Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2020

Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát công tác đánh giá và can thiệp dinh dưỡng bước đầu tại bệnh

viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh.

Phương pháp: Cắt ngang mô tả, 275 bệnh nhân đang điều trị nội trú tại bệnh viện Ung Bướu Thành

phố Hồ Chí Minh từ tháng 5/2020 đến tháng 8/2020.

Kết quả: 34.2% bệnh nhân suy dinh dưỡng và có nguy cơ suy dinh dưỡng bị bỏ sót. 43.6% bệnh nhân

không được cân đo thực tế lúc nhập viện. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng chủ yếu dựa vào BMI, 83.6%

trường hợp không đánh giá tình trạng sụt cân và 85.5% không đánh giá tình trạng ăn kém. 43.3% trường

hợp ghi sai mã chế độ ăn trong hồ sơ bệnh án. 52.7% bệnh nhân chi được đánh giá tình trạng dinh dưỡng

1 lần trong suốt quá trình điều trị.

Kết luận: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và can thiệp dinh dưỡng đã được triển khai trên 100% khoa

lâm sàng nhưng còn mang tính hình thức và có nhiều sai sót. Do vậy, tập huấn, giám sát công tác đánh

giá và can thiệp dinh dưỡng là công tác không thể thiếu của khoa Dinh dưỡng - tiết chế.

Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2020 trang 1

Trang 1

Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2020 trang 2

Trang 2

Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2020 trang 3

Trang 3

Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2020 trang 4

Trang 4

Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2020 trang 5

Trang 5

Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2020 trang 6

Trang 6

Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2020 trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 7200
Bạn đang xem tài liệu "Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2020

Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2020
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 388 
HIỆN TRẠNG ĐÁNH GIÁ VÀ CAN THIỆP DINH DƯỠNG 
TRÊN NGƯỜI BỆNH NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU 
TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2020 
NGUYỄN THANH THỦY TRANG1, TRẦN THỊ ANH TƯỜNG1, 
LÊ THỊ THÙY TRANG1, NGUYỄN HỒNG QUANG1 
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thanh Thủy Trang 
Email: bsthuytrang1988@gmail.com 
Ngày nhận bài: 02/10/2020 
Ngày phản biện: 03/11/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 
1 Khoa Dinh dưỡng - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tầm soát, chẩn đoán và can thiệp dinh dưỡng 
rất quan trọng với bệnh nhân ung thư, vì tỉ lệ suy 
dinh dưỡng khá cao so với các mặt bệnh khác. 
Do đó, hướng dẫn của Hiệp hội Dinh dưỡng Lâm 
sàng và Chuyển hóa Châu Âu (ESPEN) khuyến cáo 
rằng nên thường xuyên đánh giá lượng dinh dưỡng, 
sự thay đổi cân nặng và BMI, bắt đầu trong quá trình 
chẩn đoán ung thư và được lặp lại tùy thuộc vào 
sự ổn định của tình trạng lâm sàng[1]. Tại thời điểm 
nhập viện, tỉ lệ này trên thế giới dao động từ 30 - 
80%. Trong hai nghiên cứu về bệnh nhân ung thư 
đầu cổ và tiêu hóa ở bệnh viện Ung Bướu Thành 
phố Hồ Chí Minh là 16 - 67%[5,9]. Gần 30% bệnh 
nhân ung thư tiếp tục sụt cân trong quá trình điều trị. 
Sụt 10% cân nặng là yêu tố nguy cơ dự đoán giảm 
hiệu quả điều trị, tăng tái phát và giảm sống còn[8]. 
Đáng tiếc là, mặc dù sàng lọc và đánh giá tình trạng 
dinh dưỡng đã được công nhận và là một phần của 
một số hướng dẫn quốc gia và quốc tế, nhưng lại 
không được thực hiện ở tất cả các cơ sở y tế. Trong 
nghiên cứu cắt ngang nổi tiếng "NutriDay" được 
thực hiện trong năm 2007 - 2008, 21.007 bệnh nhân 
từ 325 bệnh viện ở 25 quốc gia châu Âu, cho thấy 
quy trình khám sàng lọc chỉ tồn tại ở một nửa (53%) 
bệnh viện, hầu hết được thực hiện bằng các phương 
pháp tự phát tại địa phương[10]. Trong khi 93% đơn 
vị ở Vương quốc Anh thực hiện sàng lọc định kỳ 
bệnh nhân suy dinh dưỡng khi nhập viện, thì chưa 
đến 33% đơn vị áp dụng phương pháp này ở Áo, 
Đức và khu vực Đông Nam Bộ[10]. Một nghiên cứu 
tại Anh quốc, trên 334 bác sĩ ung thư cho thấy chỉ có 
65% quan tâm đến tầm quan trọng của suy dinh 
dưỡng lên độc tính và tỉ lệ tử vong[2]. Các trường 
hợp suy dinh dưỡng không được phát hiện đầy đủ 
do có đến 2/3 các bác sĩ đánh giá tình trạng dinh 
dưỡng dựa trên BMI, không chú ý đến tình trạng sụt 
cân và ăn kém[2]. 
BMI là thông số đơn giản thường được sử 
dụng, nhưng hạn chế ở bệnh nhân phù và cổ 
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát công tác đánh giá và can thiệp dinh dưỡng bước đầu tại bệnh 
viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh. 
Phương pháp: Cắt ngang mô tả, 275 bệnh nhân đang điều trị nội trú tại bệnh viện Ung Bướu Thành 
phố Hồ Chí Minh từ tháng 5/2020 đến tháng 8/2020. 
Kết quả: 34.2% bệnh nhân suy dinh dưỡng và có nguy cơ suy dinh dưỡng bị bỏ sót. 43.6% bệnh nhân 
không được cân đo thực tế lúc nhập viện. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng chủ yếu dựa vào BMI, 83.6% 
trường hợp không đánh giá tình trạng sụt cân và 85.5% không đánh giá tình trạng ăn kém. 43.3% trường 
hợp ghi sai mã chế độ ăn trong hồ sơ bệnh án. 52.7% bệnh nhân chi được đánh giá tình trạng dinh dưỡng 
