Hiệu quả điều trị giảm đau ung thư di căn xương bằng thuốc phóng xạ sm - 153 edtmp
Giới thiệu: Di căn thường gặp ở giai đoạn cuối của các bệnh lý ác tính như ung thư vú, tiền liệt tuyến
và phổi. Các biến chứng di căn xương bao gồm đau dữ dội, gãy xương bệnh lý và tăng canxi máu. Trong
đó đau do di căn xương là biến chứng di căn xương là hay gặp nhất, đau làm giảm chất lượng sống của
bệnh nhân. Điều trị giảm đau do di căn xương là phương pháp điều trị đa mô thức, bao gồm hóa trị, xạ trị,
chống tiêu xương bằng các thuốc bisphosphonate, phẫu thuật và thuốc phóng xạ nhắm đích ở xương.
Điều trị giảm đau bằng thuốc phóng xạ được xem như là phương pháp bổ khuyết cho xạ trị ngoài do có
ưu điểm điều trị giảm đau cùng lúc nhiều vị trí.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả giảm đau di căn xương bằng thuốc phóng xạ Sm-153
EDTMP.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả. Phân tích sự khác biệt các biến định tính bằng phép kiểm
Chi bình phương, các biến định lượng bằng phép kiểm T-test.
Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các bệnh nhân đã điều trị giảm đau bằng thuốc phóng xạ Sm-153
EDTMP từ 8/2018 đến tháng 5/2020. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0.
Kết quả: 27 bệnh nhân được thu thập. Ung thư vú chiếm 14/27 trường hợp, ung thư phổi và tiền liệt
tuyến có tỉ lệ ngang nhau là 4/27 trường hợp. Tỉ lệ đáp ứng toàn bộ là 74%, trong đó tỉ lệ đáp ứng hoàn
toàn là 33,3%, đáp ứng một phần là 40,7%. Thời gian duy trì giảm đau kéo dài là 15,8 tuần. Độc tính
huyết học thấp dưới 25%, chủ yếu ở mức grade 1 và grade 2. Hầu hết hồi phục sau 8 tuần.
Kết luận: Điều trị giảm đau bằng thuốc phóng xạ Sm-153 EDTMP cho thấy có hiệu quả với tỉ lệ đáp
ứng cao, thời gian duy trì giảm đau kéo dài. Độc tính huyết học thấp, chủ yếu thoáng qua và đa số hồi
phục sau điều trị.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả điều trị giảm đau ung thư di căn xương bằng thuốc phóng xạ sm - 153 edtmp
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 127 HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ GIẢM ĐAU UNG THƯ DI CĂN XƯƠNG BẰNG THUỐC PHÓNG XẠ SM-153 EDTMP VÕ KHẮC NAM1, VŨ HOÀNG MINH CHÂU2, NGUYỄN HUỲNH KHÁNH AN2, TRẦN ĐẶNG NGỌC LINH3, NGUYỄN HOÀNG ANH4 Địa chỉ liên hệ: Võ Khắc Nam Email: khacnam05@yahoo.com Ngày nhận bài: 08/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1ThS.BS. Trưởng Khoa Y học Hạt nhân - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 2 BS. Khoa Y học Hạt nhân - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 3 TS.BS. Trưởng Khoa Xạ trị Phụ khoa - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM Trưởng Bộ môn Ung thư Đại học Y Dược TP.HCM 4 Điều dưỡng Khoa Y Học Hạt Nhân - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Tổn thương di căn xương hay gặp ở giai đoạn tiến triển trong các bệnh ung thư tiền liệt tuyến, ung thư vú và ung thư phổi Di căn xương có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng như đau dữ dội, gãy xương bệnh lý và tăng canxi máu. Trong đó, đau do ung thư di