Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo
BÀI 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.Khái niệm nghèo, đói
1.1.1.Quan niệm về đói nghèo của quốc tế
Quan niệm về nghèo đói của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân
cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định
nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của
con người về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác
nhau chỉ là thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi. Điều này phụ thuộc vào trình độ
phát triển KTXH cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith quan niệm: “Con người bị coi là nghèo khổ
khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ
rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số
trong cộng đồng coi như các cần thiết tối thiểu để sống một cảnh đúng mức”.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo
Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 1 BÀI 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI 1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.Khái niệm nghèo, đói 1.1.1.Quan niệm về đói nghèo của quốc tế Quan niệm về nghèo đói của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chỉ là thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi. Điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển KTXH cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia. Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith quan niệm: “Con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số trong cộng đồng coi như các cần thiết tối thiểu để sống một cảnh đúng mức”. Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993 đó đưa ra khái niệm: nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển KTXH và phong tục tập quán của địa phương. Ủy ban này cũng đưa ra hai khái niệm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối: + Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. + Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng. WB đưa ra quan điểm về nghèo đói như sau: nghèo là một khái niệm đa chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất; nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu nhập mà còn gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như: dinh dưỡng, sức khỏe, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có quyền lực. Đây chính là cách tiếp cận đa chiều về khái niệm nghèo. Như vậy, quan điểm tiếp cận mới về nghèo không chỉ đề cập đơn thuần đến thu nhập mà cần phải hiểu nghèo là một vấn đề đa khía cạnh. Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 2 Như vậy, quan điểm tiếp cận mới về nghèo không chỉ đề cập đơn thuần đến thu nhập mà cần phải hiểu nghèo là một vấn đề đa khía cạnh. Các khía cạnh của đói nghèo: Về thu nhập và tài sản: Đa số những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có mức thu nhập thấp. Điều này do tính chất công việc của họ đem lại. Người nghèo thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, công việc cực nhọc nhưng thu nhập chẳng được là bao. Hơn thế nữa, những công việc này lại thường rất bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ thuộc vào thời vụ và có tính rủi ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn như mưa, nắng, lũ lụt, hạn hán, động đất...). Các nghề thuộc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là những ví dụ cho vấn đề này. Do thu nhập thấp nên