1 lần trong suốt quá trình điều trị. 
Kết luận: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và can thiệp dinh dưỡng đã được triển khai trên 100% khoa 
lâm sàng nhưng còn mang tính hình thức và có nhiều sai sót. Do vậy, tập huấn, giám sát công tác đánh 
giá và can thiệp dinh dưỡng là công tác không thể thiếu của khoa Dinh dưỡng - tiết chế. 
Từ khóa: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng, can thiệp dinh dưỡng, ung thư, bệnh viện Ung Bướu 
TP. Hồ Chí Minh. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 389 
trướng. Ngày nay, thay vì chỉ sử dụng 1 thông số cụ 
thể để tầm soát và đánh giá tình trạng dinh dưỡng, 
nhiều yếu tố được kết hợp để đánh giá nguy cơ dinh 
dưỡng và đánh giá tình trạng dinh dưỡng. MUST, 
NRS 2002, MNA, và MST là những công cụ sàng lọc 
nguy cơ dinh dưỡng đã được kiểm chứng và sử 
dụng rộng rãi[7]. Mặc dù các công cụ áp dụng trên 
các bệnh nhân mục tiêu khác nhau, tất cả các công 
cụ sàng lọc đều sử dụng các thông số về BMI, tình 
trạng sụt cân, tình trạng ăn kém và bệnh kèm theo[1]. 
PG-SGA (Scored Patient - Generated Subjective 
Global Assessment) đã được dùng để đánh giá tình 
trạng dinh dưỡng đầy đủ cho bệnh nhân ung thư 
trưởng thành, nhưng rất khó để các bác sĩ ung thư 
thực hành trên các khoa lâm sàng[6]. Tại bệnh viện 
Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi lựa 
chọn xây dựng phiếu đánh giá tình trạng dinh dưỡng 
dựa trên phương pháp NRS 2002. 
Nhân viên y tế tại các khoa lâm sàng có thể can 
thiệp dinh dưỡng bước đầu bằng việc tư vấn dinh 
dưỡng, hướng dẫn bổ sung dinh dưỡng đường 
miệng và cho khám - hội chẩn dinh dưỡng với khoa 
Dinh dưỡng - Tiết chế. Trong 1 thử nghiệm ngẫu 
nhiên có đối chứng tại Anh, Cochrane báo cáo rằng 
tư vấn dinh dưỡng có tác dụng cải thiện tình trạng 
sụt cân và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân ung 
thư[4]. Ngoài tư vấn dinh dưỡng, một đánh giá có hệ 
thống và phân tích tổng hợp 13 nghiên cứu báo cáo 
rằng các bổ sung dinh dưỡng đường uống có tác 
dụng có lợi đối với chất lượng cuộc sống, giúp tăng 
cân nhưng không làm giảm tỷ lệ tử vong ở bệnh 
nhân ung thư[3]. 
Nghiên cứu này nhằm nhìn lại hiệu quả của 
công tác thực hành dinh dưỡng bước đầu tại bệnh 
viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó tìm ra 
các giải pháp cải thiện. Nghiên cứu thông qua hai 
mục tiêu: 
Khảo sát hiện trạng đánh giá và tái đánh giá 
tình trạng dinh dưỡng định kỳ. 
Khảo sát hiện trạng can thiệp dinh dưỡng bước 
đầu tại các khoa lâm sàng. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
275 bệnh nhân đang điều trị nội trú trên 14 khoa 
lâm sàng (Nội 1, Nội 2, Nội 4, Chăm sóc giảm nhẹ, 
Ngoại 1, Ngoại 2, Ngoại 3, Ngoại 4, Ngoại 5, Ngoại 
6, Điều trị tổng hợp, Xạ 2, Xạ 3, Xạ 4) tại bệnh viện 
Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 5/2020 
đến tháng 8/2020. 
Các đối tượng được loại trừ khỏi nghiên cứu 
Các bệnh nhân ở khoa ICU (không lưu bệnh), 
Y học hạt nhân (khu vực cách ly). 
Các bệnh nhân ở khoa Nhi (công cụ đánh giá 
khác người lớn). 
Lấy mẫu ngẫu nhiên, mỗi khoa chọn 10 bệnh 
nhân bất kì, mỗi phòng 1 bệnh nhân theo số thứ tự 
phòng xoay vòng đến khi đủ 10 bệnh nhân. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. 
Phương pháp thu thập dữ liệu: Tra cứu qua hồ 
sơ, phỏng vấn bệnh nhân, kiểm tra thực tế tình trạng 
