Hiện trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và mức sẵn lòng trả giảm thiểu rủi ro sức khỏe trong sản xuất rau - trường hợp điển hình ở huyện Bình Chánh
Nghiên cứu đánh giá hiện trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) và khảo sát mức sẵn lòng
trả (WTP) giảm thiểu rủi ro sức khỏe do tiếp xúc với thuốc BVTV và phân tích tác động biên liên
quan. Sự lo lắng gia tăng nhanh chóng quá trình sử dụng thuốc gần đây và kết quả cho thấy nhóm
sản xuất rau thường có xu hướng sử dụng nhiều hơn các loại thuốc BVTV, đồng thời vượt quá
liều lượng khuyến cáo so với nhóm canh tác VietGAP. Ngoài ra, mô hình nghiên cứu góp phần
giải thích sự thay đổi mức giá sẵn lòng trả của nông dân. Kết quả ước lượng xác định được các
biến yếu tố tác động đến mức WTP. Trong đó, kết quả chỉ ra các biến khuyến nông (X3), thu nhập
(X4), lượng thuốc BVTV nhóm I&II (X5), số lần tiếp xúc thuốc BVTV nhóm I&II (X7), biến giả GAP
(GAP) có ý nghĩa về mặt thống kê.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và mức sẵn lòng trả giảm thiểu rủi ro sức khỏe trong sản xuất rau - trường hợp điển hình ở huyện Bình Chánh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 112 HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT VÀ MỨC SẴN LÒNG TRẢ GIẢM THIỂU RỦI RO SỨC KHỎE TRONG SẢN XUẤT RAU – TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH Ở HUYỆN BÌNH CHÁNH CURRENT STATUS OF PESTICIDE USE AND WILLINGNESS TO PAY (WTP) TO REDUCE HEALTHY RISKS OF VEGETABLE PRODUCTION ACTIVITIES – CASE STUDY IN BINH CHANH DISTRICT Ngày nhận bài: 26/02/2020 Ngày chấp nhận đăng: 28/03/2020 Vũ Thị Ánh Ngọc, Nguyễn Kim Thoa, Nguyễn Minh Kỳ TÓM TẮT Nghiên cứu đánh giá hiện trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) và khảo sát mức sẵn lòng trả (WTP) giảm thiểu rủi ro sức khỏe do tiếp xúc với thuốc BVTV và phân tích tác động biên liên quan. Sự lo lắng gia tăng nhanh chóng quá trình sử dụng thuốc gần đây và kết quả cho thấy nhóm sản xuất rau thường có xu hướng sử dụng nhiều hơn các loại thuốc BVTV, đồng thời vượt quá liều lượng khuyến cáo so với nhóm canh tác VietGAP. Ngoài ra, mô hình nghiên cứu góp phần giải thích sự thay đổi mức giá sẵn lòng trả của nông dân. Kết quả ước lượng xác định được các biến yếu tố tác động đến mức WTP. Trong đó, kết quả chỉ ra các biến khuyến nông (X3), thu nhập (X4), lượng thuốc BVTV nhóm I&II (X5), số lần tiếp xúc thuốc BVTV nhóm I&II (X7), biến giả GAP (GAP) có ý nghĩa về mặt thống kê. Từ khóa: Thuốc BVTV; mức sẵn lòng trả; rủi ro sức khỏe; VietGAP. ABSTRACT This study assessed the status of pesticide use and willingness to pay (WTP) surveys to reduce healthy risks due to exposure to pesticides and analyzed the marginal effects. In recent times, the concern about the use of pesticides is rising rapidly, the normal vegetable producers tended to use more pesticides and exceed recommended doses compared to VietGAP’s group. Furthermore, the regression model contributed to explain the changes in farmers' WTP. The estimation results represent the factors that can affect the WTP are variables. In which, the study showed agricultural promotion (X3), income (X4), the amount of pesticides group I&II (X5), the frequency of exposure of pesticides group I&II (X7) and the dummy variable GAP (GAP) were statistically significant. Keywords: Pesticides; willingness to pay; healthy risk; VietGAP.. 