việc chi tiêu cho cuộc sống của những người nghèo là rất hạn chế. Hầu hết các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ được đáp ứng với mức độ rất thấp, thậm chí còn không đủ. Nhiều người rơi vào cảnh thiếu ăn liên miên: chưa nói đến vấn đề đủ dinh dưỡng, riêng việc đáp ứng lượng calo cần thiết, tối thiểu cho con người để có thể duy trì hoạt động sống bình thường họ cũng chưa đáp ứng được, hoặc đáp ứng một cách khó khăn. Điều này đã kéo theo hàng loạt các vấn đề khác như làm giảm sức khoẻ của người nghèo, do đó giảm năng suất lao động, từ đó giảm thu nhập... cứ như thế, nó đã tạo nên vòng luẩn quẩn mà người nghèo rất khó thoát ra được. Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản ở những người nghèo. Tài sản ở đây có thể là tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tự nhiên, tài sản tài chính, tài sản xã hội. Tài sản con người thể hiện ở khả năng có được sức lao động cơ bản, kỹ năng và sức khoẻ tốt. Bên cạnh đó, do thu nhập thấp nên người nghèo không thể đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu về lương thực thực phẩm. Ăn uống cực kì thiếu thốn cộng với lao động nặng nề đã làm giảm sức khoẻ của người nghèo do đó cũng không đảm bảo được các kỹ năng cũng như sức lao động cơ bản. Tài sản tự nhiên như đất đai, thiếu tài sản tự nhiên có nghĩa là thiếu, không có hoặc có nhưng đất đai quá cằn cỗi, không thể canh tác được. Tài sản vật chất ở đây như nhà ở, phương tiện sản xuất - người nghèo có rất ít hoặc hầu như không có các phương tiện sản xuất. Điều này đã hạn chế khả năng Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 3 lao động của họ, làm họ khó khăn hơn nhiều so với những người có đủ phương tiện sản xuất nó cũng làm giảm thu nhập của họ. Còn về nhà ở, đại đa số người nghèo sống trong những căn nhà tạm bợ, dột nát, chật chội. Nhiều căn nhà không đủ đảm bảo an toàn, không bảo đảm sức khoẻ cho những người sống trong đó. Do không có những tài sản giá trị để bảo đảm nên người nghèo cũng có rất ít khả năng tiếp cận với các tổ chức cho vay vốn, do thu nhập thấp nên người nghèo cũng không có khả năng tiết kiệm nhiều. Đó chính là thiếu hụt tài sản tài chính. Về tài sản xã hội, người nghèo cũng bị hạn chế do chính hoàn cảnh của họ tạo nên. Kinh tế khó khăn, lo lắng đến từng bữa ăn hàng ngày khiên cho người nghèo không quan tâm hoặc không có khả năng cũng như điều kiện để chăm chút đến các mối quan hệ xã hội của mình. Mặt khác, sự bó hẹp về kinh tế cũng khiến cho họ ít tham gia vào các tổ chức, nhóm nào do đó người nghèo dần bị cô lập và do đó khó nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, hội khi gặp khó khăn. Y tế - giáo dục: Những người nghèo có nguy cơ mắc phải các bệnh thông thường cao như ốm đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ không được tốt do ăn uống không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống ở những vùng có điều ... hông có tiếng nói và quyền lực đem lại. Nhiều người nghèo nói họ chẳng được gọi đi họp vì nhà ở xa, khi nào phải đi lao động thì mới được gọi tới. Kể cả khi họ tham gia được các cuộc họp của cộng đồng thì họ cũng không thể quyết định được vấn đề gì dù rằng vấn đề đó liên quan đến lợi ích của chính họ. 2.2.3. Nguy cơ mắc vào các tệ nạn xã hội Do người nghèo thiếu thốn đủ mọi thứ, thiếu tài sản, thiếu điều kiện để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, thiếu kỹ năng xã hội nên người nghèo