Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường

Trầm tích hệ tầng Đồng Ho bao gồm các lớp cuội sạn kết, cát kết xen kẹp các lớp sét

chứa asphalt, chứa than ở khu vực Quảng Ninh được coi là các đá mẹ có tiềm năng sinh dầu lộ ra

trên đất liền, tương đương với các đá mẹ trong các bể trầm tích Đệ Tam trên thềm lục địa Đông

Nam Á. Nghiên cứu sự biến động hàm lượng các nguyên tố chính và nguyên tố vết từ 13 mẫu đặc

trưng cho các lớp trầm tích cho phép phân chia hệ tầng Đồng Ho thành 2 phần: phần dưới đặc

trưng bởi sự biến động không rõ ràng, trong khi phần trên xu thế biến động rõ ràng. Các chỉ báo cổ

môi trường và chỉ số phản ánh mức độ phong hóa, biến đổi hóa học CIA, CIW, PIA và CPA của

các lớp trầm tích hệ tầng Đồng Ho đều thuộc loại cao từ 85-99%. Tỷ số V/Ni thay đổi từ 0,14 đến

1,52, V/Cr thay đổi từ 0,02 đến 0,52 chỉ thị cho môi trường có mặt oxy hòa tan và vật liệu hữu cơ

có nguồn gốc lục địa. Trầm tích hệ tầng Đồng Ho được hình thành từ sự tái lắng đọng trong môi

trường hồ nước ngọt lục địa của các đá trầm tích có trước, trong điều kiện khí hậu ẩm ướt, có mặt

oxy hòa tan với lượng mưa trung bình ước tính 1533mm/năm±181mm trước khi chuyển sang môi

trường ẩm ướt và có tính khử trong quá trình thành đá.

Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường trang 1

Trang 1

Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường trang 2

Trang 2

Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường trang 3

Trang 3

Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường trang 4

Trang 4

Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường trang 5

Trang 5

Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường trang 6

Trang 6

Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường trang 7

Trang 7

Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường trang 8

Trang 8

Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường trang 9

Trang 9

Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang viethung 7940
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường

Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng trong việc xác định điều kiện cổ môi trường
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2 (2018) 110-120 
 110 
Địa hóa nguyên tố chính và nguyên tố vết của các trầm tích 
hệ tầng Đồng Ho, Quảng Ninh và ý nghĩa của chúng 
trong việc xác định điều kiện cổ môi trường 
Nguyễn Văn Vượng*, Lường Thị Thu Hoài 
Khoa Địa chất, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 16 tháng 5 năm 2018 
Chỉnh sửa ngày 30 tháng 5 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 31 tháng 5 năm 2018 
Tóm tắt: Trầm tích hệ tầng Đồng Ho bao gồm các lớp cuội sạn kết, cát kết xen kẹp các lớp sét 
chứa asphalt, chứa than ở khu vực Quảng Ninh được coi là các đá mẹ có tiềm năng sinh dầu lộ ra 
trên đất liền, tương đương với các đá mẹ trong các bể trầm tích Đệ Tam trên thềm lục địa Đông 
Nam Á. Nghiên cứu sự biến động hàm lượng các nguyên tố chính và nguyên tố vết từ 13 mẫu đặc 
trưng cho các lớp trầm tích cho phép phân chia hệ tầng Đồng Ho thành 2 phần: phần dưới đặc 
trưng bởi sự biến động không rõ ràng, trong khi phần trên xu thế biến động rõ ràng. Các chỉ báo cổ 
môi trường và chỉ số phản ánh mức độ phong hóa, biến đổi hóa học CIA, CIW, PIA và CPA của 
các lớp trầm tích hệ tầng Đồng Ho đều thuộc loại cao từ 85-99%. Tỷ số V/Ni thay đổi từ 0,14 đến 
1,52, V/Cr thay đổi từ 0,02 đến 0,52 chỉ thị cho môi trường có mặt oxy hòa tan và vật liệu hữu cơ 
có nguồn gốc lục địa. Trầm tích hệ tầng Đồng Ho được hình thành từ sự tái lắng đọng trong môi 
trường hồ nước ngọt lục địa của các đá trầm tích có trước, trong điều kiện khí hậu ẩm ướt, có mặt 
oxy hòa tan với lượng mưa trung bình ước tính 1533mm/năm±181mm trước khi chuyển sang môi 
trường ẩm ướt và có tính khử trong quá trình thành đá. 
Từ khóa: Nguyên tố chính, nguyên tố vết, địa hóa, Đồng Ho, cổ môi trường. 
1. Mở đầu 
Việc xác định nguồn cấp vật liệu và điều 
kiện hình thành trầm tích vụn cơ học có ý nghĩa 
quan trọng trong nghiên cứu và khôi phục điều 
kiện cổ môi trường thành tạo trầm tích [1-3]. 
Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với nghiên cứu 
_______ 
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-984815186. 
 Email: vuongnv@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4254 
sự biến đổi của môi trường trầm tích, vùng 
nguồn xâm thực và điều kiện khí hậu trong quá 
khứ địa chất. Đối với các đá chứa dầu, việc xác 
định làm sáng tỏ nguồn cấp vật liệu, quá trình 
vận chuyển, môi trường hình thành và quá trình 
kiến tạo liên quan có ý nghĩa lớn cho công tác 
tìm kiếm thăm dò [4]. Có nhiều cách tiếp cận để 
nghiên cứu nguồn cấp vật liệu trầm tích và sự 
thay đổi điều kiện cổ môi trường. Cách tiếp cận 
truyền thống chủ yếu dựa vào nghiên cứu đặc 
điểm cấu trúc phân lớp trầm tích, đặc điểm 
N.V. Vượng, L.T.T. Hoài / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2 (2018) 110-120 
111 
phân bố độ hạt, độ mài tròn và sự phân bố 
tướng trầm tích trong không gian để luận giải 
về quá trình vận chuyển và lắng đọng trầm tích 
[5], xác định đường bờ cổ [6], hoặc dựa trên 
đặc điểm hóa thạch động thực vật để xác định 
cổ môi trường [7]. Ngoài ra còn có nhiều cách 
tiếp cận dựa trên cơ sở phân tích xác định tuổi 
đồng vị phóng xạ của tập hợp các hạt vụn trầm 
tích như mica, zircon [8] hoặc dựa vào phân 