căn xương làm giảm chất lượng sống đáng kể và thời gian sống còn của bệnh nhân. Hiện nay, điều trị đau là phương pháp điều trị phối hợp đa mô thức, và mỗi mô thức riêng lẽ đều có những mặt ưu và bất lợi riêng nên làm hạn chế việc sử dụng chúng. Hiện nay, morphin vẫn là tiêu chuẩn vàng và là thuốc đầu tay trong điều trị giảm đau di căn xương. Tuy nhiên, việc sử dụng các thuốc nhóm opioid thường gây các tác dụng phụ như gây ngủ nhiều, táo bón và buồn nôn nhiều, làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống của bệnh nhân. Điều trị TÓM TẮT Giới thiệu: Di căn thường gặp ở giai đoạn cuối của các bệnh lý ác tính như ung thư vú, tiền liệt tuyến và phổi. Các biến chứng di căn xương bao gồm đau dữ dội, gãy xương bệnh lý và tăng canxi máu. Trong đó đau do di căn xương là biến chứng di căn xương là hay gặp nhất, đau làm giảm chất lượng sống của bệnh nhân. Điều trị giảm đau do di căn xương là phương pháp điều trị đa mô thức, bao gồm hóa trị, xạ trị, chống tiêu xương bằng các thuốc bisphosphonate, phẫu thuật và thuốc phóng xạ nhắm đích ở xương. Điều trị giảm đau bằng thuốc phóng xạ được xem như là phương pháp bổ khuyết cho xạ trị ngoài do có ưu điểm điều trị giảm đau cùng lúc nhiều vị trí. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả giảm đau di căn xương bằng thuốc phóng xạ Sm-153 EDTMP. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả. Phân tích sự khác biệt các biến định tính bằng phép kiểm Chi bình phương, các biến định lượng bằng phép kiểm T-test. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các bệnh nhân đã điều trị giảm đau bằng thuốc phóng xạ Sm-153 EDTMP từ 8/2018 đến tháng 5/2020. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả: 27 bệnh nhân được thu thập. Ung thư vú chiếm 14/27 trường hợp, ung thư phổi và tiền liệt tuyến có tỉ lệ ngang nhau là 4/27 trường hợp. Tỉ lệ đáp ứng toàn bộ là 74%, trong đó tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn là 33,3%, đáp ứng một phần là 40,7%. Thời gian duy trì giảm đau kéo dài là 15,8 tuần. Độc tính huyết học thấp dưới 25%, chủ yếu ở mức grade 1 và grade 2. Hầu hết hồi phục sau 8 tuần. Kết luận: Điều trị giảm đau bằng thuốc phóng xạ Sm-153 EDTMP cho thấy có hiệu quả với tỉ lệ đáp ứng cao, thời gian duy trì giảm đau kéo dài. Độc tính huyết học thấp, chủ yếu thoáng qua và đa số hồi phục sau điều trị. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 128 giảm đau di căn xương bằng thuốc phóng xạ phát tia beta nhắm đích ở xương được cho là phương pháp thay thế bổ sung cho xạ trị ngoài[2][5][6][7][8]. Ưu điểm của phương pháp này chính là có khả năng điều trị giảm đau đồng bộ ở nhiều vị trí, không xung đột với các phương pháp điều trị khác, thời gian tác dụng giảm đau kéo dài. Hai đồng vị phóng xạ đã được Châu âu và Hoa Kỳ chấp thuận và sử dụng nhiều nhất hiện nay gồm Strontium-89 (Sr-89) và Samarium-153 (Sm-153)[1][3]. Trong đó, thuốc phóng xạ Sm-153 Ethylene-Diamine-Tetramethylene- Phosphonic acid (Sm-153 EDTMP) được ứng dụng lâm sàng nhiều hơn do có thời gian bán hủy ngắn hơn. Sm-153 EDTMP được chỉ định điều trị giảm đau đối với các trường hợp di căn xương lan nhiều vị trí thể tạo xương hoặc thể hỗn hợp (vừa có tạo xương, vừa có hủy xương) mà có tăng hấp thu thuốc phóng xạ trên xạ hình xương[9]. Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM đã đưa vào điều trị giảm đau bằng thuốc phóng xạ Sm-153 EDTMP cách đây khoảng 5 năm. Vậy vai trò giảm đau của điều trị thuốc phóng xạ Sm-153 EDTMP ra sao, đáp ứng như thế nào nên chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm đánh giá tính hiệu quả trong điều trị giảm đau ung thư di căn xương bằng thuốc phóng xạ Sm-153 EDTMP và cũng như khảo sát những độc tính tác dụng phụ không mong muốn của nó trên lâm sàng. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả bệnh nhân ung thư di căn xương đa ổ đã được điều trị bằng Sm-153 EDTMP tại Bệnh viện Ung bướu TP. HCM từ tháng 07/2018 đến tháng 05/2020. Tiêu chuẩn chọn bệnh Bao gồm các bệnh nhân ung thư di căn xương đa ổ đã điều trị bằng Sm-153 EDTMP thỏa tất cả các điều kiện sau: + Bệnh nhân bị ung thư di căn xương thuộc dạng tăng tạo cốt bào hoặc dạng hỗn hợp. + Có nồng độ Hb >90g/L. BC >2,5 x 109/L. Tc >100 x 109/L + Chức năng thận: Bình thường + KPS ≥60. + Bệnh nhân nhận thức được không gian, thời gian, bản thân và người xung quang, hiểu và tự đánh giá được mức độ đau theo thang điểm số sau khi được Bác sĩ tư vấn. Tiêu chuẩn loại trừ + Phụ nữ có thai, đang cho con bú. + Có bằng chứng tổn thương chèn ép tủy cần can thiệp cấp cứu, hoặc có gãy xương bệnh lý. + Xạ hình xương có dạng super scan. + Có xạ trị nữa thân người trong suốt 3 tháng gần nhất hoặc có hóa trị kéo dài trong thời gian 4 tuần gần nhất. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Hồi cứu mô tả hàng loạt ca. Cỡ mẫu và phương pháp tiến hành Tất cả các trường hợp ung thư di căn xương đa ổ đã được điều trị giảm đau di căn xương bằng Sm- 153 EDTM ... rị Thời điểm Chỉ số KPS trung bình P Trước điều trị 78,5 ± 8,6 0,007 Sau điều trị 84,8 ± 12,2 Phân loại mức độ đau trước điều trị Mức độ đau Số điểm Số lượng Tỉ lệ (%) Đau nặng 7 - 10 điểm 22 81,5% Đau vừa 4 - 6 điểm 5 18,5% Phân loại mức độ đau sau điều trị giảm đau 3 bậc Mức độ đau Số điểm Số lượng Tỉ lệ (%) Đau nặng 7 - 10 điểm 4 14,8 % Đau vừa 4 - 6 điểm 18 66,7 % Đau nhẹ 1 - 3 điểm 5 18,5% Phân độ đau theo mức độ sau điều trị Sm-153 EDTMP Mức độ đau Số điểm Số lượng Tỉ lệ (%) Đau nặng 7 - 10 điểm 5 18,5 % Đau vừa 4 - 6 điểm 5 18,5 % Đau nhẹ 1 - 3 điểm 8 29,6% Không đau 0 điểm 9 33,3% So sánh mức độ giảm đau trước và sau điều trị thuốc giảm đau 3 bậc Thời điểm Điểm số đau trung bình P Trước điều trị thuốc đau 3 bậc 8,3 ± 0,3 ≤0,001 Sau điều trị thuốc đau 3 bậc 4,1 ± 0,3 Nhận xét: Mức độ đau sau điều trị thuốc giảm đau 3 bậc giảm rõ có ý nghĩa so với trước điều trị. So sánh mức độ giảm đau trước và sau điều trị Sm-153 EDTMP Thời điểm Điểm số đau trung bình P Sau điều trị thuốc giảm đau 3 bậc 4,1 ± 0,3 0,05 Sau điều trị Sm-153 EDTMP 2,96 ± 0,5 Nhận xét: Mức độ đau sau điều trị Sm-153 giảm có ý nghĩa so với trước điều trị. So sánh liều thuốc