cân đo và hướng dẫn dinh dưỡng tại các khoa lâm 
sàng. Mỗi bệnh nhân được khảo sát trong khoảng 
10 phút. Sau khảo sát, chúng tôi dành ra khoảng 
10 phút để tổng kết và trao đổi với nhân viên các 
khoa phòng, lập biên bản kiểm tra. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 390 
Một số tiêu chí đánh giá 
Tầm soát và đánh giá suy dinh dưỡng theo bảng sau 
Can thiệp dinh dưỡng ban đầu của nhân viên y tế tại các khoa lâm sàng 
 Cân đo thực tế. 
 Ghi mã chế độ ăn hàng ngày, theo quy định của Bộ Y tế. 
 Tư vấn ăn uống cho các bệnh nhân ung thư suy dinh dưỡng. 
 Bổ sung dinh dưỡng hoặc hỗ trợ dinh dưỡng tĩnh mạch cho bệnh nhân ăn kém hay không ăn được 
qua đường miệng. 
 Đăng ký khám tư vấn - hội chẩn dinh dưỡng cho bệnh nhân nặng hay có bệnh nền (đái tháo đường, 
suy thận) và cho y lệnh theo tinh thần hội chẩn. 
 Tái khám dinh dưỡng theo hẹn. 
Nghiên cứu được chia làm 2 đợt, đợt 2 với các cải tiến chủ yếu về mặt hành chánh: 
1. Nội dung phiếu đánh giá tình trạng dinh dưỡng: 
 Thiết kế phiếu được tái sử dụng tối đa 6 lần đánh giá. 
 Dùng vòng cánh tay thay cho cân nặng, dành cho bệnh nhân có phù, bụng báng. 
2. Dán các phiếu đánh giá tình trạng dinh dưỡng vào 1 vị trí trước phiếu điều trị. 
3. Nội dung bảng mã chế độ ăn. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 391 
Phương pháp phân tích và thống kê: Thống kê mô tả, trên phần mềm Stata. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1. Thực trạng suy dinh dưỡng tại bệnh viện Ung Bướu 
Đặc điểm (n = 275) n % 
Sụt cân (kg) trung bình trong quá trình điều trị 2 (-8 - 24) 
Tỉ lệ suy dinh dưỡng Khoa lâm sàng tự đánh giá 
Khoa Dinh dưỡng đánh giá 
86 
180 
31.3 
65.5 
Bảng 2. Hiện trạng tầm soát và đánh giá tình trạng dinh dưỡng 
Đặc điểm (n = 275) Trước cải tiến Sau cải tiến Chung 
Cân đo thực tế Chính xác 
Không chính xác 
Không cân đo 
41 (30.4%) 
34 (25.2%) 
60 (44.4%) 
43 (30.7%) 
37 (26.4%) 
60 (42.9%) 
84 (30.5%) 
71 (25.8%) 
120 (43.7%) 
Tính BMI Chính xác 
Không chính xác 
Không tính BMI 
53 (39.3%) 
48 (35.6%) 
34 (25.2%) 
50 (35.7%) 
47 (33.6%) 
43 (30.7%) 
103 (37.5%) 
95 (34.5%) 
77 (28%) 
Ghi nhận 
tình trạng sụt cân và ăn kém 
Thường xuyên 
Không thường xuyên 
Không ghi nhận 
24 (16.7%) 
2 (1.4%) 
118 (81.9%) 
18 (13.7%) 
1 (0.8%) 
112 (85.5%) 
42 (15.3%) 
3 (1.1%) 
230 (83.6%) 
Tái đánh giá 
thực tế tình trạng 
dinh dưỡng 
Nội dung chính xác 
Không chính xác 
Không thực hiện 
41 (30.4%) 
74 (54.8%) 
20 (14.8%) 
45 (32.1%) 
70 (50%) 
25 (17.9%) 
86 (31.3%) 
144 (52.4%) 
45 (16.3%) 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 392 
Bảng 3. Hiện trạng can thiệp dinh dưỡng bước đầu tại các khoa lâm sàng 
Đặc điểm (n = 275) Trước cải tiến Sau cải tiến Chung 
Ghi mã chế độ ăn theo hướng dẫn 
của Bộ Y tế 
Chính xác 
Không chính xác 
Không ghi, thiếu 
54 (40%) 
62 (45.9%) 
19 (14.1%) 
65 (46.4%) 
57 (40.7%) 
18 (12.9%) 
119 (43.3%) 
119 (43.3%) 
37 (13.4%) 
Bác sĩ hướng dẫn chế độ ăn và hỗ 
trợ dinh dưỡng 
Có 
Không 
91 (67.4%) 
44 (32.6%) 
93 (66.4%) 
47 (33.6%) 
184 (66.9%) 
91 (33.1%) 
Điều dưỡng hướng dẫn chế độ ăn Có Không 
79 (58.5%) 
56 (41.5%) 
82 (58.6%) 
58 (41.4%) 
161 (58.5%) 
114 (41.5%) 
Đăng ký khám tư vấn và hội chẩn 
dinh dưỡng 
Có, có tái khám 
Có, không tái khám 
Không đăng ký 
25 (18.5%) 
10 (7.4%) 
100 (74.1%) 
29 (20.7%) 
12 (8.6%) 
99 (70.7%) 
54 (19.6%) 
22 (8.0%) 
