng bệnh”. Có mối liên hệ CLCS giữa tuổi BN và tuổi cha mẹ BN với p = 0.0 (p < 0.05), r = 1 và r = 0.426**, tương quan mức độ mạnh; và thời gian điều trị bệnh với tái phát bệnh p = 0.0 (p < 0.05), r = 1 và r = -0.6** tương quan mức độ mạnh ngược chiều; CLCS có sự khác nhau giữa tái phát và thời gian điều trị, cao nhất điều trị > 3 năm CLCS 93.8 điểm, p = 0.0 (< 0.05); khác nhau phương pháp điều trị, cao nhất là xạ trị 93.75 điểm và CLCS giữa thu nhập trung bình và nghề nghiệp của cha mẹ BN với p = 0.0 (< 0.05). Mối liên quan giữa buồn nôn với các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống đều tương quan với nhau và có p < 0.05; cao nhất “cảm giác đau” với r = 1, p = 0.0 mức độ mạnh và “Lo sợ các thủ thuật” p = 0.0, r = 0.45; “Lo lắng” r = 0.37, p = 0.0; “Nhận thức, thích nghi” r = 0.32, p = 0.0 mức độ trung bình; còn lại tương quan thấp. Kết luận: CLCS BN đạt mức độ TB. Có mối liên hệ CLCS giữa tuổi BN và tuổi cha mẹ BN. CLCS có sự khác nhau giữa tái phát và thời gian điều trị, cao nhất điều trị > 3 năm, khác nhau phương pháp điều trị, CLCS có sự khác nhau giữa tái phát và thời gian điều trị. Mối liên quan giữa buồn nôn với các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống đều tương quan với nhau. Từ khóa: Chất lượng cuộc sống bệnh nhi ung thư. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 453 thể có tác dụng phụ ảnh hưởng chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (CLCSK) của trẻ. Do đó, mong muốn cải thiện CLCSK của trẻ được coi như một phần quan trọng trong chiến lược điều trị, chăm sóc UT hiện nay, là mối quan tâm của toàn thế giới[3]. Đặc biệt BN UT có thể gặp nhiều vấn đề liên quan đến thể chất, tinh thần và cảm xúc khiến cho CLCSK của các trẻ bị ảnh hưởng như: mệt mỏi, mất ngủ, rối loạn nuốt, ăn không ngon[4], rối loạn cảm xúc, đau khổ, trầm cảm[5], đau đớn[6] và nhiều vấn đề khác. Những trẻ sống sót có thể gặp một số tác dụng phụ lâu dài từ khối u và cách điều trị[7-10]. Điều trị BN UT phải tính đến sự phát triển liên tục về thể chất, cảm xúc, xã hội, sức khỏe, tâm lý và nhận thức trong thời thơ ấu, thanh thiếu niên của trẻ là một yêu cầu thiết yếu theo định nghĩa về sức khỏe và hạnh phúc của WHO “Người bệnh sống không phải chỉ là sống sót tồn tại, mà phải là sống có ý nghĩa, có hạnh phúc ở mức độ tốt nhất có thể được”[11]. Vì vậy, để hỗ trợ cho việc điều trị có hiệu quả sống còn, đem lại CLCSK cho BN. Tại Khoa Ung Bướu Nhi bệnh viện Ung Bướu (BVUB), hiện chưa có NC về vấn đề này nên chúng tôi NC “Khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhi ung thư dựa vào một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh”. Mục đích cung cấp cho các bác sĩ những thông tin đa chiều về tình trạng của BN, những tác dụng không mong muốn có thể gặp phải trong và sau điều trị, chỉ số của BN về CLCSK nhất là những BN có tỷ lệ sống sau 5 năm và những yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ BN để đánh giá hiệu quả điều trị, chăm sóc. Từ đó, nhân viên y tế lập kế hoạch chăm sóc BN có các tác dụng phụ không mong muốn đó, giúp BN phục hồi chức năng tốt hơn, đem lại kết quả tốt hơn, tăng thêm CLCSK để cha mẹ và BN nhi được an tâm điều trị. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1. Khảo sát 1 số đặc điểm nhân khẩu học của bệnh nhi và cha mẹ tại khoa Ung Bướu Nhi, BVUB. 2. Khảo sát mối tương quan giữa một số yếu tố liên quan với tình trạng bệnh làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống bệnh nhi tại khoa Ung Bướu Nhi, BVUB. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu BN và Cha mẹ của BN bị mắc bệnh UT đang điều trị tại khoa Ung Bướu Nhi BVUB TP HCM từ 01/4/2020 đến 15/10/2020. Tiêu chuẩn chọn mẫu BN nhi trong độ tuổi từ 2 đến 15 tuổi, đã được chẩn đoán xác định UT, đang điều trị nội trú và ngoại trú tại khoa trong thời gian 01/4/2020 đến 30/9/2020. Hóa trị 1 lần tại khoa Ung Bướu Nhi, BVUB và không bị UT não. Cha mẹ có con trong độ tuồi từ 2 đến 15 tuổi, được chẩn đoán ... Naoko Tsuji (2011) trẻ được điều trị hơn 12 tháng cao nhất 50.6%[14]. Phân bố các loại bệnh Trẻ bị UT tỉ lệ cao nhất là bệnh bạch cầu chiếm 43%, NC chúng tôi tương đồng với nhiều NC như Turk J Haematol (2016) 60%[16]; Yi Ji, 1 Siyuan Chen (2011) 61.3%; Naoko Tsuji (2011) 76.8%[16], điều này cho thấy NC chúng tôi đúng theo y văn thế giới, bệnh bạch cầu chiếm cao nhất trong các loại UT TE trên thế giới. Thông tin chung của cha mẹ BN Giới tính cha mẹ BN Chủ yếu là nữ chiếm 65%, thấp hơn NC của Turk J Haematol (2016) 86%[16]; Naoko Tsuji (2011) 93.9%[14] và Ana C Scarpelli (2008) 77.9%[15]. Tuổi cha mẹ BN Tuổi của cha mẹ BN nhi SD = 7.4, NC chúng tôi tương đồng NC của Ana C Scarpelli (2008) 77.9% SD = 9,6[15]. Nơi cư trú Kết quả NC của chúng tôi cho thấy 84.6% cha mẹ BN nhi cư trú là ở tỉnh khác. Điều này hoàn toàn hợp lý vì BVUB TP. HCM nhận điều trị tất cả các bệnh UT ở các tỉnh phía Nam, Việt Nam. Trình độ học vấn Cha mẹ BN nhi có trình độ trung học cấp 2 cao nhất 39.4% NC Ana C Scarpelli (2008) 53.6%[15], khác NC của Naoko Tsuji (2011) trình độ cha mẹ là cấp 3 cao nhất 35.5%[14]. Trong công tác chăm sóc và giáo dục sức khoẻ cần chú trọng đến trình độ học vấn, hiểu biết của cha mẹ BN, để việc cung cấp thông tin, kiến thức đạt hiệu quả cao. Nghề nghiệp của cha mẹ BN Nghề nghiệp chiếm tỉ lệ cao nhất là nội trợ/ thất nghiệp 37.2%. NC của chúng tôi cho thấy mức độ ảnh hưởng đến việc điều trị cho trẻ do công việc của cha mẹ BN nhi thu nhập không ổn định, ảnh hưởng đến CLCSK của trẻ. Thu nhập trung bình của cha mẹ BN Thu nhập trung bình của cha mẹ BN nhi 1.25 ± 0.5; cao nhất 54.8% thu nhập ≤ 3 triệu; thấp nhất 3.7% thu nhập >9 triệu, điều này cũng đúng so với trình độ học vấn và nơi cư trú của cha mẹ BN, đa số là ở tỉnh làm nghề lao động phổ thông và nội trợ nên thu nhập thấp sẽ ảnh hưởng đến việc điều trị của trẻ, NC tôi cho thấy cha mẹ thu nhập từ ≤ 3 triệu đến ≤ 6 triệu tổng cộng đến 89.9%, 2 mức này chỉ thấp đến đủ sống, NC chúng tôi tương đồng NC của Dương Thị Thùy Trang (2017) bà mẹ BN có khó khăn về kinh tế 84,3%[18]; của Naoko Tsuji (2011) gia đình có kinh tế thu nhập thấp nhất 51%[14] vì hầu hết các bà mẹ phải nghỉ việc để chăm sóc con; Ana C Scarpelli (2008) 53.6%[15] và Varni (2002) tình trạng kinh tế xã hội ở mức TB thấp[12]. Những yếu tố liên quan đến tình trạng bệnh của BN ảnh hưởng đến CLCS Điểm TB các yếu tố liên quan đến CLCS đa số ở mức TB thấp, một số ít mức TB. Điểm số cao nhất là yếu tố nhận thức thích nghi về tình trạng bệnh điểm 50.7; kế đến là “Lo sợ các thủ thuật” 49 điểm; điểm bằng nhau tiếp theo “lo sợ về điều trị và lo lắng về tình trạng bệnh” 48.5 điểm; NC chúng tôi khác NC của Naoko Tsuji (2011) điểm cao nhất là “lo lắng về điều trị” 93.14 điểm, kế đến là “đau’ 84.72 điểm, tiếp theo là “nôn, buồn nôn” 82.96 điểm và khác NC Varni vấn đề “lo lắng về điều trị” cao điểm Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 460 nhất 82.19 điểm, kế đến là “đau” 76.20 điểm, tiếp theo là “nôn” 75.81 điểm[12]; khác NC Michelle Darezzo Rodrigues (2017) điểm TB cao nhất là “nhận thức ngoại hình” 70.1[17]. Theo thang đo của Varni, điểm số cao CLCSK BN sẽ ở mức cao và ngược lại, do đó dựa vào câu phủ định của BCH, kết quả NC chúng tôi đa số BN có CLCSK TB cao, cao hơn NC của Varni (2002) đa số ở mức thấp với số điểm 82.19[13]; NC của Naoko Tsuji (2011) ở mức thấp nhất, số điểm 93.14 là yếu tố lo lắng về điều trị[14]. Các yếu tố ảnh hưởng và mối tương quan giữa một số yếu tố ảnh hưởng đến CLCS trẻ Điểm TB về vấn đề “nhận thức thích nghi với tình trạng bệnh” là cao nhất 50.7 điểm, chứng tỏ trẻ khi bị bệnh phải thích nghi với tình trạng bệnh của mình. NC chúng tôi khác NC của Michelle Darezzo Rodrigues (2017) yếu tố đau, lo sợ các thủ thuật, lo sợ về điều trị cao điểm nhất cùng là 100 điểm[17]. Các yếu tố ảnh hưởng đều tương quan với nhau và p = 0.0 (p < 0.05), ngoại trừ nhận thức, thích nghi và lo sợ về điều trị không tương quan các yếu tố còn lại. NC chúng tôi tương đồng NC của Ana C Scarpelli (2008) về “buồn nôn”, “lo sợ các thủ thuật” đều có p < 0.05[15]; tương đồng NC Michelle Darezzo Rodrigues (2017) cùng có các yếu tố ảnh hưởng tương quan nhau p = 0.0 và có điểm khác nhận thức về ngoại hình không tương quan[17]. NC chúng tôi điểm Cronbach’s Alpha cao nhất là 0.84 điểm là “lo lắng về tình trạng bệnh” bằng điểm NC của Yi Ji, 1 Siyuan Chen (2011) là “đau” 0.84 điểm[19]; điểm Cronbach’s Alpha cao hơn điểm Ana C Scarpelli (2008) 0.72 điểm “lo sợ về điều trị”[15]; và thấp hơn NC của Naoko Tsuji (2011) là “nôn” 0.88 điểm[14]. Mối tương quan CLCS giữa tuổi BN với giới tính BN; tuổi BN với tuổi cha mẹ; nghề nghiệp cha mẹ, với thu nhập trung bình; phương pháp điều trị với thời gian điều trị Kết quả có mối liên hệ CLCS giữa tuổi BN và tuổi cha mẹ BN với p = 0.0 (p < 0.05), r = 1 và r = 0.426**, tương quan mức độ mạnh; và thời gian điều trị bệnh với tái phát bệnh p = 0.0 (p < 0.05), r = 1 và r = -0.6** tương quan mức độ mạnh ngược chiều. NC chúng tôi tương đồng NC Ana C Scarpelli (2008) có p = 0.001, r = 0.7[19] tương quan mức độ mạnh[15]; Không có mối liên hệ về CLCS giữa nghề nghiệp cha mẹ với thu nhập trung bình trong tháng p = 0.73 (p >0.05). Một số yếu tố liên quan chất lượng cuộc sống của BN Kết quả cho thấy về CLCS không có sự khác biết giữa tái phát bệnh, các loại bệnh UT p = 0.7 (>0.05); và giữa thu nhập trung bình p = 0.3 (>0.05); tình trạng hôn nhân p = 0.18 (>0.05); CLCS có sự khác nhau giữa tái phát và thời gian điều trị, cao nhất điều trị >3 năm CLCS 93.8 điểm, p = 0.0 (<0.05); khác nhau phương pháp điều trị, cao nhất là xạ trị 93.75 điểm và CLCS giữa thu nhập trung bình và nghề nghiệp của cha mẹ BN với p = 0.0 (<0.05). KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận Qua khảo sát CLCS BN có 188 cha mẹ có con đang điều trị hoá trị tại BVUB TP. HCM từ 01/04/2020 - 30/9/2020, chúng tôi rút ra những kết luận sau: CLCS BN đạt mức độ TB 50.7 điểm, SD = 23.8; có mối liên hệ CLCS giữa tuổi BN và tuổi cha mẹ BN p = 0.0; giữa tái phát và thời gian điều trị p = 0.0; khác nhau phương pháp điều trị. Các yếu tố ảnh hưởng: đau, buồn nôn, lo sợ thủ thuật, lo lắng và giao tiếp đều tương quan với nhau với r = 1, p = 0.0, ngoại trừ nhận thức, thích nghi và lo sợ về điều trị không tương quan các yếu tố còn lại. So sánh CLCS thấy có sự khác nhau giữa tái phát và thời gian điều trị, cao nhất điều trị >3 năm CLCS 93.8 điểm. Kiến nghị BV cần tăng cường hơn nữa các chương trình đào tạo thường xuyên cho ĐD về chăm sóc và theo dõi BN hóa trị, ĐD cập nhật kiến thức thêm và đánh giá được những yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng bệnh, từ đó công tác theo dõi và điều trị BN cho BN tốt hơn, CLCSK của BN tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Minh Kim, Ngô Thị Thanh Thủy (2018), "Tình hình điều trị ung thư trẻ em tại khoa Nội 3 bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí ung thư học Việt Nam, số 5, pp. 25 - 27. 