Hiệu quả giảm đau bằng lidocain gel 2% bôi tại chỗ trong xạ trị áp sát suất liều cao ung thư cổ tử cung
Mục đích: Đánh giá mức độ giảm đau của bệnh nhân thư hiện thủ thuật xạ trị áp sát ung thư cổ tử
cung được vô cảm bằng gây tê tại chỗ lidocain 2%.
Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu, can thiệp lâm sàng không ngẫu nhiên. Các bệnh nhân ung
thư cổ tử cung được xạ trị áp sát suất liều cao tử cung âm đạo được chia làm 2 nhóm vô cảm là bôi tê tại
chỗ Lidocaine 2% và gây mê tĩnh mạch. Tiêu chuẩn đánh giá chính là mức độ đau trong suốt quá trình
thực hiện thủ thuật.
Kết quả: Tổng cộng có 100 bệnh nhân với 177 lần xạ trị (89 lần được gây tê tại chỗ, 88 lần gây mê
tĩnh mạch). Điểm đau NRS trung bình của 2 nhóm lần lượt là 4,97 ± 2,23 và 4,90 ± 2,92. Các yếu tố làm
tăng mức độ đau ở bệnh nhân gây tê gồm: mức độ lo lắng trước điều trị, mức độ viêm âm hộ - âm đạo,
độ sâu lòng tử cung lớn hơn 60mm, giai đoạn bệnh trễ, và lần xạ trị đầu tiên so với lần sau. Các tác dụng
phụ, tai biến - biến chứng ghi nhận ở hai nhóm ít và ở mức độ nhẹ.
Kết luận: Gây tê tại chỗ sử dụng gel lidocain 2% có tác dụng giảm đau tốt, an toàn, trong xạ trị áp sát
suất liều cao ung thư cổ tử cung.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả giảm đau bằng lidocain gel 2% bôi tại chỗ trong xạ trị áp sát suất liều cao ung thư cổ tử cung
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 36 HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU BẰNG LIDOCAIN GEL 2% BÔI TẠI CHỖ TRONG XẠ TRỊ ÁP SÁT SUẤT LIỀU CAO UNG THƯ CỔ TỬ CUNG TRẦN ĐẶNG NGỌC LINH1, PHẠM THÀNH LUÂN2, PHAN THỊ HỒNG ĐÁNG3 Địa chỉ liên hệ: Trần Đặng Ngọc Linh Email: tranlinhub04@yahoo.com Ngày nhận bài: 09/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 TS.BS. Trưởng Khoa Xạ trị Phụ khoa - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM Trưởng Bộ môn Ung thư Đại học Y Dược TP. HCM 2 Bệnh viện Quân Y 175 TP. HCM 3 Đại học Y Dược TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư cổ tử cung là một trong những ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ. Xạ trị là mô thức điều trị rất quan trọng trong ung thư cổ tử cung trong đó xạ trị áp sát giúp tăng liều tại chỗ giúp tăng tỉ lệ kiểm soát bướu tại chỗ, tăng thời gian sống còn cho bệnh nhân[1],[3]. Để đảm bảo chất lượng điều trị của xạ trị áp sát, vấn đề vô cảm để đặt bộ áp đúng vị trí rất quan trọng. Có nhiều biện pháp vô cảm được áp dụng như gây mê, gây tê tủy sống, gây tê vùng và gây tê tại chỗ với các ưu điểm và nhược điểm khác khau. Gây tê tại chỗ đơn giản, an toàn, dễ thực hiện và tiết kiệm nhân lực, chi phí, thời gian theo dõi hơn và vẫn có thể giảm đau đúng mức khi thực hiện thủ thuật[4],[5],[6],[7],[8]. Tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM hiện đang áp dụng 2 phương pháp vô cảm để thực hiện kỹ thuật xạ trị áp sát là gây mê tĩnh mạch và gây tê tại chỗ bằng lidocain. Vấn đề đặt ra là gây tê tại chỗ bằng lidocain 2% trong xạ trị áp sát suất liều cao ung thư cổ tử cung có giảm đau hiệu quả không? Để trả lời câu hỏi trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu (NC): “Đánh giá hiệu quả giảm đau bằng bôi tê tại chỗ lidocain 2% trong xạ trị áp sát suất liều cao ung thư cổ tử cung” với 2 mục tiêu sau: 1. Xác định mức độ đau của bệnh nhân khi thực hiện kỹ thuật với biện pháp vô cảm gây tê tại chỗ, phân tích sự khác biệt của mức độ đau theo một số đặc điểm của nhóm bệnh nhân. 2. Xác định mức độ đau của các bệnh nhân khi thực hiện kỹ thuật với vô cảm bằng gây mê tĩnh mạch đang thực hiện song song tại bệnh viện. TÓM TẮT Mục đích: Đánh giá mức độ giảm đau của bệnh nhân thư hiện thủ thuật xạ trị áp sát ung thư cổ tử cung được vô cảm bằng gây tê tại chỗ lidocain 2%. Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu, can thiệp lâm sàng không ngẫu nhiên. Các bệnh nhân ung thư cổ tử cung được xạ trị áp sát suất liều cao tử cung âm đạo được chia làm 2 nhóm vô cảm là bôi tê tại chỗ Lidocaine 2% và gây mê tĩnh mạch. Tiêu chuẩn đánh giá chính là mức độ đau trong suốt quá trình thực hiện thủ thuật. Kết quả: Tổng cộng có 100 bệnh nhân với 177 lần xạ trị (89 lần được gây tê tại chỗ, 88 lần gây mê tĩnh mạch). Điểm đau NRS trung bình của 2 nhóm lần lượt là 4,97 ± 2,23 và 4,90 ± 2,92. Các yếu tố làm tăng mức độ đau ở bệnh nhân gây tê gồm: mức độ lo lắng trước điều trị, mức độ viêm âm hộ - âm đạo, độ sâu lòng tử cung lớn hơn 60mm, giai đoạn bệnh trễ, và lần xạ trị đầu tiên so với lần sau. Các tác dụng phụ, tai biến - biến chứng ghi nhận ở hai nhóm ít và ở mức độ nhẹ. Kết luận: Gây tê tại chỗ sử dụng gel lidocain 2% có tác dụng giảm đau tốt, an toàn, trong xạ trị áp sát suất liều cao ung thư cổ tử cung. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 37 ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Các bệnh nhân ung thư cổ tử cung được xạ trị bằng kỹ thuật xạ trị áp sát suất liều cao tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM gồm 2 nhóm vô cảm gây tê tại chỗ và gây mê tĩnh mạch. Các bệnh nhân đã chọn lựa biện pháp vô cảm từ trước tùy theo bác sĩ thực hiện thủ thuật, nghiên cứu viên không can thiệp vào quyết định lựa chọn biện pháp vô cảm. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên tiến cứu, can thiệp không ngẫu nhiên. Các bước tiến hành nghiên cứu Bước 1: Lựa chọn hồ sơ bệnh nhân đủ tiêu chuẩn vào nghiên cứu, BN kí đồng ý tham gia nghiên cứu. Bước 2: Ghi nhận các thông tin về đặc điểm bệnh nhân và bệnh sử điều trị theo hồ sơ bệnh án. Bước 3: Tại khoa Xạ 1, Xạ 2 ghi nhận mức độ đau (theo thang điểm NRS có giá trị từ 0 đến 10) và các tác dụng phụ, tai biến - biến chứng của bệnh nhân vào 3 thời điểm: Trước khi thực hiện kỹ thuật; ngay sau khi thực hiện kỹ thuật và 24 giờ sau thực hiện kỹ thuật. Bước 4: Nhập và xử lý số liệu. Viết báo cáo nghiên cứu. Phân tích và xử lý số liệu Nhập liệu bằng phần mềm Epidata. Xử lý bằng phần mềm thống kê R, exel. Trị số p ≤ 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê. Đạo đức nghiên cứu Thông tin thu thập trong nghiên cứu được giữ bí mật theo đúng quy tắc và luật Y đức, đã được Hội đồng Y đức bệnh viện Ung Bướu TP. HCM thông qua. KẾT QUẢ Trong thời