Khả năng chịu acid, kháng và hấp thụ nhôm của nấm mốc phân lập từ đất trồng chè vùng Tân Cương, Thái Nguyên
Từ các mẫu đất trồng chè vùng Tân Cương, Thái Nguyên, 16 chủng nấm mốc có khả
năng chịu acid và kháng nhôm đã được phân lập trên môi trường Hansen thạch đĩa (pH 3,0) chứa
nhôm với nồng độ 100 mgL-1. Trong đó, hai chủng nấm mốc ký hiệu F8 và F13 có thể phát triển
tốt trên môi trường Hansen thạch đĩa (pH 3,0) chứa nhôm với nồng độ lên đến 700 mgL-1. Các
phân tích về đặc điểm hình thái và trình tự nucleotide của các gen 28S rDNA đã chỉ ra rằng chủng
F8 thuộc loài Eupenicillium javanicum và chủng F13 thuộc loài Penicillium variabile. Các khảo
sát tiếp theo đã cho thấy cả hai chủng nấm mốc F8 và F13 có thể phát triển tốt trong môi trường
Hansen dịch thể chứa nhôm với nồng độ 100 mgL-1 tại các giá trị pH từ 2,2-5,0 và với nồng độ
500-2.000 mgL-1 tại pH 2,4. Sau 7 ngày nuôi cấy trên máy lắc ổn nhiệt tại 30oC, 150 vòng/phút,
hiệu suất hấp thụ nhôm từ môi trường Hansen dịch thể chứa nhôm với nồng độ 2.000 mgL-1 (pH
2,4) của chủng F8 đạt 92,06% và chủng F13 đạt 86,88%. Vì vậy, hai chủng Eupenicillium
javanicum F8 và Penicillium variabile F13 được cho là có tiềm năng trong cải thiện đất trồng chè
bị acid hoá thông qua việc giảm thiểu hàm lượng nhôm linh động trong đất, đảm bảo năng suất
cũng như chất lượng của sản phẩm chè.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khả năng chịu acid, kháng và hấp thụ nhôm của nấm mốc phân lập từ đất trồng chè vùng Tân Cương, Thái Nguyên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 109-115 109 Khả năng chịu acid, kháng và hấp thụ nhôm của nấm mốc phân lập từ đất trồng chè vùng Tân Cương, Thái Nguyên Ngô Thị Tường Châu1,*, Nguyễn Thị Mai Lương2, Phùng Thị Ngọc Mai1, Đào Văn Huy3, Lê Văn Thiện1 1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam 2Trường Đại học Lâm Nghiệp, Xuân Mai, Chương Mỹ, Hà Nội, Việt Nam 3Viện Đảm bảo Chất lượng Giáo dục, ĐHQGHN, 144 Xuân Thuỷ, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 31 tháng 10 năm 2018 Chỉnh sửa ngày 13 tháng 12 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 12 năm 2018 Tóm tắt: Từ các mẫu đất trồng chè vùng Tân Cương, Thái Nguyên, 16 chủng nấm mốc có khả năng chịu acid và kháng nhôm đã được phân lập trên môi trường Hansen thạch đĩa (pH 3,0) chứa nhôm với nồng độ 100 mgL-1. Trong đó, hai chủng nấm mốc ký hiệu F8 và F13 có thể phát triển tốt trên môi trường Hansen thạch đĩa (pH 3,0) chứa nhôm với nồng độ lên đến 700 mgL-1. Các phân tích về đặc điểm hình thái và trình tự nucleotide của các gen 28S rDNA đã chỉ ra rằng chủng F8 thuộc loài Eupenicillium javanicum và chủng F13 thuộc loài Penicillium variabile. Các khảo sát tiếp theo đã cho thấy cả hai chủng nấm mốc F8 và F13 có thể phát triển tốt trong môi trường Hansen dịch thể chứa nhôm với nồng độ 100 mgL-1 tại các giá trị pH từ 2,2-5,0 và với nồng độ 500-2.000 mgL-1 tại pH 