1. Đặt vấn đề Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) là một trong những đe doa nghiêm trọng và có những tác động tiêu cực đối với môi trường và sức khoẻ con người (Damalas, 2009). Tổ chức Y tế thế giới ước tính mỗi năm có khoảng 3.000.000 trường hợp ngộ độc cấp tính thuốc trừ sâu và khoảng 20.000 ca tử vong mỗi năm chủ yếu ở các nước đang phát triển (WHO, 1990). Cùng với việc ứng dụng công nghiệp hóa chất trong sản xuất nông nghiệp, con số này đã tăng lên xấp xỉ 67.000 người mỗi năm. Năm 2003 đã tăng lên rất nhanh số vụ ngộ độc thuốc BVTV, trong đó có khoảng 220.000 vụ tử vong (WHO, 2003). Ước lượng mỗi năm có khoảng 3% lao động trong nông nghiệp ở các nước đang phát triển (25 triệu người) bị nhiễm độc thuốc BVTV (WHO, 2009). Tại Việt Nam, quá trình cải cách kinh tế và nông nghiệp những năm 1980 đã gia tăng sử dụng hóa chất nông nghiệp, thuốc trừ sâu và kể cả một số loại thuốc cấm Vũ Thị Ánh Ngọc, Nguyễn Kim Thoa, Nguyễn Minh Kỳ, Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 113 và bị hạn chế vì độc tính cao (FAO, 2004). Trong khi, người nông dân nước đang phát triển lại có khuynh hướng sử dụng thuốc trừ sâu với số lượng ngày càng gia tăng. Do đó, nguy cơ nông dân đối mặt rủi ro suy giảm sức khỏe nghiêm trọng do tiếp xúc thường xuyên với thuốc BVTV, đồng thời gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường và thiệt hại kinh tế. Xuất phát từ đó, một số phương pháp canh tác mới như sản xuất rau an toàn (RAT) đã được nghiên cứu và ứng dụng nhằm giảm thiểu rủi ro từ thuốc BVTV cũng như mang lại lợi ích kinh tế cao. Tuy nhiên, các yêu cầu về việc sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất RAT chưa thực sự nghiêm ngặt. Điều đó có nghĩa, người nông dân trực tiếp tiếp xúc với thuốc vẫn còn nguy cơ ngộ độc cao. Thực tế hiện trạng sử dụng thuốc BVTV ở nước ta trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp ngày càng đa dạng. Ngoài ra, còn có hiện tượng phòng trừ liên tục một loại thuốc cho tới khi nhận thấy giảm sút mới chuyển sang thuốc khác. Năm 2008, Việt Nam đã ban hành Quyết định về quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cho rau, quả tươi an toàn (VietGAP). Sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP là hình thức cao của sản xuất RAT với những cải thiện trong cách sử dụng thuốc BVTV. Hiện nay, TP. Hồ Chí Minh có chín hợp tác xã (HTX) và 33 tổ hợp tác sản xuất RAT. Trong đó, HTX Phước An nằm trên địa bàn xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh là một trong những đơn vị chuyên trồng rau, củ sạch đạt chứng nhận VietGAP. Quá trình áp dụng sản xuất rau sạch theo tiêu chuẩn VietGAP có nhiều cải thiện so với phương thức sản xuất rau thông thường (RTT), đặc biệt là trong sử dụng thuốc BVTV. Nhằm xem xét các yếu tố liên quan đến thuốc BVTV tác động đến sản xuất và giảm thiểu rủi ro sức khỏe cho các hộ trồng rau, nghiên cứu được tiến hành dựa trên lý thuyết mức sẵn lòng trả (Willingness to pay - WTP). Do đó, đề tài “Hiện trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và mức sẵn lòng trả giảm thiểu rủi ro sức khỏe trong sản xuất rau – Trường hợp điển hình ở huyện Bình Chánh” có ý nghĩa thực tiễn đối với việc đề xuất giải pháp thích hợp bảo vệ sức khỏe cộng đồng. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết và nghiên cứu liên quan Khi dữ liệu thị trường không có sẵn hoặc không đáng tin cậy cho việc đánh giá một loại hàng hóa nào đó, các nhà kinh tế có thể áp dụng các phương pháp định giá ngẫu nhiên (Contigent Valuation Method – CVM) dựa vào việc xây dựng một thị trường giả định (Cookson, 2003). Thông qua thị trường giả định đó các nhà nghiên cứu có thể thăm dò WTP của các cá nhân cho một sự thay đổi về chất lượng. WTP thường được dùng trong các trường hợp cải thiện ... uân thủ các quy định về an toàn khi sử dụng thuốc BVTV. Do đó rủi ro môi trường và sức khỏe thấp hơn nông dân sản xuất RTT, mức giá sẵn lòng trả thấp. 2.5. Phương pháp thống kê và xử lý số liệu Các số liệu được tính toán tần suất (f, %), giá trị trung bình (Mean) và độ lệch chuẩn (SD). Số liệu sau khi thu thập được tiến hành thủ tục kiểm định và phân tích hồi quy (phương pháp OLS). 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 3.1. Thống kê sơ bộ mẫu nghiên cứu Bảng 2 trình bày kết quả thống kê sơ bộ mẫu nghiên cứu các hộ sản xuất rau trên địa bàn huyện Bình Chánh. Độ tuổi đối tượng phỏng vấn ở hai nhóm tương đối cao và tương đồng với số năm kinh nghiệm. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ tuổi trung bình, trình độ học vấn và kinh nghiệm trồng rau giữa hai nhóm (p>0,01). Tuy nhiên, có sự khác biệt ý nghĩa thống kê về số lần tham gia khuyến nông của hai nhóm hộ (p<0,01). Nhóm hộ trồng rau theo tiêu chuẩn VietGAP có số lần tham gia khuyến nông cao hơn nhóm trồng RTT với trị trung bình lần lượt 2,97 (SD=0,43) và 0,47 (SD=0,32). Do đó, khả năng nhận thức về tác hại của thuốc BVTV, ATVSTP và khả năng áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất của nhóm VietGAP cao hơn nhóm trồng RTT. Ngoài ra, đối với tổng thu nhập giữa hai nhóm hộ nông dân cũng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Nông hộ ở hai nhóm có thu nhập bình quân khá cao, của nhóm VietGAP trung bình 12,25 (SD=3,54) triệu đồng/hộ/tháng và nhóm RTT là 9,70 (SD=2,27) triệu đồng/hộ/tháng và nguồn thu nhập chủ yếu từ hoạt động trồng rau. Bảng 2. Thống kê sơ bộ mẫu nghiên cứu Đặc điểm Nhóm VietGAP (A) Nhóm RTT (B) Chênh lệch (A-B) Tuổi (năm) 47,80±3,57 49,03±5,61 -1,23ns Học vấn (số năm đi học) 7,53±1,02 6,67±0,93 0,86ns Kinh nghiệm (năm) 18,5±2,34 17,5±2,31 1,00ns Khuyến nông (lần) 2,97±0,43 0,47±0,32 2,50** Thu nhập (triệu đồng) 12,25±3,54 9,70±2,27 2,80** Chú thích: Các giá trị tính toán: Trung bình±Độ lệch chuẩn; **: = 0,01; ns: Không có ý nghĩa thống kê TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 117 3.2. Hiện trạng sử dụng thuốc BVTV Hóa chất BVTV có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng (Shettyl et al., 2011). Khảo sát thực tế các hộ dân trồng rau trong và ngoài HTX cho thấy sâu rầy thường xuất hiện nhiều vào mùa mưa, vì thế lượng thuốc BVTV được sử dụng nhiều. Các bệnh thường xuất hiện trên rau muống như sâu khoang, rầy, bệnh rỉ trắng; rau mồng tơi thường hay mắc chứng bệnh đốm lá, sâu xanh, sâu khoang, sâu róm. Bảng 3 và 4 tổng hợp kết quả khảo sát hiện trạng sử dụng thuốc BVTV các hộ sản xuất ở địa bàn nghiên cứu. Trong các loại thuốc diệt cỏ được sử dụng, có 2 loại nhóm II gây nguy hiểm rất lớn đối với sức khỏe là Gramoxone 20 SL và Anco 600 DD. Loại thuộc nhóm III (Vifoxat 240DD) được xem là ít nguy hiểm và không thể hiện mối nguy cấp tính khi sử dụng bình thường. Mặc dù lượng thuốc Vifoxat được sử dụng không vượt quá quy định cho phép nhưng có thể tiềm tàng gây ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng. Riêng các hộ dân trồng RTT có xu hướng sử dụng chủ yếu 2 loại thuốc diệt cỏ thuộc nhóm độc II gồm Gramoxone 20 SL và Anco 600 DD và đều vượt quá liều lượng khuyến cáo. Thuốc trừ sâu có thể gây những ảnh hưởng tiêu cực nhất là đối với các đối tượng nhạy cảm như phụ nữ hay trẻ em. Bảng 3. Hiện trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật vụ mùa tháng 6-7 Chú thích: ĐVT-Đơn vị tính; SHSD-Số hộ sử dụng; LSDTT-Liều sử dụng thực tế Đối với loại thuốc trừ sâu rầy của 2 nhóm hộ sử dụng gồm 6 loại, trong đó 4 loại nhóm độc II (Ammater, Bassa 50EC, Selecron, Sec Sai Gon) và 2 loại nhóm độc III (Regent, Radiant 60SC). Các nông hộ sản xuất VietGAP sử dụng 3 loại gồm 1 loại nhóm độc II, 2 loại nhóm độc III. Lượng thuốc Ammater và Radiant 60SC sử dụng cao hơn liều lượng khuyến cáo trong cả 2 vụ. Những hộ sản xuất RTT sử dụng 6 loại thuốc trừ sâu và có xu hướng sử dụng nhiều hơn thuốc nhóm độc II. Thuốc trừ sâu là con dao hai lưỡi và có thể gây ra những tổn hại về mặt kinh tế lẫn môi trường. Trong khi, liều lượng sử dụng của các hộ dân canh tác RTT có 5/6 loại vượt quá liều lượng khuyến cáo. Điều này cho thấy mối nguy rủi ro cao về mặt môi trường, sức khỏe trong các hoạt động sản xuất RTT. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 118 Bảng 4. Hiện trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật vụ mùa tháng 9-10 Chú thích: ĐVT-Đơn vị tính; SHSD-Số hộ sử dụng; LSDTT-Liều sử dụng thực tế 3.3. Mức sẵn lòng trả WTP giảm thiểu rủi ro sức khỏe Nghiên cứu khảo sát mức giá sẵn lòng trả thêm nhằm sử dụng thuốc BVTV thay thế đáp ứng nhu cầu bảo vệ môi trường và phòng tránh rủi ro sức khỏe. Nhìn chung, mức sẵn lòng trả thêm dao động trong khoảng từ 5.000 đến 30.000 đồng. Trong đó, tần suất lựa chọn mức giá 10.000 và 15.000 đồng cao nhất, ứng với tỷ lệ 41,7 và 21,7%. Mức chọn lựa ở giá cao 30.000 đồng chiếm tỷ lệ thấp nhất, chiếm 3,3%. Mức giá sẵn lòng chọn lựa tăng thêm 5.000 và 25.000 đồng ở cấp độ trung bình với 18,3 và 10,0%. Tuy nhiên, so sánh giữa các nhóm nông hộ cho thấy giá trị WTP nhóm sản xuất RTT có xu hướng cao hơn so với nhóm VietGAP. Giá trị chọn lựa trung bình các nhóm VietGAP và RTT lần lượt tương ứng 10.000 và 15.667 đồng. Kết quả chọn lựa mức giá cao từ 20.000 đến 30.000 đồng ở nhóm RTT chiếm tỷ lệ 6,7; 20,0; 3,3%; trong khi ở nhóm VietGAP chỉ đạt 3,3; 0,0; 3,3%. Ngược lại, nhóm VietGAP lựa chọn chủ yếu ở mức giá 5.000 và 10.000 đồng với tỷ lệ 33,3 và 46,7%. So sánh WTP ở một số nước cho thấy, người nông dân ở Philippines có thể chi trả thêm mức giá 13,5–20,5 USD/vụ để tránh các rủi ro sức khỏe từ thuốc BVTV (Cuyno et al., 2001). Kết quả nghiên cứu tại Trung Quốc về mức WTP cho hoạt động phòng tránh rủi ro môi trường, sức khỏe do thuốc BVTV ước tính lên tới 65,38 USD mỗi hộ/năm (Wang et al., 2018). Qua đó có thể thấy sự lựa chọn mức giá tăng thêm có sự khác biệt giữa các quốc gia, đồng thời qua đó cho thấy sự nhận thức của người dân trong việc góp phần bảo vệ chất lượng môi trường, hệ sinh thái và ý thức sức khỏe trong hoạt động sản xuất. Bảng 5 thể hiện ước lượng hồi quy hàm Log - Lin bằng phương pháp OLS xác định các yếu tố tác động đến WTP của nông dân khi tiếp xúc với thuốc BVTV. TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 119 Bảng 5. Kết quả ước lượng mô hình Log – Lin bằng phương pháp OLS Biến độc lập Hệ số β Thống kê t Giá trị P Constant -1,506250 -18,73360 0,0000 HOCVAN (X1) -0,002594 ns - 0,567952 0,5726 KINHNGHIEM (X2) -0,000877 ns - 0,602800 0,5494 KHUYENNONG (X3) -0,034159*** -3,505653 0,0010 THUNHAP (X4) 0,012970*** 5.117979 0,0000 TONGLUONG I&II (X5) 0,001020*** 4,415337 0,0001 TONGLUONG III&IV (X6) 0,000117 ns 0,609852 0,5447 SOLAN I&II (X7) 0,025642*** 3,001736 0,0042 SOLAN III&IV (X8) 0,004480 ns 0,504827 0,6159 GAP -0,044503* -1,847944 0,0705 Log likelihood = 91,84757; R-squared = 