gian từ tháng 6/2020 - 9/2020, nghiên cứu đã thu thập được 100 bệnh nhân với 177 lần thực hiện kỹ thuật (gây tê 89 lần và gây mê 88 lần). Đặc điểm lâm sàng và điều trị nhóm bệnh nhân nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu Tuổi trung bình Nhóm gây tê Nhóm gây mê 53,9 ± 21 tuổi 53,6 ± 23,9 tuổi Giai đoạn Xâm lấn sớm 10,1% 11,3% Tiến xa 89,9% 88,7% ECOG 0 - 1 100% 100% ASA I 83,1% 71,6% II 16,9% 28,4% Phân liều HDR 1 46,1% 36,4% 2 33,7% 31,8% 3 20,2% 31,8% Điều trị trước Xạ trị ngoài 44,6Gy 46,5Gy Hóa trị 73% 77,3% Tác dụng phụ của điều trị trước Viêm âm đạo 93,0% 85,2% Tiêu chảy 4,4% 5,6% Buồn nôn 1,1% 0% Lo lắng trước điều trị Không 11,2% 21,6% Nhẹ 61,8% 56,8% Vừa 27% 21,6% Độ sâu lòng tử cung 57,8 ± 7,3mm 58,5 ± 10,3mm Thời gian thực hiện thủ thuật 28,0 ± 7,5 phút 29,5 ± 9,2 phút Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 38 Tất cả bệnh nhân nhóm gây tê đều được bôi tê 4ml gel lidocain 2% (80mg). Nhóm gây mê, sử dụng sulfentanyl (tỷ lệ 94,4%, 5 ± 0,0mcg) hoặc fentanyl (tỷ lệ 5,6%, 50 ± 0mcg) và 100% được kết hợp với propofol (62,2 ± 9,7mg). Mức độ đau khi thực hiện thủ thuật Bảng 2. Mức độ đau theo thang điểm NRS tại các thời điểm thực hiện thủ thuật Thời điểm Gây tê Gây mê Trước điều trị 1,36 1,25 Trong điều trị 4,97 ± 2,23 4,90 ± 2,92 Sau điều trị 24 giờ 1,56 1,57 Bảng 3. Thời điểm đau nhất khi thực hiện thủ thuật Thời điểm đau nhất Gây tê (%) Gây mê (%) Khi đặt bộ áp 98,9 7,9 Khi nạp nguồn 1,1 88,7 Khi tháo bộ áp 0,0 2,3 Thời điểm khác 0,0 1,1 Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ đau khi thực hiện thủ thuật dưới gây tê Bảng 4. Các yếu tố liên quan đến mức độ đau của nhóm gây tê Yếu tố liên quan Điểm đau trung bình Trị số p Lần xạ đầu tiên so với lần sau 5,34 - 4,64 0,002 Không lo lắng với lo lắng nhẹ, lo lắng vừa 3,90 - 4,94 - 5,71 < 0,02 Độ sâu lòng tử cung dưới và trên 60mm 4,68 - 5,20 0,02 Không viêm âm hộ âm đạo so với viêm độ 1 và viêm độ 2 3,14 - 4,94 - 5,42 p1, p2 < 0,001 p3 = 0,09 Giai đoạn bệnh xâm lấn sớm so với giai đoạn tiến xa tại chỗ 4,22 - 5,05 0,077 Tác dụng phụ, tai biến - biến chứng Thời điểm ngay sau thực hiện kỹ thuật: Nhóm gây tê có 1 bệnh nhân buồn nôn (đã có từ trước điều trị do ngày hôm trước có hóa trị), 1 trường hợp hạ đường máu. Nhóm gây mê có 1 trường hợp bị tăng huyết áp, buồn nôn và nôn, 4 trường hợp nghi hạ đường máu. Cả hai nhóm bệnh nhân đều có đau nhẹ niệu đạo do đặt thông tiểu. Thời điểm sau 24 giờ: Nhóm gây tê có 97,3% bệnh nhân tiểu buốt, nhóm gây mê có 90,5% bệnh nhân tiểu buốt và 1 bệnh nhân buồn nôn do được hóa trị cùng ngày. BÀN LUẬN Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nghiên cứu là 53 tuổi là độ tuổi thường gặp của ung thư cổ tử cung theo nhiều nghiên cứu là 50 - 60 tuổi[1,3]. Tất cả các bệnh nhân đều được phối hợp xạ trị ngoài với xạ trị áp sát với liều xạ trị ngoài trung bình 44 - 46Gy. Đa số bệnh nhân ở giai đoạn tiến xa tại chỗ nên được hóa trị đồng thời với tỉ lệ 73% ở nhóm gây tê và 77% ở nhóm gây mê phù hợp với các phác đồ chuẩn được khuyến cáo cho điều trị ung thư cổ tử cung hiện nay[1,2,3]. Đa số bệnh nhân có viêm âm đạo do xạ trị ngoài tại thời điểm thực hiện thủ thuật và khoảng 60% bệnh nhân có lo lắng nhẹ trước thủ thuật. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 39 Mức độ đau trong thời gian thực hiện kỹ thuật Ở nhóm gây tê điểm đau NRS trung bình là 4,97 ± 2,23, nhóm gây mê điểm đau NRS trung bình là 4,90 ± 2,92. Điểm đau của hai nhóm gây tê và gây mê tương đương nhau, tuy nhiên trong NC này khi chọn mẫu hai nhóm không được phân bố ngẫu nhiên do đó không tiến hành phân tích ý nghĩa thống kê của sự khác biệt. Theo nghiên cứu của Chen HC và cs[5] thực hiện trên 40 bệnh nhân. Kết quả cho thấy ở pha được vô cảm bằng lidocain điểm đau trung bình là 4,99 ± 2,41 và ở pha dùng giả dược là 6,01 ± 2,48, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so (p < 0,001). Điểm đau ở 2 nhóm trong NC này cũng tương đồng với NC của nhóm tác giả Chen. Bhanabhai và cs[4] đánh giá mức độ đau khi sử dụng vô cảm kết hợp gây mê tĩnh mạch với bôi tê tại chỗ. Kết quả điểm đau trung bình là 4,70 ± 2,5. Điểm đau của bệnh nhân trong nghiên cứu tác giả cũng tương đương so với 2 nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu này (4,70 so với 4,97 và 4,90). Phân tích các yếu tố liên quan đến mức độ đau của nhóm gây tê Bệnh nhân xạ trị lần đầu và có lo lắng trước điều trị thường đau hơn, nguyên nhân của sự khác biệt này do ở lần điều trị đầu tiên bệnh nhân thường lo lắng nên co thắt cơ âm đạo và đáy chậu gây đau hơn, ở những lần sau mức độ lo lắng giảm và bệnh nhân đã biết quy trình nên phối hợp tốt hơn. Nguyên nhân thứ hai do thao tác nong cổ tử cung, đây là thao tác thường gây đau nhất cho người bệnh, ở lần thực hiện kỹ thuật đầu việc thăm dò tìm lỗ cổ tử cung khi bướu lớn khó khăn hơn, tốn thời gian và có thể gây đau hơn so với những lần sau đã biết trước đường vào nong cổ tử cung. Từ kết quả này cho thấy ở lần xạ trị đầu tiên cần sự động viên an tâm về tâm lý và có thể cân nhắc những biện pháp giảm đau bổ sung (ví dụ: thuốc giảm đau đường uống) nhằm cải thiện mức độ đau phải chịu đựng cho người bệnh. Ở những bệnh nhân có độ sâu lòng tử cung lớn hơn 60mm, điểm đau NRS trung bình cũng lớn hơn nhóm có độ sâu nhỏ hơn 60mm, (5,20 so với 4,68) sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (với p = 0,02). Điều này chứng tỏ điểm đau sẽ tăng khi độ sâu lòng tử cung tăng, tuy nhiên việc bộ áp đặt sâu hay nông trên thực tế do hai khả năng xảy ra, thứ nhất do lòng tử cung của bệnh nhân sâu thực sự, thứ hai do bác sĩ đẩy bộ áp quá căng, việc điểm đau tăng theo độ sâu lòng tử cung có thể là do nguyên nhân thứ hai. Viêm âm hộ - âm đạo do điều trị trước đó chủ yếu là do xạ trị chiếu ngoài. Do đó với các bệnh nhân này, đặc biệt là nhóm có viêm độ 2 việc hỗ trợ giảm đau (có thể là giảm đau đường uống) cho bệnh nhân nên là vấn đề cần lưu tâm. Khi phân bệnh nhân nhóm có giai đoạn sớm ít đau hơn, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê có thể là do tỷ lệ bệnh nhân giai đoạn xâm lấn sớm thấp (p = 0,077). Do ở các bệnh nhân có giai đoạn tiến xa, bướu lớn và