2. Phạm Thị Việt Hương (2014), "Những dấu hiệu mắc ung thư bố mẹ cần lưu ý", nhà xuất bản y học. 3. FACIT-Functional Assessment of Chronic Illness Therapy (This page was last edited on 15 April 2020, at 05:31 (UTC)), FACT-G: Functional Assessment of Cancer Therapy - General Illinois, truy cập ngày 26/04/2020. 4. C. S. Pierre và các cộng sự (2014), "Long-term functional outcomes and quality of life after Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 461 oncologic surgery and microvascular reconstruction in patients with oral or oropharyngeal cancer", Acta Otolaryngol. 134 (10), tr. 1086 - 93. 5. C. C. Hsieh và các cộng sự (2014), "The correlations of sexual activity, sleep problems, emotional distress, attachment styles with quality of life: comparison between gynaecological cancer survivors and noncancer women", J Clin Nurs. 23(7-8), tr. 985 - 94. 6. Bayram, Z. Durna và S. Akin (2014), "Quality of life during chemotherapy and satisfaction with nursing care in Turkish breast cancer patients", Eur J Cancer Care (Engl). 23(5), tr. 675 - 84. 7. Weintraub N, Rot I, Shoshani N, Pe'Er J, Weintraub M (2011). Participation in daily activities and quality of life in survivors of retinoblastoma. Pediatr Blood Cancer; 56(4): 590 - 594. doi: 10.1002/pbc.22790. 8. Gurney JG, Tersak JM, Ness KK, Landier W, Matthay KK, Schmidt ML (2007). Hearing loss, quality of life, and academic problems in long- term neuroblastoma survivors: a report from the Children's Oncology Group. Pediatrics. ; 120(5): e1229 - e1236. doi: 10.1542/peds. 2007 - 0178. 9. Barr RD, Chalmers D, De Pauw S, Furlong W, Weitzman S, Feeny D (2000); Health-related quality of life in survivors of Wilms' tumor and advanced neuroblastoma: aA cross-sectional study. J Clin Oncol; 18(18):3280 - 3287. 10. Nathan PC, Ness KK, Greenberg ML, Hudson M, Wolden S, Davidoff A, Laverdiere C, Mertens A, Whitton J, Robison LL (2007); “Health-related quality of life in adult survivors of childhood Wilms tumor or neuroblastoma”; A report from the childhood cancer survivor study. Pediatr Blood Cancer;49(5):704 - 715. doi: 10.1002/pbc.20949. 11. Grad FP (2002); “The Preamble of the Constitution of the World Health Organizatio”. Bull World Health Organ; 80(12):981 - 984. 12. Turk J Haematol (2016 Sep); “Reliability and validity of the turkish version of the PedsQL 3.0 cancer module for 2 to 7 year - old the pedsql 4.0 generric core scales for 5-to 7 year old”; the hacettepe unversity experience; 19.doi: 10.4274/tjh.2015.0242; 33(3): 236 - 243. 13. James W Varni và các cộng sự (2002 Apr 1); “The PedsQL in Pediatric Cancer: Reliability and Validity of the Pediatric Quality of Life Inventory Generic Core Scales, Multidimensional Fatigue Scale, and Cancer Module”; American Cancer Society; Doi: 10.1002/cncr.10428 14. Đỗ Minh Phượng (2014), "Các yếu tố liên quan đến nhận thức của bà mẹ về chất lương cuộc sống liên quan đến sức khoẻ của trẻ mẫu giáo mắc bệnh Bạch Cầu cấp dòng Lymphô tại việt Nam", Đề cương nghiên cứu ra trường bậc học thạc sĩ, trường Đại học Burapha Thái Lan. 15. Udith A Owens và các cộng sự (2000); “The Children’s Sleep Habits Questionnaire (CSHQ): Psychometric Properties of A Survey Instrument for School-Aged Children”; Children’s Sleep Habits Questionnaire; Sleep, Vol. 23, No. 8. 