2,4. Sau 7 ngày nuôi cấy trên máy lắc ổn nhiệt tại 30oC, 150 vòng/phút, hiệu suất hấp thụ nhôm từ môi trường Hansen dịch thể chứa nhôm với nồng độ 2.000 mgL-1 (pH 2,4) của chủng F8 đạt 92,06% và chủng F13 đạt 86,88%. Vì vậy, hai chủng Eupenicillium javanicum F8 và Penicillium variabile F13 được cho là có tiềm năng trong cải thiện đất trồng chè bị acid hoá thông qua việc giảm thiểu hàm lượng nhôm linh động trong đất, đảm bảo năng suất cũng như chất lượng của sản phẩm chè. Từ khoá: Đất acid, đất trồng chè, nấm mốc chịu acid, nấm mốc kháng nhôm, hấp thụ nhôm. 1. Đặt vấn đề Chè xanh (Camellia sinensis) là loại cây ưa đaṃ, vì vậy trong quá trình canh tác, một lươṇg ________ Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-917691012. Email: ngotuongchau@hus.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4319 lớn phân đạm (đặc biệt là ammonium sulfate) đã được bón vào trong đất trồng chè nhằm tăng hàm lươṇg amino acid trong lá chè, đồng thời tạo màu sắc hấp dẫn và hương vị đậm đà của sản phẩm chè. Khi cây chè hấp thu ̣một lươṇg lớn ammonium, sulfate được tích tu ̣ trong đất. Ngoài ra, ammonium được bón vào đất trồng chè nhanh chóng bị chuyển đổi thành nitrate bởi N.T.T. Châu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 109-115 110 vi khuẩn nitrate hóa tư ̣dưỡng có khả năng chiụ acid [1]. Hậu quả là một lươṇg đáng kể nitrate và sulfate được tích luỹ dần trong đất trồng chè [2], làm pH đất giảm xuống còn 4,0 hoặc thậm chi ́ thấp hơn, từ đó làm tăng hàm lượng nhôm linh động trong đất trồng chè [3]. Trong điều kiện này, cây chè được cho là hấp thụ một lượng nhôm đáng kể, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người tiêu dùng (như bệnh yếu thận) [4]. Ngoài ra, hàm lượng nhôm cao trong cơ thể người được giả thuyết là có mối liên quan với nhiều bệnh khác nhau, như chứng mất trí não, xơ não, gãy xương và bệnh Alzheimer [5-7]. Là một thành phần quan trọng của môi trường đất, vi sinh vật đất chắc chắn bị ảnh hưởng bởi độc tính nhôm [8]. Tuy vậy một số vi sinh vật vẫn có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện khắc nghiệt này nhờ các cơ chế kháng và hấp thụ kim loại của chúng. Vì vậy không thể phủ nhận rằng việc phân lập và nghiên cứu đặc tính của vi sinh vật chịu acid và kháng nhôm cao là tiền đề cho biện pháp phục hồi sinh học đất trồng chè. Đến nay, đã có một số chủng vi sinh vật chịu acid và kháng nhôm cao đã được phân lập [9-12]. Trên thực tế, khả năng kháng nhôm của vi sinh vật liên quan chặt chẽ với môi trường sống của nó [12]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi báo cáo về khả năng chịu acid, kháng và hấp thụ nhôm của hai chủng nấm mốc Eupenicillium javanicum F8 và Penicillium variabile F13 phân lập từ đất trồng chè vùng Tân Cương, Thái Nguyên, Việt Nam. 