Dấu ấn văn hóa trong tập truyện vang bóng một thời của Nguyễn Tuân
Tập truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân được đánh giá là “gần tới sự
toàn thiện toàn mỹ”. Một trong những phương diện nổi bật của tập truyện đó là
những nét văn hóa độc đáo mà Nguyễn Tuân đã chăm chút miêu tả, thể hiện với
tất cả thái độ trân trọng, ngậm ngùi, nuối tiếc. Tìm hiểu tập truyện từ góc nhìn
văn hóa, chúng tôi hướng đến trả lời câu hỏi điều gì làm nên dấu ấn rất riêng
của Vang bóng một thời. Đó phải chăng là ở vẻ đẹp ngôn từ, ở cảm thức nghệ
thuật hay còn ở vẻ đẹp tâm hồn, ở niềm trăn trở của chính nhà văn trước thời
cuộc. Bài viết lấy điểm tựa là các quan niệm về tính văn hóa, mã văn hóa để
phân xuất từng phương diện đặc sắc được thể hiện trong truyện ngắn của
Nguyễn Tuân
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Dấu ấn văn hóa trong tập truyện vang bóng một thời của Nguyễn Tuân
25 CHUYÊN MỤC VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG TẬP TRUYỆN VANG BÓNG MỘT THỜI CỦA NGUYỄN TUÂN PHẠM THỊ LƯƠNG* Tập truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân được đánh giá là “gần tới sự toàn thiện toàn mỹ”. Một trong những phương diện nổi bật của tập truyện đó là những nét văn hóa độc đáo mà Nguyễn Tuân đã chăm chút miêu tả, thể hiện với tất cả thái độ trân trọng, ngậm ngùi, nuối tiếc. Tìm hiểu tập truyện từ góc nhìn văn hóa, chúng tôi hướng đến trả lời câu hỏi điều gì làm nên dấu ấn rất riêng của Vang bóng một thời. Đó phải chăng là ở vẻ đẹp ngôn từ, ở cảm thức nghệ thuật hay còn ở vẻ đẹp tâm hồn, ở niềm trăn trở của chính nhà văn trước thời cuộc. Bài viết lấy điểm tựa là các quan niệm về tính văn hóa, mã văn hóa để phân xuất từng phương diện đặc sắc được thể hiện trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân. Từ khóa: văn hóa, mã văn hóa, truyện ngắn, Nho giáo, truyền thống Nhận bài ngày: 24/2/2020; đưa vào biên tập: 26/2/2021; phản biện: 4/3/2021; duyệt đăng: 4/4/2021 1. DẪN NHẬP Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa đang ngày càng thu hút đƣợc sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Hƣớng tiếp cận này giúp ngƣời đọc khai thác các vỉa tầng ý nghĩa của văn bản thông qua hình thức giải mã các ký hiệu ngôn ngữ đƣợc mã hóa trong văn bản đó, từ đó khám phá các nét văn hóa độc đáo đƣợc thể hiện. Cùng với các hƣớng tiếp cận văn bản từ thi pháp học, ngôn ngữ học, phong cách học, tự sự học... hƣớng tiếp cận từ văn hóa học mở ra cho ngƣời nghiên cứu những ý tƣởng khám phá độc đáo vào chiều sâu văn bản, cho thấy mỗi tác phẩm văn học mang dấu ấn, hồn cốt của cộng đồng, dân tộc, thời đại. Tất cả điều đó đƣợc khúc xạ qua thế giới quan, nhân sinh quan của nhà văn. Nguyễn Tuân đã thể hiện đậm * Trƣờng Đại học Bạc Liêu. PHẠM THỊ LƢƠNG – DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG TẬP TRUYỆN 26 nét dấu ấn văn hóa truyền thống cũ, lối sống cũ của một thời kỳ lịch sử nhiều biến thiên, dâu bể. Trong tập truyện Vang bóng một thời(1), Nguyễn Tuân xây dựng một hệ thống mã văn hóa bằng hình thức ngôn ngữ phong phú, vừa mang nét cổ xƣa, vừa tạo dấu ấn hiện đại. Ở tập truyện này, ngƣời đọc có thể nhận thấy dấu ấn văn hóa ứng xử, văn hóa nhân cách, văn hóa sinh hoạt đời thƣờng đƣợc thể hiện cuốn hút, tinh tế bằng một bút lực tài hoa. 2. VĂN HÓA VÀ THUỘC TÍNH VĂN HÓA TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC Văn hóa là một phạm trù rất