xâm lấn xung quanh nên khi thao tác làm căng âm đạo sẽ gây đau nhiều hơn. Thời điểm đau nhất trong quá trình thực hiện kỹ thuật Nhóm bệnh nhân gây tê thời điểm đau nhất chủ yếu xảy ra khi đặt bộ áp (98,9%), kết quả này cũng phù hợp vì lúc đặt bộ áp là thời điểm thực hiện nhiều thao tác gây đau nhất (đặt mỏ vịt thăm khám, sát trùng, nong cổ tử cung, đặt dụng cụ và chèn gạc). Sau thời điểm này hầu như bệnh nhân chỉ nằm cố định không có thao tác can thiệp nào thêm. Nhóm bệnh nhân gây mê đau nhất chủ yếu xảy ra trong thời gian sau khi đặt bộ áp đến lúc nạp nguồn xạ xong (88,7%), điều này do chỉ ở bước đặt dụng cụ bệnh nhân được sử dụng thuốc mê, hầu hết các bệnh nhân sau khi đặt dụng cụ đều đã hồi tỉnh khi chuyển qua các bước sau nên cảm nhận đau. Các tác dụng phụ, tai biến - biến chứng Nhóm bệnh nhân gây tê Chỉ ghi nhận một số trường hợp nhẹ không ảnh hưởng đến điều trị và hầu như không cần điều trị gì, vẫn có thể hoàn thành kỹ thuật. So với nghiên cứu của Chen và cs[5], khi xịt tê lidocaine 10% tác giả còn tiến hành đo nồng độ lidocaine hấp thu vào máu và kết quả cho thấy nồng độ này ở ngưỡng an toàn. Trong nghiên cứu này không đo được nồng độ lidocain như vậy nhưng với cùng lượng lidocaine được sử dụng (4ml) thì nồng độ lidocaine trong nghiên cứu này chỉ là 2% có thể nhận định nồng độ lidocaine trong máu cũng không cao hơn. Cũng trong nghiên cứu của Chen thì các tác dụng phụ trên tim mạch, huyết áp cũng không khác biệt giữa hai nhóm được gây tê hay không gây tê tại chỗ. Nhóm bệnh nhân gây mê Ghi nhận 1 trường hợp bị tăng huyết áp, buồn nôn và nôn sau khi gây mê. Bệnh nhân đã được xử trí bằng thuốc hạ áp và sau đó có thể tiếp tục điều trị hoàn thành kỹ thuật. Có 4 trường hợp nghi hạ đường máu do có thời gian nhịn ăn trước đó là 14 - 15 giờ. Do đó so với gây tê tại chỗ thì bệnh nhân gây mê có khác biệt là cần phải nhịn ăn trước. Nên ở những bệnh nhân này sẽ có nguy cơ xảy ra hạ đường máu nếu nhịn ăn kéo dài đặc biệt nếu bệnh nhân có bệnh lý về đường máu kết hợp. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 40 Theo nghiên cứu của nhiều các tác giả ghi nhận một số biến chứng của gây mê liên quan đến thuốc mê như: buồn nôn, nôn, giảm oxy máu, đau đầu, thay đổi huyết áp, rối loạn nhịp tim Các tác dụng phụ, tai biến - biến chứng này tuy nhẹ và đều được điều trị khỏi nhưng làm cho quá trình theo dõi, quản lý bệnh nhân đòi hỏi khắt khe và mất thời gian hơn gây áp lực cho hệ thống y tế[4],[6],[7],[8]. Trong nghiên cứu này ở chúng tôi không ghi nhận các biến chứng trên, thực tế do kỹ thuật gây mê được thực hiện trong nghiên cứu này thực chất chỉ là tiền mê ngắn khi đặt bộ áp nên tỷ lệ các biến chứng liên quan đến thuốc mê sẽ ít hơn. KẾT LUẬN Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu: Hầu hết bệnh nhân được hóa xạ đồng thời trước, có viêm âm hộ - âm đạo và lo lắng trước khi điều trị. Nhóm bệnh nhân gây tê: Mức độ đau vừa (4,97 ± 2,23). Các tác dụng phụ ít và nhẹ. Mức độ đau tăng theo mức độ lo lắng, tình trạng viêm âm hộ - âm đạo, độ sâu lòng tử cung và lần xạ trị đầu tiên. Nhóm