199 (72.4%) 
BÀN LUẬN 
Tại thời điểm tiến hành nghiên cứu đợt 1, có 2 
khoa lâm sàng không đủ 10 bệnh nhân nội trú nên 
chỉ thu thập đợt 1 là 135 bệnh nhân, đợt 2 là 140 
bệnh nhân. Những trường hợp bệnh nhân mới nhập 
viện hay chưa đến ngày tái đánh giá tình trạng dinh 
dưỡng, chúng tôi không không xếp vào nhóm không 
thực hiện tái đánh giá. Sau đợt khảo sát vào tháng 
5/2020, cùng với học hỏi kinh nghiệm từ các bệnh 
viện khác, chúng tôi đã thống kê ý kiến nhân viên, 
mỗi khoa 4 nhân viên đại diện gồm 1 ban chủ nhiệm 
khoa, 1 điều dưỡng trưởng, 1 bác sĩ, 1 điều dưỡng. 
Khi khảo sát ý kiến nhân viên đại diện, chúng tôi ghi 
nhận được nhiều rào cản trong thực hiện công tác 
dinh dưỡng tại các khoa lâm sàng, như thủ tục hành 
chánh nhiều, bệnh ung thư cần điều trị lâu dài nên 
nhiều phiếu đánh giá tình trạng dinh dưỡng làm dày 
hồ sơ bệnh án, một số thành viên mạng lưới dinh 
dưỡng lâm sàng đã nghỉ việc, nhân viên chưa có 
thói quen đánh giá tình trạng dinh dưỡng định kì và 
chưa thấy rõ ảnh hưởng của suy dinh dưỡng đối với 
bệnh nhân ung thư. Trong điều kiện hiện tại, chúng 
tôi cải tiến về các thủ tục hành chánh và tiếp tục duy 
trì tập huấn cho nhân viên. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận tỉ lệ 
bệnh nhân ung thư suy dinh dưỡng và có nguy cơ 
suy dinh dưỡng là 31.3 - 65.5%, phù hợp với các 
nghiên cứu trước đây tại bệnh viện Ung Bướu và 
trên thế giới. Mặc dù dùng chung 1 mẫu phiếu đánh 
giá tình trạng dinh dưỡng, nhưng kết quả đánh giá 
từ nhân viên khoa lâm sàng và nhân viên khoa 
Dinh dưỡng cho tỉ lệ suy dinh dưỡng khác biệt rõ rệt. 
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự khác biệt này là 
có hơn 40% bệnh nhân không được cân đo thực tế 
lúc nhập viện và cân đo định kì. Điều đáng ngạc 
nhiên là có đến 1/3 trường hợp có kết quả tính BMI 
không chính xác và gần 1/3 hồ sơ bệnh án không có 
ghi nhận BMI. Chỉ có 1 số khoa lâm sàng có ghi 
nhận tình trạng sụt cân và ăn kém. Như vậy, hơn 
80% trường hợp chỉ đánh giá tình trạng dinh dưỡng 
dựa vào BMI. Con số này khá cao, so với nghiên 
cứu tại Anh quốc (2/3 bác sĩ ung thư không chú ý 
đến tình trạng sụt cân và ăn kém). Cuối cùng, khi 
tổng hợp 4 thông số trong đánh giá tình trạng dinh 
dưỡng, 1/2 số bệnh nhân suy dinh dưỡng đã bị bỏ 
sót (31.3% so với 65.5%) và hơn 1/2 hồ sơ tái đánh 
giá tình trạng dinh dưỡng không chính xác. 
Mặc dù tổ chức tập huấn hàng năm, cùng với 
cải tiến giảm các thủ tục hành chánh, việc đánh giá 
tình trạng dinh dưỡng, hướng dẫn chế độ ăn tại 
giường bệnh, ghi mã chế độ ăn phù hợp vẫn chưa 
được cải thiện. Tỉ lệ bệnh nhân nội trú được hướng 
dẫn chế độ ăn và hỗ trợ dinh dưỡng tại phòng bệnh 
chỉ khoảng 60%. So với tỉ lệ suy dinh dưỡng tại 
bệnh viện là 65.5%, tỉ lệ bệnh nhân được khám 
tư vấn - hội chẩn dinh dưỡng chỉ chiếm 30%. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận ra những cải 
tiến của chúng tôi đã giảm được thủ tục hành chánh, 
đơn giản để ghi nhớ, dựa trên khảo sát sự hài lòng 
của nhân viên y tế lúc kiểm tra. Tuy nhiên, những cải 
tiến này không cải thiện được thói quen và sự quan 
tâm của nhân viên y tế về dinh dưỡng đã ảnh hưởng 
lên kết cục điều trị bệnh lý ung thư như thế nào trong 
thời gian vừa qua. Hiện tại, can thiệp dinh dưỡng 
trong bệnh viện hiện chủ yếu là do nhân viên khoa 
Dinh dưỡng - Tiết chế đảm trách. Cần có những đợt 