16. Besodovsky, L., Lange, T và cộng sự (2012); “Sleep and immune function”; Pflugers Archiv; 463(1), 121-137. Doi: 10.1007/s00424 - 011 - 1044 - 0. 17. Fayers PM, Machin D. Quality of life the assessment, analysis and interpretation of patient-reported outcomes. 2° Chichester, England: Jonh Wiley & Sons; 2007. p. 566 18. BC Cancer Agency, Symptom Management Fatigue/Tiredness, 2017. 19. Lenz E. R., Pugh L. C., Milligan R. A., et al. (1997), "The middle-range theory of unpleasant symptoms: an update", Advances in Nursing science, 14 (3), pp. 19 - 27. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 462 ABSTRACT Survey on quality of life for pediatric cancer patiens based on some factors related to health in the Ho Chi Minh Oncology Hospital Objective: Survey on the quality of life of cancer patients based on a number of health-related factors at Ho Chi Minh City Oncology Hospital. Method: A cross - sectional study conducted on 188 pediatric patients’ parents whose children have cancer are being treated in the Department of Pediatric Oncology at Oncology Hospital in 2020. The sampling method is convenient. Using BCH likes a way to collect data. The descriptive statistics and analysis were used for data analysis. Results: Patient's quality of life reached a moderate level, the highest score was the adaptive cognitive factor of the disease with an score of 50.7; followed by "Fear of tricks" with 49 score. The next equal score was “Fear of treatment and anxiety about the condition” with 48.5 points, and Cronbach's Alpha's highest score is 0.84 score for the problem of "health anxiety". There is a quality of life relationship between patient's age and parents' age with p = 0.0 (p < 0.05), r = 1 và r = 0.426**, strongly correlated; Duration of disease treatment with relapse is p = 0.0 (p <0.05), r = 1 và r = -0.6** correlation of strength in the opposite direction. The quality of life has the differences between recurrence and duration of treatment, and the longest time for treatment was over 3 years with a quality of life as 93.8 score, p = 0.0 (<0.05). There are also differences in treatment methods that radiation therapy stood at the highest position with 93.75 score, while the quality of life between the average income and the occupation of the patient's parents is p = 0.0 (<0.05). The relationship between nausea and the factors that affect the quality of life are correlated with p < 0.05. “Feeling pain" places the first position with r = 1, p = 0.0 at a strong level; "Fear of tricks" with p = 0.0, r = 0.45; “Worry” with r = 0.37, p = 0.0; “Awareness and adaptation” with ” r = 0.32, p = 0.0 is at a moderate level; the remaining correlation is low. Conclusion/implication: Patient's quality of life reached a moderate level. There is a quality of life relationship between patient's age and parents' age. The quality of life has the differences between recurrence and duration of treatment with the longest period of time of treatment last more than 3 years. The relationship between nausea and the factors that affect the quality of life are correlated. Keyword: Quality of life for pediatric cancer patients.
File đính kèm:
- khao_sat_chat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhi_bi_ungthu_dua_vao.pdf