cũng dễ sinh ra các thói hư, tật xấu, mắc vào các tệ nạn xã hội. Theo nhiều thống kê, nhiều thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, mắc vào các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút là con em trong các hộ nghèo. Những thanh niên này thường bỏ học sớm, chơi bời lêu lổng hoặc phải tham gia lao động sớm. Phân hóa giàu nghèo góp phần tạo sự đa dạng trong các hình mẫu lối sống. Sự phát triển của lối sống tiêu dùng xa hoa, lãng phí trong bộ phận dân cư khá giả có ảnh hưởng xấu tới các nhóm dân cư khác. Đặc biệt một số bộ phận gia đình mới phất lên ( nhờ gặp may, hoặc do kế thừa...) sử dụng tiền theo lối sống buông thả, bất chấp các chuẩn mực giá trị, đạo đức, hoặc không quan tâm đến con cái, để chúng hư hỏng với cuộc sống xa đoạ, đồi truỵ mà không biết. Đây là một trong những nguồn gốc của tệ nạn ma tuý xã hội mại dâm...và tình trạng tội phạm gia tăng như hiện nay. Và chính sự tiêu xài hoang phí này cũng làm ảnh hưởng tới những người nghèo, hoặc những ngưòi thuộc tầng lớp trung lưu. Những người Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 61 nghèo thì họ cảm thấy không còn gì để mất vì vậy họ hành động không như xã hội mong đợi là ăn cắp, trung gian trong những con đường buôn lậu, vận chuyển ma tuý, bán dâm... nhằm mục đích giàu lên nhanh chóng, còn người khá giả, trung lưu dựa trên cơ sở sẵn có của mình (của cải, vốn,mối quan hệ...) moắc ngoặc với nhau làm ăn phi pháp. 2.2.4. Một số vấn đề khác + Vấn đề thứ nhất: Thiếu thốn về vật chất như không có nhà ở, không có việc làm thu nhập không ổn định, không đảm bảo nhu cầu tối thiểu của cuộc sống; + Vấn đề thứ hai: Thiếu cơ hội tiếp cận với giáo dục, dạy nghề và học tập các kỹ năng sống; + Vấn đề thứ ba: Chưa đủ khả năng đảm đương vai trò xã hội; + Vấn đề thứ tư: Có vấn đề về sức khỏe; + Vấn đề thứ năm: Thiếu kiến thức, kỹ năng quản lý gia đình và nuôi dạy con cái; + Vấn đề thứ sáu: Sống trong tình trạng bất hòa, mâu thuẫn, bạo lực; + Vấn đề thứ bảy: Không có sự hỗ trợ từ người thân, họ hàng, các tổ chức cộng đồng và hệ thống khác... 2.3. Một số phản ứng thường thấy ở hộ nghèo, người nghèo - Phản ứng tích cực: Cố gắng vươn lên làm chủ cuộc sồng, luôn tìm mọi cách để vượt qua hoàn cảnh khó khăn của mình, nhưng do thiếu các nguồn lực nên không thể tự vươn lên thoát nghèo. Đối với đối tượng này việc hỗ trợ thoát nghèo và vươn lên khá giả là điều không khó - Phản ứng tiêu cực: có một bộ phận người nghèo thụ động chịu chấp nhận số phận, họ cảm thấy sự tuyệt vọng, họ tự cô lập họ đối với người khác dẫn đến tình trạng không muốn tìm việc làm, không muốn đi học, không muốn giao tiếp, không muốn hợp tác... Họ tìm cách thích nghi hoàn cảnh bằng cách từ từ khép kín, từ từ bỏ cuộc, mất ý chí vươn lên, sự thay đổi này thường nằm ở bên trong và thường chúng ta khó nhận ra được. Điều này có thể dẫn đến sự căng thẳng, đè nén tăng theo năm tháng, kết quả đưa đến rối loạn tâm lý nặng hơn, có những vấn đề cảm xúc tâm lý nghiêm trọng hơn. 3. Ảnh hưởng của nghèo đói đến gia đình Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 62 3.1. Ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình Nghèo đói ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống gia đình. Nghèo đói làm cho các nhu cầu thiết yếu của gia đình như: nhu cầu về ăn, mặc, ở không được đảm bảo. Hầu hết các gia đình nghèo đều không đủ lương thực, không đủ lượng calo hàng ngày; cái mặc không đủ, thiếu quần áo ấm trong các mùa đông giá lạnh; nhà cửa tạm bợ, thậm chí dột nát, không có khả năng che nắng, che mưa, che gió bão. Các nhu cầu cần thiết khác như chăm sóc y tế không được chu đáo, giáo dục bị đứt quãng thậm chí phải nghỉ học sớm; nhu cầu đi lại, văn hóa giao tiếp rất hạn hẹp. Do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến người nghèo gần như “nghèo tất cả”, từ vật chất, tiền bạc đến vốn hiểu biết xã hội nên người nghèo trong các gia đình luôn có nguy cơ cao gặp các rủi ro. Do vốn kinh tế, vốn xã hội hạn chế nên người nghèo khó có khả năng quản lý rủi ro. Họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc chống đỡ và giải quyết và khắc phục hậu quả khi rủi ro xảy ra. Chính vì vậy, nhóm gia đình người nghèo được liệt vào nhóm hưởng chính sách TGXH trong việc cứu đói và ưu tiên tiếp cận các DVXH cơ bản. 3.2. Ảnh hưởng đến phụ nữ trong gia đình Trong các hộ gia đình nghèo phụ nữ, trẻ em, người già lại là những người thiệt thòi nhất , đặc biệt hộ nghèo thường rơi vào những gia đình là đối tượng quan tâm của xã hội (gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với nước...) thì vấn đề này càng trở nên phức tạp hơn. Theo tạp chí Dự án nghèo đói toàn cầu (The Global Poverty Project), phụ nữ làm việc 2/3 thời gian trên thế giới, sản xuất một nửa số lương thực của thế giới, nhưng chỉ chiếm 10% thu nhập và sở hữu ít hơn 1% tài sản của thế giới. Trung bình, lương của phụ nữ chỉ bằng một nửa lương của nam giới. Phần đông những gia đình đơn thân có phụ nữ là chủ nghèo khổ và chịu nhiều thiệt thòi hơn. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho biết, cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế làm tăng số phụ nữ thất nghiệp. Lúc ban đầu, cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến việc làm trong các lĩnh vực mà nam giới thường chiếm ưu thế. Tuy nhiên, thất nghiệp giờ đây đã lan rộng. Khi niềm tin và sức mua của người tiêu dùng giảm sút, nhiều công việc thường do phụ nữ đảm nhiệm như tiếp viên, nhân viên bán hàng,... cũng giảm theo. ILO đặc biệt lo ngại rằng, phụ nữ ở các nước đang phát triển, làm nghề nông hay người giúp việc nhà rất khó có thu nhập và dễ bị tổn thương trong bối cảnh kinh tế hiện nay. Không có tiếng nói và quyền lực còn thể hiện ở chỗ những người phụ nữ bị đối xử bất bình đẳng trong chính gia đình của họ. Người phụ nữ không có quyền Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 63 quyết định việc gì và phải phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng của họ. Nghèo đói cùng cực chính là thủ phạm dẫn tới các vụ bạo lực và phân biệt đối xử, những vi phạm về quyền con người, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em sống trong nghèo đói. Nó phá hủy cuộc sống và tinh thần của nhiều phụ nữ và là thủ phạm cướp đi mạng sống của nhiều trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành hơn bất kỳ một cuộc chiến tranh nào. Họ phải chịu các điều kiện làm việc nguy hiểm và sống trong môi trường sống bấp bênh, xuống cấp và thậm chí nguy hiểm đối với chính tính mạng của mình. Hàng triệu phụ nữ sống trong nghèo đói, cuộc sống của họ là những chuỗi ngày nhọc nhằn, buồn khổ vì vật lộn với chén cơm manh áo. Họ bị đối xử bất công, không được đi học, chăm sóc sức khoẻ, sinh con an toàn và có việc làm với thu nhập cao. Trong các hộ nghèo, số giờ công lao động hưởng lương của nam giới và phụ nữ là tưng đương nhau. Tuy nhiên, thời gian phụ nữ dành cho công việc nhà thì hơn gấp đôi so với nam giới, mà đây là những công việc không được thù lao. Như vậy, phụ nữ có rất ít hoặc không có thời gian để tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí, văn hoá, xã hội và tiếp tục nâng cao trình độ học vấn. Phụ nữ trưởng thành, đặc biệt là phụ nữ ở các vùng nông thôn, các gia đình nghèo và các dân tộc thiểu số, vẫn có nhiều khả năng bị yếu sức khoẻ kinh niên hơn so với nam giới. Một vấn đề hiện đang được nhiều người chú ý là làm thế nào để cải thiện cơ hội kinh tế cho phụ nữ. Việc làm chất lượng thấp là thách thức đối với thị trường lao động cho phụ nữ. Một tỷ lệ lớn phụ nữ trong các gia đình nghèo đang phải làm những công việc nặng nhọc, năng suất thấp, dễ bị tổn thương với mức lương thấp trong khu vực phi chính thức. Thêm vào đó, tỷ lệ thất nghiệp của nữ thanh niên còn cao và phụ nữ vẫn chủ yếu bị coi là lực lượng lao động phụ trợ hay người mang lại thu nhập thứ yếu, sau nam giới. WB (WB) cho rằng, phụ nữ có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, vì thế tập trung hơn đối với sự phát triển của phụ nữ và trẻ em gái là phương pháp hiệu quả nhất để chống lại đói nghèo toàn cầu và chủ nghĩa cực đoan. Đó là lý do tại sao viện trợ nước ngoài ngày càng hướng đến phụ nữ. Thế giới đang thức tỉnh, bởi họ nhận ra một sự thật rằng, nếu giảm được sự nghèo đói của phụ nữ và trẻ em gái thì sẽ giảm được nghèo đói cho toàn xã hội. Để tạo cơ hội bình đẳng việc làm cho phụ nữ, cần đề xuất những chính sách, bao gồm: hỗ trợ cho nữ doanh nhân, hỗ trợ phụ nữ làm nông nghiệp tăng năng suất lao động, giảm sự phụ thuộc quá lớn vào các khu vực phi chính thức; thúc đẩy tiếp Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 64 cận bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo, an sinh xã hội; bảo đảm tính đại diện và tham gia quyết định; tuân thủ hướng tiếp cận dựa trên quyền. 3.3. Ảnh hưởng đến trẻ em trong gia đình Đồng hành với sự nghèo đói của phụ nữ là con cái của họ. Nhiều trẻ em dưới 6 tuổi phải sống trong cảnh bần hàn. Điều quan trọng ở đây cần được nhận thức sâu sắc là, số trẻ em dưới 6 tuổi phải chịu cảnh nghèo sẽ chịu những thiệt thòi về giáo dục, y tế, và điều này sẽ ảnh hưởng đến suốt cuộc đời của các em sau này. Bên cạnh những thành tích rất ấn tượng về kinh tế xã hội, Việt Nam vẫn phải đối mặt với một thực tế là khoảng cách giàu nghèo, giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số, giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Hỗ trợ cần đến được với các trẻ em trai và gái hiện đang sống trong những khu vực quanh năm đói nghèo triền miên. Tình trạng nghèo ở trẻ em Việt Nam hiện nay trên thực tế còn nhiều hơn các số liệu thống kê về đói nghèo từ trước tới nay. Các số liệu trước đây không phản ánh được các nhu cầu cơ bản của trẻ em đã được đáp ứng vì nhu cầu của trẻ em không giống như nhu cầu của người lớn. Với sự hỗ trợ của UNICEF, Việt Nam gần đây đã xây dựng một cách tiếp cận về nghèo dành riêng cho trẻ em. Trong các hộ gia đình nghèo, các nhu cầu cơ bản của trẻ như giáo dục, y tế, nơi ở, bình đẳng về xã hội và BTXH không được coi trọng. Có thể thấy khoảng 1/3 số trẻ em dưới 16 tuổi, tương đương với con số bảy triệu trẻ em có thể bị coi là nghèo , 1/3 số trẻ em dưới năm tuổi bị còi cọc do suy dinh dưỡng kéo dài. Cứ ba trẻ em dưới 5 tuổi thì có hơn một em chưa được