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu - Đất trồng chè taị hai thôn Soi Vàng và Hồng Thái, xã Tân Cương, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Các mẫu đất thu taị các địa điểm khác nhau với các đặc điểm đươc̣ triǹh bày trong bảng 1. - Các chủng nấm mốc chiụ acid, kháng và hấp thụ nhôm được phân lập từ các mẫu đất nói trên. Bảng 1. Bảng ký hiệu mẫu đất TT Ký hiệu mẫu đất Đặc điểm 1 MĐ1 Là loaị đất thiṭ pha cát đươc̣ thu từ vùng đất trồng chè đã canh tác 30- 40 năm taị thôn Soi Vàng. 2 MĐ2 Là loại đất sỏi cơm đươc̣ thu từ vùng đất trồng chè đã canh tác đươc̣ 3 năm taị thôn Hồng Thái. 3 MĐ3 Là loại đất sỏi cơm đươc̣ thu từ vùng đất trồng chè đa ̃ canh tác đươc̣ trên 10 năm taị thôn Hồng Thái. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu mẫu và xử lý mẫu: Mâũ đất được lấy theo phương pháp lấy mẫu hỗn hơp̣ tại tầng mặt có độ sâu 0-20 cm (TCVN 7538-2:2005). Mỗi mẫu đất hỗn hơp̣ gồm 10 mẫu đất riêng biệt trộn đều với nhau cho đến khi mẫu cuối cùng đaṭ khối lươṇg khoảng 1 kg/mẫu. Mẫu sau khi thu về đươc̣ rây qua rây 2 mm để loại bỏ sỏi, đá, xỉ và các tap̣ chất sau đó đươc̣ chứa trong túi zip kiń, dán nhãn và bảo quản ở 4oC. Phương pháp xác điṇh một số tính chất đất: Giá trị pH (H2O) được xác định bằng máy đo pH và chiết mẫu với tỉ lệ đất: nước cất là 1:2,5 (theo TCVN 5979:2007). Độ ẩm được xác định bằng phương pháp trọng lượng (theo TCVN 6648:2000). Hàm lươṇg C tổng số được xác định t ... được chuẩn bị theo phương pháp của Kanazawa và Kunito (1996) [13]. Sau 3 ngày nuôi cấy ở 30oC, chọn các khuẩn lạc riêng biệt có hình thái đặc trưng, cấy sang các đĩa thạch như trên với các nồng độ nhôm tăng dần (300, 500, 700 mgL-1) và tiếp tục nuôi cấy ở điều kiện này. Sau đó, tuyển chọn các chủng nấm mốc có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt (đánh giá thông qua kích thước khuẩn lạc) ở nồng độ nhôm cao nhất, cấy truyền sang các ống thac̣h nghiêng chứa môi trường Hansen để giữ giống. Phương pháp định danh các chủng nấm mốc: Các chủng nấm mốc được điṇh danh dưạ vào các đặc điểm về hình thái (khuẩn lac̣ và tế bào) và đặc điểm di truyền (trình tư ̣nucleotide của đoạn gen 28S rRNA). Phương pháp nghiên cứu khả năng chiụ acid của cácchủng nấm mốc: Chuẩn bi ̣ các bình tam giác thể tích 250 mL chứa 100 mL môi trường Hansen dịch thể với nồng độ nhôm 100 ppm, pH được điều chỉnh ở các mức từ 2,2 đến 3,0. Bố trí thêm một bình với pH 5,0 (pH tối ưu của nấm mốc) để đối chứng. Giống được cấy chuyển từ các ống thac̣h nghiêng vào các bình, nuôi cấy trên máy lắc ổn nhiệt (New Brunswick, Innova 44R, Eppendorf, Germany) ở 30oC, 150 vòng/phút. Sau 5 ngày nuôi cấy, ly tâm dic̣h thể với tốc độ 3.000 vòng/phút trong 15 phút rồi loc̣ thu sinh khối. Đánh giá khả năng chịu acid của các chủng nấm mốc thông qua sinh khối thu được. Phương pháp nghiên cứu khả năng hấp thu ̣nhôm của các chủng nấm mốc: Chuẩn bi ̣ các bình tam giác thể tích 250 mL chứa 100 mL môi trường Hansen dic̣h thể (pH 3,0) với nồng độ nhôm từ 100 đến 2000 ppm. Giống được cấy chuyển từ các ống thac̣h nghiêng vào các biǹh, nuôi cấy trên máy lắc ổn nhiệt (New Brunswick, Innova 44R, Eppendorf, Germany) ở 30oC, 150 vòng/phút. Sau 5 ngày nuôi cấy, ly tâm dic̣h thể với tốc độ 3.000 vòng/phút trong 15 phút, lọc để tách sinh khối và dịch lọc. Dịch qua lọc tiếp tục được qua màng lọc vô trùng có kích thước lỗ 0,25 μm. Đánh giá khả năng kháng nhôm dựa vào sinh khối thu được và khả năng hấp thụ nhôm dựa vào nồng độ nhôm còn lại trong dịch sau nuôi cấy mà được xác định bằng phương pháp quang phổ phát xa ̣ nguyên tử (ICP- OES OPTIMA 7300V). 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 3.1. Một số tính chất cơ bản của đất trồng chè vùng Tân Cương, Thái Nguyên Cây chè được trồng trên đất có giá trị pH trong khoảng 4,5 – 5,5 được xem là tốt nhất cho việc đồng hoá các chất dinh dưỡng [14]. Ở đây, các mẫu đất có pH dao động trong khoảng 3,46 – 4,29. Mẫu MĐ1 có giá trị pH thích hơp̣ hơn cho việc trồng chè, trong khi đó các mẫu MĐ2 và MĐ3 có các giá trị pH tương đối thấp. Bên cạnh đó, các mẫu đất (thu vào tháng 2/2018) có độ ẩm trung bình 27,7 – 28,0%. Đây là khoảng độ ẩm thićh hơp̣ cho sư ̣phát triển của cây chè. Ngoài ra, hàm lươṇg C tổng số của các mẫu đất dao động trong khoảng 1,07 – 1,37% và hàm lươṇg N tổng số chênh lệch khá lớn (0,11 – 0,3%). Hàm lươṇg nhôm tổng số có sự biến động đáng kể giữa các mẫu đất. Số lượng vi sinh vật tổng số của mẫu MĐ2 là cao hơn so với các mẫu đất còn lại. Điều này có thể là do sự khác nhau về loại đất và thời gian canh tác của các mẫu đất nghiên cứu. Bảng 2. Một số tính chất cơ bản của các mẫu đất nghiên cứu Ký hiệu mẫu pH (H2O) Độ ẩm (%) Tổng C (%) Tổng N (%) Nhôm tổng số (mgKg-1) Số lượng vi sinh vật tổng số (CFUg-1) MĐ1 4,3 27,7 1,37 0,20 73,5 6,30 105 MĐ2 3,7 28,0 1,07 0,11 97,4 1,33 107 MĐ3 3,5 28,0 1,17 0,30 38,6 1,23 105 N.T.T. Châu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 109-115 112 3.2. Kết quả phân lập và tuyển chọn các chủng nấm mốc chịu acid và kháng nhôm Từ các mẫu đất trồng chè vùng Tân Cương, Thái Nguyên, 16 chủng nấm mốc (ký hiệu từ F1 đến F16) có khả năng chịu acid và kháng nhôm đã được phân lập trên môi trường Hansen thạch đĩa (pH 3,0) chứa nhôm với nồng độ 100 mgL-1. Trong đó, hai chủng nấm mốc ký hiệu F8 và F13 có thể phát triển tốt trên môi trường Hansen thạch đĩa (pH 3,0) chứa nhôm với nồng độ lên đến 700 mgL-1. Trước đấy, Kanazawa và Kunito (1996) cũng đã phân lập được 8 loài nấm mốc từ đất acid có khả năng chịu nhôm với nồng độ 100 mM trên môi trường thạch dinh dưỡng pha loãng 10 lần [13]. Đồng thời, nấm mốc được cho là chiếm ưu thế trong tổng số vi sinh vật chịu acid và kháng Al được xác định. Điều này có thể là do khả năng chịu acid của nấm mốc thường cao hơn so với vi khuẩn. Vì vậy hai chủng nấm mốc này đã được chọn làm đối tượng cho các nghiên cứu tiếp theo. 3.3. Kết quả định danh các chủng nấm mốc F8 và F13 Chủng F8 có khuẩn lạc màu trắng, mặt