tích hàm lượng các nguyên tố chính, nguyên tố 
vết [9-11] để luận giải về điều kiện xâm thực 
và sự thay đổi nguồn cấp vật liệu và điều kiện 
môi trường. 
Trầm tích hệ tầng Đồng Ho bao gồm các 
lớp cuội sạn kết, cát kết xen kẹp các lớp sét 
chứa asphalt, chứa than được coi là các đá có 
tiềm năng sinh dầu lộ ra trên đất liền, tương 
đương với các đá mẹ trong các bể trầm tích Đệ 
Tam trên thềm lục địa Đông Nam Á [12, 13]. 
Các kết quả nghiên cứu vết in lá thực vật có 
mặt trong các lớp bột sét chứa than cho tuổi 
Miocen, tuy nhiên các nghiên cứu về bào tử phấn 
hoa cho thấy các trầm tích hệ tầng Đồng Ho chứa 
các tập hợp bào tử phấn hoa với các dạng bào tử 
phấn đặc trưng cho tuổi Oligocene [14]. 
Trong bài báo này, chúng tôi sử dụng cách 
tiếp cận từ góc độ nghiên cứu sự thay đổi thành 
phần hóa học các nguyên tố chính và nguyên tố 
vết của 13 mẫu trầm tích được lựa chọn từ 40 
mẫu thu thập theo mặt cắt dọc suối Đồng Ho, 
Hoành Bồ kết hợp với các nghiên cứu thực địa 
và đặc điểm trầm tích để luận giải về nguồn cấp 
vật liệu và điều kiện cổ môi trường hình thành 
các trầm tích chứa dầu hệ tầng Đồng Ho tuổi 
Oligocen ở khu vực Hoành Bồ, Quảng Ninh. 
Cách tiếp cận dựa trên đặc điểm địa hóa trầm 
tích để luận giải về nguồn cấp vật liệu, và điều 
kiện cổ khí hậu đã được áp dụng thành công 
cho cả các thành tạo trầm tích Creta bị biến đổi 
trong quá trình tạo núi Alpơ [15]. 
2. Phương pháp và mẫu nghiên cứu 
2.1. Phương pháp nghiên cứu thực địa 
Mối quan hệ địa chất và đặc điểm cấu trúc 
nội tầng của trầm tích hệ tầng Đồng Ho ở khu 
vực Hoành Bồ được nghiên cứu chi tiết ở mặt cắt 
suối Đồng Ho và nghiên cứu bổ sung ở các diện 
lộ trầm tích lân cận thị trấn Trới. Việc khảo sát 
và đo vẽ được tiến hành từ cầu Đồng Ho ngược 
suối đi qua đập nước lên đến diện lộ của các đá 
cuội kết hạt thô của hệ tầng Hòn Gai. Trật tự địa 
tầng và đặc điểm chi tiết của các lớp trầm tích hệ 
tầng Đồng Ho được thể hiện ở Hình 2. 
Hình 1. Sơ đồ phân bố các trầm tích hệ tầng Đồng Ho [17]. 
N.V. Vượng, L.T.T. Hoài / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2(2018) 110-120 
112 
Hình 2. Cột địa tầng trầm tích thành lập tại suối Đồng Ho và vị trí lấy mẫu. 
2.2. Mẫu phân tích và phương pháp phân tích 
Các mẫu trầm tích được lấy chi tiết theo 
từng lớp, theo từng tập và được bảo quản cẩn 
thận để phục vụ công tác phân tích địa hóa. 
Tổng cộng 40 mẫu trầm tích và 02 mẫu hạt vụn 
than đại diện cho các lớp đã được lấy từ ở các 
vị trí địa tầng khác nhau. Để phục vụ phân tích 
địa hóa các nguyên tố chính và nguyên tố vết, 
13 mẫu đại diện cho các lớp từ thô đến mịn và 
lớp chứa than, chứa asphalt đã được lựa chọn ở 
các vị trí khác nhau trong mặt cắt để phân ... a học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2 (2018) 110-120 
117 
trầm tích. Sự phân bố của các nguyên tố trong 
các trầm tích hạt mịn liên quan chủ yếu đến quá 
trình phong hóa từ đá gốc. Để loại bỏ sự can 
nhiễu của phong hóa đến việc xác định nguồn 
cấp vật liệu, chúng tôi sử dụng biểu đồ 3 hợp 
phần Al2O3-TiO2-Zr [22] để xem xét xu hướng 
chọn lọc và mối quan hệ của vật liệu trầm tích 
với nguồn cung cấp. Kết quả được biểu diễn 
trên hình 6 cho thấy xu hướng dịch chuyển về 
phía đỉnh Zr, đặc trưng bằng sự thay đổi tỷ số 
Al2O3/Zr và liên quan đến sự tái lặng đọng của 