0,864520; Adjusted R-squared = 0,840134; Probability(LR stat) <0,0000001 Chú thích: ***: = 0,01; **: = 0,05; *: = 0,1; ns: Không có ý nghĩa thống kê. Mô hình nghiên cứu cho thấy các biến độc lập tiêu biểu có thể sử dụng giải thích sự thay đổi mức giá sẵn lòng trả của nông dân. Kết quả ước lượng chỉ ra các biến quan trọng như khuyến nông (X3), thu nhập (X4), lượng thuốc BVTV nhóm I&II (X5) và số lần tiếp xúc thuốc BVTV nhóm I&II (X7) có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Biến giả phương thức sản xuất rau (GAP) có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Nghiên cứu thể hiện sự tương đồng WTP và tác động tích cực có ý nghĩa của biến số thu nhập người dân (Wang et al., 2018). Ngược lại, các biến trình độ học vấn của người phun thuốc (X1), kinh nghiệm của người dân trồng rau (X2), tổng lượng thuốc BVTV nhóm III&IV (X6), số lần tiếp xúc với thuốc III&IV (X8) không có ý nghĩa thống kê (p>0,1). Điều này có thể được giải thích theo như số liệu thu thập các nông hộ ở hai nhóm hộ với trình độ học vấn khá hạn chế và không có sự chênh lệch nhiều nên biến học vấn hầu như không tác động đến giá WTP của nông hộ. Kinh nghiệm trồng rau của hai nhóm hộ tương đối cao và xấp xỉ bằng nhau, tuy nhiên nó không ảnh hưởng đến giá WTP. Biến lượng thuốc BVTV và số lần tiếp xúc nhóm thuốc BVTV III&IV không tác động đến giá WTP. Có thể thấy nông dân hầu như không quan tâm đến tác động của nhóm này vì nghĩ rằng chúng ít độc mà chỉ quan tâm đến tác động của nhóm thuốc BVTV I&II. Chẳng hạn như các hộ trồng rau VietGAP sử dụng thuốc diệt sâu rầy Bassa 50EC (nhóm độc II) với liều lượng 120,0 ml/1000m2 và nằm trong giới hạn khuyến cáo. Tương tự, đối với nhóm trồng RTT cũng sử dụng trong ngưỡng khuyến cáo với liều lượng 180,0 ml/1000m2. Trong khi, đối với loại thuốc Radiant 60SC (nhóm độc III) được sử dụng vượt quá liều lượng khuyến cáo với lần lượt 35,0 ml/1000m2 (nhóm trồng rau VietGAP) và 37,0 ml/1000m2 (nhóm trồng RTT). Kết quả nghiên cứu có thể cung cấp thông tin hữu ích cho quá trình ra các quyết sách hữu hiệu giải quyết các vấn đề về an toàn sức khỏe sử dụng thuốc BVTV cho nông dân. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 120 Như vậy, kết quả mô hình nghiên cứu WTP để giảm rủi ro môi trường, sức khỏe của nông dân được thể hiệu qua phương trình: LN (WTP) = -1,506250 - 0,034159X3 + 0,012970X4 + 0,001020X5 + 0,025642X7 - 0,044503GAP. Trong đó, với các nhân tố ảnh hưởng đến mức sẵn lòng trả của người dân cho thấy tác động mạnh của các biến khuyến nông, tần suất lần tiếp xúc thuốc BVTV nhóm I&II và yếu tố tiêu chuẩn VietGAP. 4. Kết luận Nghiên cứu chỉ ra các nhóm trồng rau tại khu vực nghiên cứu đã lạm dụng liều lượng thuốc BVTV trong sản xuất. Nông dân trồng rau theo tiêu chuẩn VietGAP đã có cải thiện trong cách sử dụng nhóm thuốc ít độc hơn. Mức sẵn lòng trả của người dân dao động trong khoảng 5.000 đến 30.000 đồng. Ước lượng mô hình hồi quy xác định các yếu tố tác động đến WTP của nông dân khi tiếp xúc với thuốc BVTV với phương trình: LN (WTP) = -1,506250 - 0,034159X3 + 0,012970X4 + 0,001020X5 + 0,025642X7 - 0,044503GAP. Trong đó, mô hình giải thích 84,01% sự thay đổi của mức giá sẵn lòng trả của nông dân. Kết quả nghiên cứu góp phần đưa ra một số giải pháp chính sách nhằm giảm rủi ro môi trường, sức khỏe cho nông dân trong các hoạt động canh tác rau trên địa bàn Bình Chánh. Cụ thể, về lâu dài cần khuyến khích người dân thực hành theo hướng VietGAP giảm thiểu rủi ro môi trường, sức khỏe; huy động tích cực