dạng nhung và đường kính khoảng 50 mm (Hình 1). Kết quả phân tích trình tự đoạn gen 28S rRNA của chủng F8 bằng phần mềm Sequecing Analysis 5.3, đồng thời so sánh trình tự này với cơ sở dữ liệu của GenBank và NCBI bằng phần mềm BLAST cho thấy trình tự này tương đồng 100% với trình tư ̣ đoaṇ gen 28S rRNA của chủng Eupenicillium javanicum AFTOL-ID 429 (mã số truy cập EF413621.1). Vì vậy chủng F8 đươc̣ xếp vào chi Eupenicillium, loài Eupenicillium javanicum và định danh là Eupenicillium javanicum F8. Chủng F13 có khuẩn lạc màu xanh xám, tròn đều với các vòng tròn đồng tâm và đường kính khoảng 19 mm (Hình 2). Kết quả phân tích trình tự đoạn gen 28S rRNA của chủng F13 bằng phần mềm Sequecing Analysis 5.3, đồng thời so sánh trình tự này với cơ sở dữ liệu của GenBank và NCBI bằng phần mềm BLAST cho thấy trình tự này tương đồng 100% với trình tư ̣ đoaṇ gen 28S rRNA của chủng Penicillium variabile KUC1476 (mã số truy cập HM469398.1). Chủng F13 đươc̣ xếp vào chi Penicillium, loài Penicillium variabile. Vì vậy, trong nghiên cứu này, chủng F13 đươc̣ điṇh danh là chủng Penicillium variabile F13. Hình 1. Hình thái khuẩn lạc trên đĩa thạch Sabouraud và trình tự gen 28S rRNA của chủng F8. N.T.T. Châu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 109-115 113 Hình 2. Hình thái khuẩn lạc trên đĩa thạch Sabouraud và trình tự gen 28S rRNA của chủng F13 3.4. Khả năng chiụ acid của cácchủng nấm mốc được tuyển chọn Cả hai chủng nấm mốc Eupenicillium javanicum F8 và Penicillium variabile F13 có thể phát triển tốt trong môi trường Hansen dịch thể chứa nhôm với nồng độ 100 mgL-1 ở các giá trị pH từ 2,2 đến 5,0 đặc biệt là ở pH 2,4 (Bảng 3, Hình 3). Trong khi đó, Genhe và cs. (2016) đã xác định được hai chủng S4 và S7 có khả năng phát triển trên môi trường chứa nhôm với các giá trị pH từ 3,20 đến 3,11 [12]. Vì vậy giá trị pH 2,4 này được chọn cho các nghiên cứu tiếp theo. Bảng 3. Khả năng sinh trưởng và phát triển của các chủng nấm mốc ở 100 các giá trị pH khác nhau (g sinh khối khô L-1) Chủng pH 2,2 2,4 2,6 2,8 3,0 5,0 Eupenicillium javanicum F8 9,83 13,24 8,24 7,45 7,38 9,27 Penicillium variabileF13 7,65 12,65 8,97 7,25 7,86 8,95 Hình 3. Sinh khối của chủng F13 (trái) và F8 (phải) trong môi trường Hansen dịch thể pH = 2,4 N.T.T. Châu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 109-115 114 3.5. Khả năng sinh trưởng, phát triển và hấp thu ̣nhôm của các chủng nấm mốc Sau 5 ngày nuôi cấy trong môi trường Hansen dịch thể chứa các nồng độ nhôm khác nhau (pH 2,4) trên máy lắc ổn nhiệt tại 30oC, 150 vòng/phút, sinh khối tạo thành và hiệu suất hấp thụ nhôm của các chủng nấm mốc đã được xác định và thể hiện ở Bảng 4. Qua đó cho thấy khả năng sinh trưởng và phát triển của các chủng nấm mốc giảm dần khi nồng độ nhôm tăng dần. Tại nồng độ nhôm 2.000 mgL-1, sinh khối của chủng F8 (6,14 gL-1) đạt 29,91% và chủng F13 (5,62 gL-1) đạt 31,41% so với đối chứng (không chứa nhôm) và hiệu suất hấp thụ nhôm của chủng F8 đạt 92,06% cao hơn so với của chủng F13 đạt 86,88%. So sánh với kết quả nghiên cứu của Genhe và cs. (2016) khi báo cáo rằng trong môi trường dịch thể với nồng độ 200 nmolL-1, chủng S4 có hiệu suất hấp thụ nhôm đạt gần 85% và chủng S7 có hiệu suất hấp thụ nhôm chỉ 27% so với đối chứng [12] thì các kết quả nghiên cứu của chúng tôi là cao hơn. Bảng 4. Khả năng sinh trưởng, phát triển và hiệu suất hấp thu ̣nhôm của các chủng nấm mốc ở các nồng độ nhôm khác nhau Chủng Chỉ tiêu theo dõi Nồng độ nhôm (mgL-1) 0 100 500 1000 1500 2000 F8 Khối lươṇg sinh khối khô (gL-1) 20,53 7,44 6,69 6,35 6,43 6,14 Hiệu suất hấp thu ̣(%) 0 86,49 87,59 90,43 91,38 92,06 F13 Khối lươṇg sinh khối khô (gL-1) 17,89 7,32 6,48 6,39 6,03 5,62 Hiệu suất hấp thu ̣(%) 0 77,68 87,94 90,27 86,99 86,88 4. Kết luận Các mẫu đất trồng chè vùng Tân Cương, Thái Nguyên có tính acid cao và hàm lượng nhôm cao. Hai chủng nấm mốc Eupenicillium javanicum F8 và Penicillium variabile F13 được phân lập từ hai trong số các mẫu đất này có khả năng sinh trưởng và phát triển trên môi trường Hansen thac̣h điã (pH 3,0) có bổ sung nhôm với nồng độ lên đến 700 mgL-1. Đồng thời có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt trong môi trường Hansen dịch thể (nồng độ nhôm 100 mgL-1) ở pH 2,2-5,0. Bên cạnh đó, hai chủng nấm mốc này vẫn có thể sinh trưởng và phát triển tại các nồng độ nhôm cao hơn (500-2.000 mgL-1), tuy nhiên lượng sinh khối tạo thành giảm dần khi nồng độ nhôm tăng. Tại nồng độ nhôm 2.000 mgL-1, hiệu suất hấp thụ nhôm của chủng F8 (đạt 92,06%) cao hơn so với của chủng F13 (đạt 86,88%). Với khả năng chịu acid, kháng và hấp thụ nhôm cao, hai chủng Eupenicillium javanicum F8 và Penicillium variabile F13 được cho là có tiềm năng trong cải thiện đất trồng chè bị acid hoá nhằm đảm bảo năng suất cũng như và chất lượng của sản phẩm chè. Tài liệu tham khảo [1] M. Hayatsu, Soil microflora and microbial activities in acid tea soils,Bull. Natl. Res. Veg. Ornam. Plants Tea B 6 (1993) 73 (in Japanese). [2] Nioh, T. Isobe, M. Osada, Microbial biomass and some characteristics of a strongly acid tea field soil, Soil Sci. Plant Nutr. 39 (1993) 617-625. [3] H Wang, R.K. Xu, N. Wang, X.H. Li, Soil acidification of Alfisols as influenced by tea cultivation in eastern China,Pedosphere 20(6) (2010) 799- 806. [4] M.L. Jackson, P.M. Huang, Aluminum of acid soils in the food chain and senility, Sci. Total Environ. 28(1) (1983) 269-276. [5] J. Edwardson, Aluminum and the pathogenesis of neurodegenerative disorders, Aluminium Food Environ. 2 (1988) 20-36. [6] C.N. Martyn, Aluminium and Alzheimer's disease: an epidemiological approach, Environ Geochem. Health 12(1-2) (1990) 169-171. [7] D. McLachlan, Aluminium and the risk for Alzheimer's disease, Environmetrics 6(3) (1995) 233-275. [8] P. Illmer, K. Marschall, F. Schinner, Influence of available aluminum on soil-microorganisms, Lett. Appl. Microbiol. 