giảm đau 3 bậc trung bình trước và sau điều trị Liều Liều morphin trung bình/ngày Trước điều trị 101,4 ± 21,4mg/ngày P < 0,001 Sau điều trị 46,1 ± 13,7mg/ngày Thời điểm bắt đầu có tác dụng giảm đau và thời gian duy trì giảm đau sau điều trị Sm-153 EDTMP Thời gian Trung bình Thời điểm giảm đau 11,5 ± 7,3 [3 - 21] ngày Thời gian giảm đau 15,8 ± 4,5 [0 - 120] tuần Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 130 Nhận xét: Thời điểm giảm đau sau điều trị Sm- 153 EDTMP trung bình bắt đầu khoảng 12,7 ± 7,2 ngày, những trường hợp không đáp ứng thì không được ghi nhận. Đáp ứng sớm nhất là 3 ngày và chậm nhất là 21 ngày. Thời gian giảm đau kéo dài trung bình được 16 tuần. Trong đó kéo dài nhất là được đến 120 tuần. Đánh giá đáp ứng Phân loại Số lượng Tỉ lệ % Đáp ứng hoàn toàn 9 ca 33,3% Đáp ứng một phần 11 ca 40,7% Không đáp ứng 7 ca 26% Phân độ độc tính huyết học trước và sau điều trị Sm-153 Hemoglobin Grade 0 Grade 1 Grade 2 Grade 3 Hemoglobin Trước điều trị 10 7 10 0 Sau điều trị ≥2 tuần 10 3 11 2 Sau điều trị ≥8 tuần 6 4 6 1 Bạch cầu Grade 0 Grade 1 Grade 2 Grade 3 Bạch cầu Trước điều trị 26 1 0 0 Sau điều trị ≥2 tuần 21 2 3 0 Sau điều trị ≥ 8 tuần 16 1 0 Tiều cầu Grade 0 Grade 1 Grade 2 Grade 3 Tiểu cầu Trước điều trị 26 1 0 0 Sau điều trị ≥ 2 tuần 19 4 3 0 Sau điều trị ≥ 8 tuần 16 1 BÀN LUẬN Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 55 tuổi. Trong đó tuổi lớn nhất là 76 tuổi và nhỏ nhất là 35 tuổi. Điều trị ung thư di căn xương được thực hiện chủ yếu trên bệnh nhân ung thư vú, tiền liệt tuyến, ung thư phổi và một số nhỏ các ung thư khác. Qua khảo sát vị trí di căn xương trên xạ hình xương cho thấy chủ yếu di căn ở các xương trục, nổi bậc là đốt sống, xương chậu, xương sườn, xương sọ và xương ức, chiếm tỉ lệ cao lần lượt là 88,7%, 81,7, 77,8%, 51,9% và 37%. Trong khi đó di căn các xương đùi và xương cánh tay có tỉ lệ là 63% và 51,9%, thấp nhất là xương vai 18,5%. Ở người trưởng thành, các xương trục chứa tủy đỏ, là nơi hoạt động tạo máu diễn ra một cách tích cực, với đặc điểm có hệ thống tuần hoàn phong phú, thành phần tế bào và chất nền xương, tạo môi trường tốt cho hiện tượng hình thành và phát triển ổ di căn. Qua khảo sát, số điểm đau theo thang điểm số trung bình trước điều trị thuốc giảm đau 3 bậc là 8,3 ± 0,3 điểm, trong đó điểm thấp nhất là 5 điểm và điểm cao nhất là 10 điểm. Trong đó, đau nặng (7 - 10 điểm) chiếm tỉ lệ cao đến 81,5% và đau mức độ trung bình 18,5%. Việc đánh giá mức độ đau có thể tham chiếu qua sử dụng thuốc giảm đau 3 bậc như kết quả một số nghiên cứu cho thấy thuốc giảm đau bậc 1 (đau nhẹ, paracetamol, non-steroid), bậc 2 (đau vừa: opioid nhẹ, codein), bậc 3 (đau nặng, morphin chia làm 3 mức độ: morphin <40mg/ngày, 40 - 100mg/ngày và >100mg/ngày). Qua khảo sát số liệu cho thấy, thuốc morphin có cấp độ liều dùng 40 - 100mg/ngày chiếm tỉ lệ cao nhất là 12/21 trường hợp, mức dưới 40mg/ngày và mức trên 100mg/ngày chiếm tỉ lệ lần lượt là 4/21 và 5/21 trường hợp. Liều trung bình trong nghiên cứu này là: Ultracet: 4,5 ± 0,5 viên/ngày (3 - 6 