kiểm tra định kỳ thường xuyên hơn, những biện 
pháp chế tài rõ ràng sau khi đã đào tạo mạng lưới 
dinh dưỡng, với nhân lực là Trưởng các khoa 
phòng. Từ đó góp phần cải thiện chất lượng chăm 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 393 
sóc dinh dưỡng bệnh nhân tại bệnh viện Ung Bướu 
TP. Hồ Chí Minh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arends J, Bachmann P, Baracos V, et al. 
ESPEN guidelines on nutrition in cancer 
patients. Clin Nutr. 2017; 36: 11 - 48. 
2. A. Spiro, C. Baldwin, A. Patterson, et al (2006). 
The views and practice of oncologists towards 
nutritional support in patients receiving 
chemotherapy. Br J Cancer, 95 pp. 431-434. 
3. Baldwin C, Weekes CE. Dietary advice with or 
without oral nutritional supplements for disease-
related malnutrition in adults. Cochrane 
Database Syst Rev. 2011; (9): CD002008. 
4. Baldwin C, Spiro A, Ahern R, Emery PW. Oral 
nutritional interventions in malnourished patients 
with cancer: a systematic review and meta-
analysis. J Natl Cancer Inst. 2012; 104: 
371 - 385. 
5. Đoàn Trọng Nghĩa và cộng sự (2013). Khảo sát 
tình trang dinh dưỡng tiền phẫu của bệnh nhân 
ung thư đường tiêu hóa. Tạp chí Y Dược Học 
TP.HCM, 99 - 109. 
6. Isabela Borges Ferreira, et al (2015). Food 
intake and the nutritional status of women 
undergoing chemotherapy, pp 2209 - 2018. 
7. Isenring E, Elia M. Which screening method is 
appropriate for older cancer patients at risk for 
malnutrition? Nutrition. 2015; 31: 594 - 597. 
8. Michael J. Baine (2017). Tube Placement during 
chemoradiotherapy for locally advanced cancer 
of the Oropharynx. Do not negatively impact 
Outcomes. 
9. Phạm Thanh Thúy và cộng sự (2010). Khảo sát 
tình trạng dinh dưỡng bệnh nhân ung thư vùng 
đầu cổ. Tạp chí Y Học TP.HCM, 85 - 93. 
10. Schindler K., et al. How nutritional risk is 
assessed and managed in European hospitals: A 
survey of 21,007 patients findings from the 
2007 - 2008 cross-sectional nutritionDay survey. 
Clin. Nutr. 2010; 29: 552 - 559. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 394 
ABSTRACT 
The study aimed to examine the current status of nutritional assessment and intervention in Ho Chi 
Minh city Oncology hospital 
Methods: A cross-sectional description studie, including 275 patients who were treated in almost clinical 
departments in Ho Chi Minh city Oncology hospital from May 2020 to August 2020. 
Results: 34.2% of patients with malnutrition and malnutrition risk were missed. 43.6% of patients were not 
gotten weight at admission. The assessment of nutritional status was mainly based on BMI, 83.6% of cases 
whose weight loss were not recorded and 85.5% of cases were not followed intake. In 43.3% of cases, the 
dietary code was incorrectly recorded in the medical report. 52.7% of patients were nutritional assessed once 
during treatment. 
Conclusion: Nutritional status and interventions were done on all clinical departments, but there were still 
many mistakes. Training and monitoring of nutritional evaluation and intervention is an indispensable task of 
the Department of Nutrition and Dietetics. 
Key words: Assessment of nutritional status, nutritional intervention, cancer, Ho Chi Minh city Oncology 
hospital. 

File đính kèm:

  • pdfhien_trang_danh_gia_va_can_thiep_dinh_duong_tren_nguoi_benh.pdf