21(1995)393-397. N.T.T. Châu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 109-115 115 [9] F. Kawai, D. Zhang, M. Sugimoto M, Isolation and charac- terization of acid-and Al-tolerant microorganisms. FEMS Microbiol. Lett. 189 (2000) 143-147. [10] S. Kanazawa, N.T.T. Chau, S. Miyaki S, Identification and characterization of high acid tolerant and aluminum resistant yeasts isolated from tea soils,Soil Sci. Plant Nutr. 51 (2005) 671- 674. [11] N.T.T. Chau, L.V. Thien, S. Kanazawa, Identification and characterization of acidity- tolerant and aluminum-resistant bacterium isolated from tea soil, African Journal of Biotechnology 13(27) (2014) 2715-2726. [12] G. He, X. Wang, G. Liao, S. Huang,J. Wu, Isolation, Identification and characterization of two aluminum- tolerant fungi from acidic red soil, Indian J. Microbiol. 56(3) (2016) 344-352. [13] S.Kanazawa, T. Kunito T, Preparation of pH 3.0 agar plate, enumeration of acid-tolerant and Al- resistant microor- ganisms in acid soils, Soil Sci.Plant Nutr. 42 (1996) 165-173. [14] A.K.N.Zoysa, A. Anandacoomaraswamy, M.S.D.L.De Silva, Management of soil Fertility in tea lands, Handbook on tea, Tea research institute of Sri Lanka, 2008; pp 27-33. Ability to Tolerate Acidity, Resist and Absorb Aluminum of Fungi Isolated from Tea Soils in Tan Cuong, Thai Nguyen, Vietnam Ngo Thi Tuong Chau1, Nguyen Thi Mai Luong2, Phung Thi Ngoc Mai1, Dao van Huy3, Le Van Thien1 1Vietnam National University, University of Science, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam 2Vietnam National University of Forestry, Xuan Mai, Chuong My, Hanoi, Vietnam 3Vietnam National University, Institute of Education Quality Assurance, 144 Xuan Thuy, Hanoi, Vietnam Abstract: From tea soils in Tan Cuong (Thai Nguyen, Vietnam), 16 acid- tolerant and aluminum- resistant fungi were isolated on Hansen plates (pH 3.0) with 100 mgL-1 Al. Two strains (F8 and F13) could grow wellon Hansen plates (pH 3.0) with 700 mgL-1 Al. Morphological and 28S rDNA sequence analyses indicated that strain F8 belonged to Eupenicillium javanicum, while strain F13 belonged to Penicillium variabile. Further investigation showed that both strains could grow actively in Hansen broth with 100 mgL-1 Al at pH 2.2- 5.0 and with 500- 2,000 mgL-1 Al at pH 2.4. After 7 days of incubation on a shaker at 30oC, 150 rpm, the aluminium absorption efficiency from Hansen broth with 2000 mgL-1 Al (pH 2.4) of strain F8 was 92.06% and that of strain F13 was 86.88%. The fungi areconsidered to be useful not only to improve acidified soils by decreasing the ionic aluminum concentration but also ensure quality of tea product. Keywords: Acid soil, tea soil, acid-tolerant fungi, aluminum-resistant fungi, aluminium absorption.
File đính kèm:
- kha_nang_chiu_acid_khang_va_hap_thu_nhom_cua_nam_moc_phan_la.pdf