viên/ngày) và morphin là: 101,4 ± 21,2mg/ngày (30 - 360mg/ngày). Sau điều trị thuốc giảm đau 3 bậc, đánh giá hiệu quả cho thấy đau cải thiện đáng kể, trong đó đau nặng chỉ còn 14,8% và đau mức độ vừa 66,7% cao hơn rõ so với trước điều trị. Điều này được lý giải là do sau điều trị bệnh nhân cải thiện đáng kể điểm số đau, từ mức độ đau nặng, giảm còn số điểm đau vừa hoặc đau nhẹ (1 - 3 điểm). Trung bình điểm số đau sau điều trị thuốc giảm đau 3 bậc chỉ còn là 4,1 ± 1,9 điểm. Trong đó điểm cao nhất là mức 8 điểm (mức đau nặng). Điều này phù hợp y văn về tình trạng đau do ung thư di căn xương có thể gây ra những cơn đau dữ dội mà các thuốc opioid đôi khi cũng không thể chế ngự được hoàn toàn. Muốn khống chế những cơn đau như thế đôi khi phải sử dụng thuốc opiod liều cao, điều này có thể gây các tác dụng phụ không mong muốn của thuốc như ức chế thần kinh, buồn nôn, táo bón, bí tiểu.. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 131 So sánh theo thang điểm số trước và sau điều trị thì thấy việc sử dụng thuốc giảm đau 3 bậc giúp cải thiện triệu chứng đau một cách đáng kể (P <0,001). Liều Sm-153 EDTMP trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 54,2 ± 8,5mCi [40 - 65]mCi. Sau điều trị Sm-153 EDTMP, đánh giá phân loại mức độ đau thấy có đến 9 ca (chiếm tỉ lệ 33,3%) đáp ứng hết đau hoàn toàn. Đau nhẹ, đau vừa và đau nặng chiếm tỉ lệ lần lượt là 29,6%, 18,5% và 18,5%. So sánh với phân loại đau trước điều trị thấy mức độ đau vừa giảm nhiều từ 66,7% chỉ còn 18,5%. Điều này cũng được cho là do tác dụng hiệu quả điều trị làm giảm mức điểm số đau. Theo y văn, thời gian đáp ứng giảm đau thay đổi tùy theo thuốc phóng xạ sử dụng. Thời gian đáp ứng của thuốc phóng xạ P-32 phosphate khoảng 5 - 14 ngày, Sr-89 chloride khoảng 2 - 4 tuần và Sm - 153 EDTMP là 2 - 7 ngày. Khảo sát số liệu nghiên cứu của chúng tôi thấy thời gian bắt đầu có tác dụng lâu hơn, trung bình là 11,5 ± 7,3 ngày (n = 18). Trong đó những trường hợp không đáp ứng với điều trị từ ngày đầu cho đến khi tử vong hoặc đến khi kết thúc nghiên cứu, hoặc bệnh nhân khai không rõ ngày thì không được đánh giá (có 9 trường hợp), thời gian bắt đầu có tác dụng sớm nhất là 3 ngày và chậm nhất là 21 ngày[4][5][6][7][8]. So sánh liều morphin trước điều trị Sm-153 (101,4 ± 21,2mg/ngày) với liều sau điều trị tại thời điểm trước tái phát đau (46,1 ± 13,7mg/ngày) thấy liều giảm rõ rệt và có ý nghĩa (P < 0,001). Điều này chứng tỏ điều trị giảm đau bằng Sm-153 có hiệu quả rõ rệt và từ đó giúp giảm liều hoặc ngưng toàn bộ các thuốc giảm đau, từ đó giảm được tác dụng phụ không mong muốn của thuốc. Khi phân loại sự thay đổi liều thuốc giảm đau sau điều trị Sm-153 EDTMP, thấy nhóm ngưng toàn bộ và nhóm giảm liều từ 25% trở lên sau điều trị chiếm tỉ lệ khá cao lần lượt là 40,7% và 33,3%. Theo tiêu chuẩn đánh giá đáp ứng của Hội đồng thuận quốc tế về di căn xương[3] thì những trường hợp giảm liều thuốc từ 25% trở lên hoặc ngưng toàn bộ mà không làm gia tăng triệu chứng đau hoặc hết đau hoàn toàn thì thuộc nhóm có đáp ứng với điều trị và