từ các đá trầm tích [23]. Biểu đồ 3 hợp phần A-
CN-K kết hợp với biểu đồ CIA, CIW, PIA và 
CPA cho thấy tất cả các mẫu đều nằm ở cạnh 
AK và rơi vào gần đỉnh A (hình 7). Điều này 
phản ánh vật liệu trầm tích của hệ tầng Đồng 
Ho nhận được từ các đá được phong hóa triệt để 
có nguồn gốc tái trầm tích. 
Loại bỏ yếu tố đá gốc và địa hình, thì cường 
độ của quá trình phong hóa hóa học phụ thuộc 
chủ yếu vào vĩ độ, lượng mưa và nhiệt độ [17]. 
Shekdon và nnk (2002) [24] đã sử dụng số liệu 
địa hóa nguyên tố chính kết hợp với chỉ số 
phong hóa hóa học để ước lượng lượng mưa 
trung bình năm MAP (Mean Annual 
Precipitation) cho các đá trầm tích Eocen-
Oligocen vùng Oregon theo công thức hồi quy 
với hệ số tương quan khá cao với sai số là 
±181mm/năm. 
MAP = 221e
0.0197*CIW 
Hình 6. Biểu đồ 3 hợp phần phản ánh xu hướng thay 
đổi của tỷ số Al2O3/Zr. 
Hình 7. Biểu đồ tam giác A-CN-K, trong đó A; CN 
và K tương ứng với số mol Al2O3, CaO+Na2O và 
K2O kết hợp với các chỉ số CIA, CIW, PIA, CPA. 
Áp dụng công thức trên cho các mẫu trầm 
tích Đồng Ho ta có kết quả ước lượng lượng 
mưa trung bình năm là 1522mm/năm trong quá 
trình hình thành các tập trầm tích từ số 1 đến số 
13. Giá trị này tương đương với giá trị lượng 
mưa trung bình năm hiện nay. 
Như vậy, giá trị MAP và các chỉ số phản 
ánh mức độ phong hóa hóa học cao ghi nhận lại 
trong các trầm tích hệ tầng Đồng Ho cho thấy 
điều kiện khí hậu ẩm ướt đã tồn tại từ lúc hình 
thành trầm tích Đồng Ho tuổi Oligocen. 
Tỷ số các nguyên tố vết là một trong những 
chỉ thị cho điều kiện môi trường trong quá 
trình hình thành trầm tích [25, 26], trong đó V, 
Ni, Cr là các chỉ thị quan trọng và hay được sử 
dụng đối với các trầm tích vụn cơ học. Tỷ lệ 
tương đối của V/Ni trong trầm tích bị chi phối 
bởi môi trường hình thành, tỷ số V/Ni>3 chỉ thị 
cho môi trường có vật liệu liệu hữu cơ nguồn 
gốc biển, tỷ số V/Ni ttrong khoảng từ 3 đến 1,9 
chỉ thị cho môi trường ít ô xy hòa tan, vật liệu 
hữu cơ có nguồn gốc hỗn hợp lục địa và biển, 
dưới 1,9 chỉ thị cho môi trường giàu oxy hòa 
tan và vật liệu hữu cơ có nguồn gốc lục địa 
[27]. Nguyên tố Cr thường không bị ảnh hưởng 
trực tiếp bởi quá trình oxy hóa khử, tỷ số 
V/Cr>2 phản ánh môi trường trầm tích nghèo ô 
xy hòa tan, V/Cr<2 phản ánh môi trường trầm 
N.V. Vượng, L.T.T. Hoài / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2(2018) 110-120 
118 
tích có mặt oxy hòa tan [28]. Tỷ số V/Ni của 
các mẫu trầm tích Đồng Ho dao động từ 0,14 
đến 1,52 và thấp ở phần dưới, cao hơn ở phần 
trên. Sự biến thiên như vậy phản ảnh môi 
trường lắng đọng trầm tích Đồng Ho có mặt 
oxy hòa tan và vật liệu hữu cơ có nguồn gốc 
thực vật lục địa. Tương tự, tỷ số V/Cr của các 
mẫu phân tích đều nhỏ hơn 1 và cũng tương 
ứng với môi trường có mặt oxy hòa tan. 
Các dẫn liệu trên đưa đến nhận định trong 
giai đoạn Oligocen, điều kiện cổ môi trường 
hình thành trầm tích đặc trưng bởi môi trường 
ẩm ướt, có mặt oxy hòa tan. Tuy nhiên, việc vật 
liệu hữu cơ chuyển hóa thành than và asphalt 
trong trầm tích hệ tầng Đồng Ho hiện nay cho 
thấy sự có mặt của môi trường khử trong quá 
trình thành đá diễn ra sau quá trình lắng đọng 
trầm tích. Như vậy, điều kiện cổ môi trường 
hình thành các trầm tích Đồng Ho ban đầu có 
đặc tính của môi trường ẩm ướt có mặt oxy hòa 
tan sau đó chuyển sang môi trường ẩm ướt 