bệnh nhân gây mê: Đau mức độ vừa (4,90 ± 2,92). Một số bệnh nhân có tác dụng phụ nhẹ và được điều trị khỏi hoàn toàn. Bôi tê tại chỗ lidocain 2% trong xạ trị áp sát suất liều cao ung thư cổ tử cung có hiệu quả giảm đau tốt, an toàn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Đặng Ngọc Linh, (2013), Hiệu quả xạ trị trong ung thư cổ tử cung giai đoạn IIB - IIIB, Luận án tiến sỹ y học, Đại học y dược TP. HCM. 2. Trần Đặng Ngọc Linh, Nguyễn Anh Khôi, Cung Thị Tuyết Anh và cộng sự (2008), "Độc tính và đáp ứng của hóa xạ trị đồng thời trong ung thư cổ tử cung giai đoạn IIB-IIIB", Y học TP. HCM, số đặc biệt chuyên đề Ung Bướu học, 12 (4), tr. 340 - 347. 3. Alain Gerbaulet, Richard Potter, Jean Jacques Mazeron, et al, (2002), The GEC ESTRO Handbook of Brachytherapy, The European Societyfor Therapeutic Radiology and Oncology, pp. 301 - 364. 4. Bhanabhai H, Samant R, Grenier L, et al, (2013), "Pain assessment during conscious sedation for cervical cancer high-dose-rate brachytherapy", Curr Oncol, 20 (4), pp. 307 - 310. 5. Chen H.C, Leung S.W, Wang C.J, Sun L.M, et al, (1998), "Local vaginal anesthesia during high- dose-rate intracavitary brachytherapy for cervical cancer", Int J Radiat Oncol Biol Phys, 42 (3), pp. 541 - 544. 6. Leong Y H, Tan K H S, Choo B A, Koh V Y, et al, (2017), "Novel anesthetic technique for combined intracavitary and interstitial brachytherapy for cervix cancer in an outpatient setting", J Contemp Brachytherapy, 9 (3), pp. 236 - 241. 7. Lim K H, Lu J J, Wynne C J, Back M F, et al, (2004), "A study of complications arising from different methods of anesthesia used in high- dose-rate brachytherapy for cervical cancer", Am J Clin Oncol, 27 (5), pp. 449 - 451. 8. Yildirim Ilknur, (2019), Anesthesia Techniques in Brachytherapy, Turk J Oncol 2019, pp 99 - 101. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 41 ABSTRACT Local anesthesia by lidocain gel 2% in cervical cancer high dose rate brachytherpy Purpose: To evaluate the pain relief efficacy of lidocaine gel 2% in cervical cancer high dose rate (HDR) brachytherapy procedure. Objects and methods: Prospective, non randomized controlled trial. Cervical cancer patients treated by high dose rate brachytherapy was enrolled into 2 groups:- local anesthesia with topical lidocaine gel 2% and - intravenous general anesthesia. The primary endpoint was pain score. Results: 100 patients with 177 HDR fractions (89 fractions with local anesthesia, 88 fractions with intravenous anesthesia). Average NRS pain scores during the procedure were were 4,97 ± 2,23 in local anesthesia group and 4,90 ± 2,92 in intravenous anesthesia groups. NRS depends on pre-treatment anxiety, vaginitis, uterine depth, advanced stages, fraction of HDR brachytherapy. Mild side effects were rarely reported. Conclusion: Local anesthesia with lidocaine gel 2% is effective, safe, and can be used in cervical cancer HDR brachytherapy, to reduce the burden on the medical system.
File đính kèm:
- hieu_qua_giam_dau_bang_lidocain_gel_2_boi_tai_cho_trong_xa_t.pdf