tổng cộng có 74%. Trong khi đó nhóm giảm liều dưới 25% hoặc phải tăng liều thì được phân thành nhóm không đáp ứng, chiếm 26%. Từ các kết quả trên cho thấy tác dụng phụ trên mỗi nhóm tế bào máu chỉ là thoáng qua, và hầu hết ở mức độ nhẹ grade 1 và grade 2 với tỉ lệ thấp dưới 25% và phần lớn hồi phục sau điều trị. Khảo sát chung cả 03 dòng tế bào máu, thấy trước điều trị không có trường hợp nào giảm cả 2 hoặc 3 dòng. Sau điều trị có 05 trường hợp giảm cả 2 dòng hồng cầu và tiểu cầu (chiếm tỉ lệ 19,2%), 02 trường hợp giảm 2 dòng bạch cầu và tiểu cầu (chiếm 7,6%) và 03 trường hợp giảm 2 dòng hồng cầu và bạch cầu (7,6%). Không có trường hợp nào giảm cả 03 dòng. Sau 8 tuần, có 17 trường hợp thực hiện xét nghiệm, đối với 05 trường hợp giảm 2 dòng hồng cầu và tiều cầu thì có đến 4/5 trường hợp hồi phục và 1/5 trường hợp không hồi phục (hồng cầu ở mức grade 3 và tiều cầu ở mức grade 2). Đối với 02 trường hợp giảm 2 dòng bạch cầu và tiều cầu, thì 01 trường hợp hồi phục dòng tiều cầu và dòng bạch cầu cải thiện từ mức grade 2 còn ở mức grade 1. Trường hợp còn lại không xét nghiệm lại. Trong khi đó, 03 trường hợp giảm 2 dòng hồng cầu và bạch cầu, thì 2 trường hợp bệnh nhân không thực hiện xét nghiệm lại, 01 trường hợp bạch cầu hồi phục về bình thường, hồng cầu từ mức grade 2 thành mức grade 1. Tuy nhiên, xuất hiện thêm một trường hợp khác giảm 2 dòng hồng cầu và bạc cầu. Khảo sát tác dụng phụ của thuốc điều trị đối với dòng bạch cầu và tiểu cầu chỉ ở mức grade 1 và 2 (tỉ lệ lần lượt là 19,2% và 25,9%). Sau điều trị, kết quả xét nghiệm 17 trường hợp thấy dòng bạch cầu và tiểu cầu chỉ còn ở mức grade 1 với tỉ lệ là 1/17 trường hợp (5,8%). Trong khi đó, đối với dòng hồng cầu thì sau điều trị có 02 trường hợp chuyển mức grade 3. Sau 8 tuần điều trị còn 01 trường hợp còn ở mức grade 3. Tham khảo nghiên cứu của tác giả Sapienza MT trên 73 bệnh nhân điều trị Sm - 153 EDTMP thấy có đến 73,5% bị ức chế tủy xương và thường hồi phục sau 8 tuần[10]. Trong khi đó, nghiên cứu của tác giả Srivastava trên 20 bệnh nhân với liều Sm-153 EDTMP là 1 mCi/kg cũng cho thấy thấy độc tính huyết học trên nhóm bạch cầu và tiểu cầu có mức độ ≥grade 2 với tỉ lệ thấp lần lượt là 15% và 25%. Trong khi đó tác dụng phụ của thuốc phóng xạ Strontium-89 khá cao là 37 và 61%[10]. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị giảm đau di căn xương bằng thuốc phóng xạ Sm-153 EDTMP tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM thời gian từ tháng 07/2018 đến tháng 05/2020. Chúng tôi rút ra một số kết luận sau: Điều trị Sm-153 EDTMP giúp giảm đau có hiệu quả, tỉ lệ đáp ứng cao, thời gian Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 132 giảm đau được duy trì kéo dài, giúp giảm liều morphin mà vẫn duy trì giảm đau hiệu hiệu quả. Độc tính huyết học chỉ thoáng qua, hầu hết hồi phục sau điều trị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bodei L (2008). “EANM procedure guideline for treatment of refractory metastatic bone pain”. Eur J Nucl Med Mol Imaging. 