mang tính khử. 
5. Kết luận 
Khảo sát chi tiết mặt cắt suối Đồng Ho kết 
hợp với phân tích địa hóa nguyên tố chính và 
một số nguyên tố vết cho phép phân chia hệ 
tầng Đồng Ho thành 2 phần, phần dưới dày 
khoảng 46m đặc trưng bởi sự đan xen của trầm 
tích hạt thô với các lớp mỏng hạt mịn phân lớp 
mỏng chứa hóa thạch vết in lá và các mảnh vụn 
than. Phần trên dày khoảng 60m có đặc trưng là 
cát bột sét kết phân lớp mỏng và đồng nhất, 
chứa lớp trầm tích asphalt. Sự phân bố hàm 
lượng các nguyên tố chính và nguyên tố vết ở 
hần dưới thể hiện quy luật không rõ ràng, trong 
khi phần trên sự biến thiên hàm lượng có quy 
luật tương đối rõ. 
Các chỉ số phản ánh mức độ phong hóa, 
biến đổi hóa học CIA, CIW, PIA và CPA của 
các lớp trầm tích hệ tầng Đồng Ho đều thuộc 
loại cao. Trầm tích hệ tầng Đồng Ho được hình 
thành từ sự tái lắng động các đá trầm tích có 
trước mà không có sự tham gia của các thành 
phần đá gốc magma và biến chất. Chúng được 
lắng đọng trong môi trường hồ nước ngọt lục 
địa. 
Điều kiện khí hậu ẩm ướt giàu oxy đã tồn 
tại từ Oligocen với lượng mưa trung bình được 
ước tính là 1533mm/năm±181mm và tồn tại 
trong suốt quá trình hình thành trầm tích hệ 
tầng Đồng Ho và chuyển dần sang môi trường 
ẩm ướt và khử trong quá trình thành đá. 
Lời cảm ơn 
Bài báo này được hoàn thành với tài trợ của 
đề tài cấp Đại học Quốc gia mã số QG14-09. 
Các tác giả xin trân trọng cảm ơn. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Xu, F., B. Hu, Y. Dou, X. Liu, S. Wan, Z. Xu, X. 
Tian, Z. Liu, X. Yin, and A. Li, Sediment 
provenance and paleoenvironmental changes in 
the northwestern shelf mud area of the South 
China Sea since the mid-Holocene. Continental 
Shelf Research, 2017. 144: p. 21-30. 
[2] Greggio, N., B.M.S. Giambastiani, B. Campo, E. 
Dinelli, A. Amorosi, and S. Tyrrell, Sediment 
composition, provenance, and Holocene 
paleoenvironmental evolution of the Southern Po 
River coastal plain (Italy). Geological Journal, 
2017. p. 1-15. 
[3] Yanguang Dou, S.Y., Zhenxia Liu, Peter D. Clift, 
Xuefa Shi, Hua Yu and Serge Berne, Provenance 
discrimination of siliciclastic sediments in the 
middle Okinawa Trough since 30 ka: Constraints 
from rare earth element compositions Marine 
Geology, 2010. 275(1-4): p. 212-220. 
[4] Scott, R.A., H. R. Smyth, A. C. Morton, and N. 
Richardson, Sediment Provenance Studies in 
Hydrocarbon Exploration and Production. 
Geological society, london, special publications, 
2014. 386. 
[5] Wysocka, A. and A. Świerczewska, Lithofacies 
and depositional environments of Miocene 
deposits from tectonically-controlled basins (Red 
River Fault Zone, northern Vietnam). Journal of 
Asian Earth Sciences, 2010. 39(3): p. 109-124. 
[6] Nghi, T., Địa chất trầm tích Việt nam. 2017: Nxb 
Đại học Quốc gia Hà Nội. 509. 
[7] Böhme, M., J. Prieto, S. Schneider, N.V. Hung, 
D.D. Quang, and D.N. Tran, The Cenozoic on-
N.V. Vượng, L.T.T. Hoài / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2 (2018) 110-120 
119 
shore basins of Northern Vietnam: 
Biostratigraphy, vertebrate and invertebrate 
faunas. Journal of Asian Earth Sciences, 2011. 
40(2): p. 672-687. 
[8] Long, H.V., P.D. Clift, D. Mark, H. Zheng, and 
M.T. Tan, Ar–Ar muscovite dating as a constraint 
on sediment provenance and erosion processes in 