tham gia tập huấn về rau an toàn; và hỗ trợ thông qua chính sách vay vốn ưu đãi. Đối với các cấp chính quyền tăng cường công tác thanh kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh, phân phối thuốc BVTV và tạo điều kiện cung ứng sản phẩm thân thiện môi trường và an toàn sức khỏe cộng đồng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Cookson, R., (2003). Willingness to pay methods in health care: a sceptical view. Health Econ., 12(11), 891-4. Coulibaly, O., Nouhoheflin, T., Aitchedji, C.C., Cherry, A.J., Adegbola, P., (2011). Consumers' Perceptions and Willingness to Pay for Organically Grown Vegetables. International Journal of Vegetable Science, 17(4), 349-362. Cuyno, L.C.M., Norton, G.W., Rola, A., (2001). Economic analysis of environmental benefits of integrated pestmanagement: A Philippine case study. Agric. Econ., 25, 227– 233. Damalas, C.A., (2009). Understanding benefits and risks of pesticide use. Scientific Research and Essays. 4(10), 945–949. Diener, A., O'Brien, B., Gafni, A., (1998). Health care contingent valuation studies: a review and classification of the literature. Health Econ., 7(4), 313-26. Food and Agriculture Organization of the United Nations (FAO) (2004). Archive on Fertilizers and Pesticides, Rome, Food and Agriculture Organization of the United Nations. Garming, H., Waibel, H., (2009). Pesticides and farmer health in Nicaragua: a willingness- to-pay approach to evaluation. Eur J Health Econ., 10(2), 125-33. Hanley, N., Ryan, M., Wright, R., (2003). Estimating the monetary value of health care: lessons from environmental economics. Health Econ., 12(1), 3-16. TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 121 Jahangir, K., Aditya ,R. K., Kar, H. L., Abbas, U.J., Syed, A. S., (2018). Willingness to Pay for Pesticide Free Fruits: Evidence from Pakistan. Journal of International Food & Agribusiness Marketing, 30(4), 392-408. Khan, M., Damalas, C.A., (2015). Farmers’ willingness to pay for less health risks by pesticide use: A case study from the cotton belt of Punjab, Pakistan. Sci. Total Environ., 530–531, 297–303. Muhammad, K., (2009). Economic Evaluation of Health Cost of Pesticide Use: Willingness to Pay Method., Pakistan Development Review, 48(4), 459-472. Shettyl, P.K., Hiremath, M.B., Murugan, M., Nerli, R.B., (2011). Farmer`s health externalities in pestidice use predominant region in India. World journal of Science & Technology, 1, 1-11. Huỳnh Thị Như Quý (2012). Tác động của việc cải thiện sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo hướng VietGAP đến chi phí sức khỏe nông dân tại hợp tác xã Ngã Ba Giồng, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn Thạc sỹ, Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh. Wang, W., Jin, J., He, R., Gong, H., Tian, Y., (2018). Farmers' Willingness to Pay for Health Risk Reductions of Pesticide Use in China: A Contingent Valuation Study. International journal of environmental research and public health, 15(4), 625. World Health Organization (WHO) (1990). Public Health Impact of Pesticides Used in Agriculture, Geneva, Witzerland, WHO Press. World Health Organization (WHO) (2003). The World Health Report 2003: Shaping the Future, Geneva, Witzerland, WHO Press. World Health Organization (WHO) (2009). Global health risks – 2009: Mortality and burden of disease attributable to selected major risks, Geneva, Witzerland, WHO Press.
File đính kèm:
- hien_trang_su_dung_thuoc_bao_ve_thuc_vat_va_muc_san_long_tra.pdf