2. Choi Y J (2018). “Treatment of Bone Metastasis with Bone-Targeting Radiopharmaceuticals”. Nucl Med Mol Imaging; 52(3): 200 - 207. 3. “Criteria for Palliation of Bone Metastases - Clinical Applications”, IAEA 2007 4. Handkiewicz-Junak D (2018). “EANM guidelines for radionuclide therapy of bone metastases with beta-emitting radionuclides”. Eur J Nucl Med Mol Imaging. 45(5): 846 - 859. 5. Kazuma Ogawa (2014). “Well-Designed Bone- Seeking Radiolabeled Compounds for Diagnosis and Therapy of Bone Metastases”. BioMed Research International. 6. Mai Elzahry (2018). “The Optimal Efficacy of a Single Therapeutic Dose of Sm - 153 EDTMP in the Treatment of Painless Skeletal Metastases”. J Clin Exp Radiol 7. Narayan R (2017). “Role of samarium-153- ethylene diamine tetramethylene phosphonate radionuclide bone pain palliation in patients with metastatic bone disease”. J Clin Sci Res. 6: 89 - 94. 8. Parlak Y (2015). “Samarium-153 therapy for prostate cancer: the evaluation of urine activity, staff exposure and dose rate from patients”. Radiation Protection Dosimetry ,163, 4, pp. 468 - 472 9. Ramachandran K (2011). “Comparison of Tc- 99m MDP andSm - 153 EDTMP bone scan”. Indian Journal of Nuclear Medicine, 26(3). 10. Srivastava SC (2007). “The Role of Electron- Emitting Radiopharmaceuticals in the Palliative Treatment of Metastatic Bone Pain and for Radiosynovectomy: Applications of Conversion Electron Emitter Tin-117m”. Brazilian Archives of Biology and Technology. 50. P.49 - 62. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 133 ABSTRACTS Therapeutic efficacy of sm-153 EDTMP for painful bone metastases Introduction: Bone metastases are common in progression of various tumor such as breast cancer, prostate ang lung carcinoma. Metastatic bone pain, a common complication, reduces life quality of patients. Treatment of painful bone metastases includes multidisplinary approach, such as: chemotherapy, external radiotherapy, bisphosphonates and surgery. Palliative treatment with Sm-153 EDTMP is considered as adjuvant to palliative external beam radiotherapy. Advantage of bone - targeting radiopharmaceuticals is that simultaneous palliation of multiple metastatic foci. Purpose: The aim of this study was to evaluate therapeutcal efficacy of Sm-153 EDTMP for painful bone metastases. Methods: A retrospective study is conducted from August 2018 to May 2020. Data Processing with SPSS 20.0 software. Results: 27 patients were enrolled in the study. Overall response rate is 74%, in which complete response accounted for 33,3% and partial response is 40,7%. Average duration of Pain relief is 15,8 weeks. Bone marraw toxicity with relatively low rate under 25% is transitory, most of them is recovery after 8 – week treatment duration. Conclusions: Palliative treatment with Sm-153 EDTMP demonstrates effacy with high response rate. Duration of pain relief is prolonged. Hemotoxicity is relatively low, transitory and almost recovery after 8 - week treatment duration.
File đính kèm:
- hieu_qua_dieu_tri_giam_dau_ung_thu_di_can_xuong_bang_thuoc_p.pdf