the Red and Yangtze River systems, SE Asia. 
Earth and Planetary Science Letters, 2010. 295(3–
4): p. 379-389. 
[9] Gesa, K., P.L.d. Boer, R.B. Pedersen, and T.E. 
Wong, Provenance of Pliocene sediments and 
paleoenvironmental changes in the southern North 
Sea region using Samarium–Neodymium (Sm/Nd) 
provenance ages and clay mineralogy. 
Sedimentary Geology 2004. 171: p. 205 – 226. 
[10] Kaifeng, Y., F. Lehmkuhl, B. Diekman, V. 
Nottebaum, and G. Stauch, Major and trace 
elements documented paleoenvironmental and 
provenance signatures as inferred from the 
lacustrine sequence of Orog Nuur, southern 
Mongolia. Geophysical Research Abstracts, 2016. 
Vol. 18, (EGU2016-1896): p. 1896. 
[11] Saito, S., Major and trace element geochemistry 
of sediments from east greenland continental rise: 
an implication for sediment provenance and 
source area weathering, in Proceedings of the 
Ocean Drilling Program, Scientific Results, , A.D. 
Saunders, H.C. Larsen, and S.W. Wise, Jr., 
Editors. 1998. 
[12] Petersen, H.I., H.P. Nytoft, and L.H. Nielsen, 
Characterisation of oil and potential source rocks 
in the northeastern Song Hong Basin, Vietnam: 
indications of a lacustrine-coal sourced petroleum 
system. Organic Geochemistry, 2004. 35 p. 493–
515. 
[13] Petersen, H.I., V. Tru, L.H. Nielsen, N.A. Duc, 
and H.P. Nytoft, Source rock properties of 
lacustrine mudstones and coals (oligocene dong 
ho formation), onshore Song Hong basin, northern 
Vietnam. Journal of Petroleum Geology, , 2005. 
28: p. 19 - 38. 
[14] Thanh, T.D., V. Khúc, Đ.T. Huyên, Đ.N. Trưởng, 
Đ. Bạt, N.Đ. Dỹ, N.H. Hùng, P.H. Thông, P.K. 
Ngân, T.H. Phương, T.H. Dần, T.T. Thắng, T.V. 
Trị, and T.V. Long, Các phân vị địa tầng Việt 
Nam. 2005: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 504. 
[15] Hofer, G., M. Wagreich, and S. Neuhuber, 
Geochemistry of fine-grained sediments of the 
upper Cretaceous to Paleogene Gosau Group 
(Austria, Slovakia): Implications for 
paleoenvironmental and provenance studies. 
Geoscience Frontiers, 2013. 4: p. 449-468. 
[16] Nesbitt, H.W., G. Markovics, and R.C. price, 
Chemical processes affecting alkalis and alkaline 
earths during continental weathering. Geochimica 
et Cosmochimica Acta, 1980. 44(11): p. 1659-
1666. 
[17] Chao Li and S. Yang, Is chemical index of 
alteration (CIA) a reliable proxy for chemical 
weathering in global drainage basins? Amerian 
Journal of Science, 2010. 310: p. 111e127. 
[18] Nesbitt, H.W. and G.M. Young, Early Proterozoic 
climates and plate motions inferred from major 
element chemistry of lutites. Nature, 1982. 299: p. 
715-717. 
[19] Harnois, L., The C.I.W. index: a new chemical 
index of weathering. Sedimentary Geology, 1988. 
55: p. 319–322. 
[20] Fedo, C.M., H.W. Nesbitt, and G.M. Young, 
Unraveling the effect of potassium metasomatism 
in sedimentary rocks and paleosols, with 
implications for paleoweathering conditions and 
provenance. Geology 1995. 23 p. 921–924. 
[21] Buggle, B., B. Glaser, U. Hambach, N. 
Gerasimenko, and S. Markovic, An evaluation of 
geochemical weather indices in loess-paleosol 
studies. . Quaternary International 2011. 240, : p. 
12-21. 
[22] Garcia, D., J. Coehlo, and M. Perrin, Fractionation 
between TiO2 and Zr as a measure of sorting 
within shale and sandstone series (northern 