tiêm chủng đầy đủ. Gần một nửa tổng số trẻ em không được tiếp cận với thiết bị vệ sinh hợp vệ sinh ngay tại gia đình và 2/3 trẻ em không có được một quyển truyện tranh hay một quyển sách dành cho thiếu nhi để đọc. Nước và điều kiện vệ sinh môi trường không an toàn là nguyên nhân gây ra 50% trong hầu hết các ca bệnh truyền nhiễm ở Việt Nam trong khi các số liệu năm 2008 cho thấy khoảng 20% trẻ em bị thiếu cân và suy dinh dưỡng. Tai nạn thương tích trẻ em là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng tử vong ở trẻ từ 1 tuổi trở lên, phần lớn là do đuối nước, tai nạn giao thông, ngộ độc và bị thương do vật sắc nhọn gây ra. Mặc dù nhìn chung chỉ chiếm một tỷ lệ tương đối thấp, đại dịch HIV ở trẻ em không còn giới hạn ở các nhóm có nguy cơ cao như trẻ mại dâm và trẻ có sử dụng ma túy. Đến năm 2012, số người nhiễm HIV ước tính tăng lên khoảng 280.000 người trong đó có khoảng 5.500 trẻ em (xấp xỉ 2%). Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 65 Trong khi đó, các gia đình phải chịu áp lực hơn bao giờ hết để có đủ thu nhập trang trải các phí sử dụng DVXH như y tế và giáo dục. Điều này đồng thời góp phần làm tăng tình trạng chênh lệch xã hội. Với tỷ lệ di cư và tình trạng gia đình tan vỡ tăng lên, trẻ em Việt Nam đang đứng trước nguy cơ cao hơn bị lạm dụng, bóc lột, bạo lực và xao nhãng. Tình trạng chênh lệch về giáo dục vẫn còn tồn tại với khoảng 75% trẻ em thành phố được học mẫu giáo trong khi chỉ có 51% trẻ em nông thôn được học mẫu giáo. Ở Việt Nam, dân tộc thiểu số thường sinh sống chủ yếu ở các khu vực nông thôn miền núi và là những người ít được hưởng lợi nhất từ tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tỷ lệ nghèo ở các cộng đồng dân tộc thiểu số năm 2008 dù đã giảm xuống vẫn ở mức 49,8% trong khi tỷ lệ nghèo ở người Kinh chiếm đa số chỉ có 8,5%. Thực tế là trẻ em là người dân tộc thiểu số chiếm hơn 60% tổng số trẻ em nghèo ở Việt Nam. Do gặp phải khó khăn về ngôn ngữ và đường đi học xa và khó khăn nên chỉ có hơn 60% trẻ em dân tộc thiểu số hoàn thành tiểu học trong khi đó tỷ lệ này ở trẻ em người Kinh là 86%. Tỷ lệ trẻ em đi học trung học ở dân tộc thiểu số là 65% và ở trẻ em người Kinh là gần 82%. Ngoài ra, do chi phí giáo dục cao nên gần 1/3 số hộ gia đình dân tộc thiểu số có một con bỏ học trước khi học hết một lớp trong khi tỷ lệ này ở các gia đình người Kinh là 16%. Tỷ lệ tử vong ở mẹ ở các khu vực miền núi xa xôi hẻo lánh như cao hơn rất nhiều. Tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới một tuổi (gọi tắt là IMR) ở các hộ gia đình nghèo vẫn ở mức cao. Nguy cơ trẻ em nghèo dưới 5 tuổi tử vong trước khi tròn 5 tuổi cao gấp hai lần so với trẻ em ở các gia đình khá giả. CÂU HỎI ÔN TẬP BÀI 2 1. Nêu những đặc điểm của người nghèo? 2. Lấy 1 ví dụ cụ thể, hãy phân tích đặc điểm tâm lý của người nghèo? 3. Người nghèo có những đặc điểm cơ bản gì về kinh tế và chăm sóc sức khỏe? 4. Phân tích đặc điểm của hộ nghèo? 5. Những người nghèo, hộ nghèo có những nhu cầu cơ bản nào? Phân tích 1 nhu cầu cơ bản của Hộ nghèo? 6. Lấy 1 ví dụ cụ thể về hộ nghèo hoặc người nghèo, phân tích những vấn đề mà hộ nghèo ( hoặc người nghèo) đang gặp phải? Trường Cao đẳng nghề Yên Bái Giáo trình môn: CTXH với người nghèo 66 7. Nghèo đói có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống của phụ nữ và trẻ em trong gia đình?
File đính kèm:
- giao_trinh_cong_tac_xa_hoi_voi_nguoi_ngheo.pdf