Portugal). European Journal of Mineralogy 1991. 
3: p. 401–414. 
[23] Mongelli, G., S. Critelli, F. Perri, M. Sonnino, and 
V. Perrone, Sedimentary recycling, provenance 
and paleoweathering from chemistry and 
mineralogy of Mesozoic continental redbed 
mudrocks, Peloritani mountains, southern Italy. 
Geochemical Journal, 2006. 40: p. 197-209. 
[24] Sheldon, N.D., Gregory J. Retallack, and 
Satoshi Tanaka, Geochemical Climofunctions 
from North American Soils and Application to 
Paleosols across the Eocene‐Oligocene Boundary 
in Oregon. The Journal of Geology, 2002. 110(6): 
p. 687-696. 
[25] Harris, N., K. Freeman, R. D. Pancost, T. White, 
and G. Mitchell, The character and origin of 
lacustrine source rocks in the Lower Cretaceous 
synrift section, Congo Basin, west Africa. AAPG 
Bulletin, 2004. 88(8): p. 1163-1184. 
[26] MacDonald, R., D. Hardman, R. Sprague, Y. 
Meridji, W. Mudjiono, J. Galford, M. Rourke, M. 
Dix, and M. Kelton, Using Elemental 
Geochemisty to Improve Sandstone Reservoir 
Characterization: a Case Study From the Unayzah 
N.V. Vượng, L.T.T. Hoài / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 2(2018) 110-120 
120 
A Interval of Saudi Arabia. Vol. 52. 2011. 344-
356. 
[27] Galarraga, F., K. Reategui, A. Martïnez, M. 
Martínez, J.F. Llamas, and G. Márquez, V/Ni 
ratio as a parameter in palaeoenvironmental 
characterisation of nonmature medium-crude oils 
from several Latin American basins. Journal of 
Petroleum Science and Engineering, 2008. 61(1): 
p. 9-14. 
[28] Jones, B. and D.A.C. Manning, Comparison of 
geochemical indices used for the interpretation of 
palaeoredox conditions in ancient mudstones. 
Chemical Geology, 1994. 111(1): p. 111-129. 
Major and Trace Elements Geochemistry of Dong Ho 
Sediments (Quang Ninh, Viet Nam): Imlication 
for Paleoenvironmental Condition 
Nguyen Van Vuong, Luong Thi Thu Hoai 
Faculty of Geology, VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam 
Abstract: The Dong Ho sedimentary formation consists of gravel, sand and sandstone, mudstone 
interbeded with asphalt layer or oil shale cropping out at Quang Ninh is considered as outcrop of 
petroleum potential source rock and correlated to source rock of the Cenozoic basins on the 
continental shelf of Southeast Asia. Geochemical investigation of major and trace elements content 
variation from 13 typical samples selected from diferent layers leads to divide the Dong Ho formation 
into two parts: the lower part characterized by unclear variation while the upper part exposing a more 
clear trend. The paleoenvironmental proxy and the CIA, CIW, PIA and CPA indices of the Dong Ho 
formation revealed high weathering intensity. V/Ni and C/Cr s vary from 0.14 to 1.52; and from 0.02 
to 0.52 respectively indicate to oxic depositional environment. The provenance of the Dong Ho 
sedimentary layers come from the recycling of sedimentary source rocks and deposited within 
freshwater lacustrine environment dominated by humid climate with estimated mean annual rainfall of 
1533 mm/yr±181 mm before changing to wet and reduction environment during diagenesis. 
Keywords: Major element, trace element, geochemistry, Dong Ho, paleoenvironment. 

File đính kèm:

  • pdfdia_hoa_nguyen_to_chinh_va_nguyen_to_vet_cua_cac_tram_tich_h.pdf