rộng, là tất cả các giá trị vật chất và tinh thần mà con ngƣời tạo ra để gắn kết chặt chẽ với nhau vì vậy có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm văn hóa. Theo Cristina De Rossi: “Văn hóa bao gồm tôn giáo, thức ăn, những gì chúng ta mặc, cách chúng ta mặc, ngôn ngữ, hôn nhân, âm nhạc, những gì chúng ta tin là đúng hay sai, cách chúng ta ngồi vào bàn, cách chúng ta chào đón du khách, cách chúng ta cƣ xử với những ngƣời thân yêu, và hàng triệu thứ khác” (dẫn theo Kim Ann Zimmermann, 2017). Với Jane BinSun (2018) “Văn hóa là một hiện tƣợng xã hội và nó là sản phẩm của sự sáng tạo lâu dài. Đồng thời, nó cũng là một hiện tƣợng lịch sử. Đó là sự tích lũy của lịch sử xã hội. Văn hóa đề cập đến lịch sử, địa lý, phong tục, truyền thống, lối sống, văn học và nghệ thuật, chuẩn mực hành vi, phƣơng thức tƣ duy và giá trị của một dân tộc hoặc một quốc gia. Nó bao gồm văn hóa vật chất, văn hóa thể chế và văn hóa tâm lý”. Do văn hóa là “sản phẩm của sự sáng tạo lâu dài” cho nên trong quá trình phát triển, con ngƣời luôn luôn có ý thức sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, từng bƣớc hoàn thiện nhân cách hƣớng đến con ngƣời lý tƣởng của mỗi thời đại, mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, quốc gia. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh (2011: 458): “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Mỗi tác phẩm văn chƣơng hƣớng đến miêu tả đối tƣợng trung tâm là con ngƣời thì tác phẩm đó ít nhiều mang những nét đặc trƣng về văn hóa của dân tộc, đất nƣớc nơi nhà văn đƣợc sinh ra, đƣợc tắm mình trong nền tảng giá trị văn hóa đó. Lê Nguyên Cẩn (2014: 11) cho rằng: “Tính văn hóa (la culturalité) của tác phẩm văn học là tính chất đặc thù gắn liền với mỗi tác phẩm văn học. Nó cho thấy tác phẩm văn học không chỉ toát lên vẻ đẹp ngôn từ mà còn là vẻ đẹp tâm hồn qua cách ứng xử và cách tiếp nhận, xử lý cuộc sống của một dân tộc hay một cộng đồng ngƣời nhất định. Nó không chỉ là quan niệm về con ngƣời đƣợc thể hiện qua sự khéo léo của nghệ thuật ngôn từ mà còn cả chuẩn mực ứng xử của cộng đồng, dân tộc trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Mỗi tác phẩm văn học đều mang trong TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021 27 nó tính văn hóa đặc trƣng của dân tộc, của đất nƣớc nơi tác phẩm đƣợc sinh ra”. Tác phẩm thể hiện rõ nhất chân dung con ngƣời và thời đại là yếu tố thu hút ngƣời đọc khám phá suy ngẫm và góp phần quan trọng tạo nên giá trị tác phẩm. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra mỗi tác phẩm văn học là sự kết hợp đan cài của nhiều mã khác nhau để tạo ra các hệ thống tầng bậc ý nghĩa của tác phẩm. Bàn về mã văn hóa (cultural code), Jenny Hyatt và Helen Simons (1999: 28) nhận định: “Sự hiểu biết về văn hóa thƣờng đƣợc thể hiện thông qua việc sử dụng mã. Các mã là một hệ thống bí mật của các từ, ký hiệu hoặc hành vi, đƣợc sử dụng để truyền tải các thông điệp bị ràng buộc theo ngữ cảnh”. Nhƣ vậy, nói đến mã văn hóa trong tác phẩm văn học có thể hiểu đó là tất cả các tín hiệu, các ký hiệu “ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, hình tƣợng con ngƣời, thiên nhiên, phong cảnh, cách nói, kiểu nói, cách tổ chức văn bản nói chung, nhằm chuyển tải tới độc giả một nội dung, một thông điệp, hoặc mang tính riêng, hoặc mang tính chung” (Lê Nguyên Cẩn, 2014: 44). Khai thác tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa chính là khám phá, bóc tách các lớp vỏ ngôn ngữ để hiểu đƣợc ... ngƣời ta suy ngẫm về cuộc đời, về thế thái nhân tình, buông bỏ những ƣu phiền trong cuộc sống. Trong Vang bóng một thời, nét văn hóa sinh hoạt này đƣợc Nguyễn PHẠM THỊ LƢƠNG – DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG TẬP TRUYỆN 32 Tuân miêu tả tỉ mỉ từ cách lựa chọn loại trà, lựa chọn nƣớc, đồ dùng để pha trà, và đặc biệt là có những ngƣời bạn tri âm để cùng thƣởng thức một ấm trà thơm. Dù cuộc sống của họ có cơ hàn, lỡ vận thì các nhà Nho vẫn duy trì nét sinh hoạt dân dã, thanh đạm này trong cuộc sống thƣờng nhật. Đối với họ, việc thƣởng trà là một cách để tiêu khiển, nhƣng đồng thời cũng là cách để họ thể hiện một phong cách sống rất riêng và độc đáo: “Vẫn còn quen cái thói phong lƣu, nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai, gặp mùa hoa nở, cụ lại còn cố bứt lấy ít nhị đem ƣớp luôn vào gói trà giắt trong mình, nếu đấy là trà mạn cũ” (Những chiếc ấm đất, tr. 50). Trong một truyện khác, Nguyễn Tuân thể hiện cách nhân vật thƣởng trà cũng tinh tế, cầu kỳ: “Cả ạ, thầy cho nƣớc pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nƣớc đọng trong lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống một ấm” (Chén trà sương, tr.110). Uống trà cũng là một cách “vận động thần khí để tiết ra ngoài những cái nặng nề trong cơ thể, đón khí lành của trời đất”, mà để có một ấm trà thơm hƣơng vị của đất trời, cụ Ấm đã chăm chút làm bằng cả cái tâm từ chọn nƣớc, đun nƣớc đến pha trà. Lúc thƣởng trà là lúc cụ Ấm chiêm nghiệm suy tƣ về thế thái nhân tình, là cách thể hiện một nét văn hóa ứng xử đầy tinh tế, thi vị: “Chƣa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng nhƣ pha trà mời khách, cụ ấm đã để vào đấy bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi. Trong ấm trà pha ngon, ngƣời ta nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lý” (Chén trà sương, tr. 108). Còn cụ Sáu trong truyện “Những chiếc ấm đất” nghiện trà tàu nhƣng lại rất kén chọn nƣớc dùng để pha trà. Cụ khăng khăng phải xin cho đƣợc nƣớc giếng của nhà chùa ở đồi Mai xa làng nửa ngày đƣờng gánh về mới chịu pha trà. Cụ Sáu tâm sự với nhà Sƣ: “Chùa nhà ta có cái giếng này quý lắm. Nƣớc rất ngọt. Có lẽ tôi nghiện trà tàu vì nƣớc giếng nhà chùa đây. Tôi sở dĩ không nghĩ đến việc đi đâu xa đƣợc cũng là vì không đem theo đƣợc nƣớc giếng này đi để pha trà” (Những chiếc ấm đất, tr. 50). Trong Vang bóng một thời, ngƣời đọc dễ dàng nhận thấy nét văn hóa sinh hoạt rất đẹp của các nhà Nho xƣa, đó là văn hóa thƣởng thức ngâm vịnh thơ ca. Trong các dịp đối ẩm, hoặc lúc thanh tịnh họ thƣờng ngâm ngợi những câu thơ đầy ý vị để bộc bạch tâm sự, hoặc là để thƣ giãn cho tinh thần. Nét văn hóa của sinh hoạt này có lẽ đƣợc tiếp nối từ truyền thống ngâm vịnh thi ca khởi nguồn từ Tao đàn nhị thập bát tú do vua Lê Thánh Tông sáng lập vào cuối thế kỷ XV. Văn hóa thƣởng thức ngâm vịnh là thú vui tao nhã của các nhà nho trong các dịp năm hết tết đến: “Mấy cụ đều khen lẫn nhau là thơ hay. Trong cái êm ấm của chiều xuân sớm, tiếng ngâm thơ quyến rũ cả đến tâm hồn một ngƣời lão bộc. Bõ già, chiều TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021 33 mồng một tết tự nhiên mặt sáng tỏ hẳn lên. Cái đẹp của tiệc rƣợu ngâm thơ lây cả sang ngƣời bõ” (“Hương cuội”, tr. 88). Trong sinh hoạt hàng ngày, có những nhà Nho lại chọn ngâm vịnh nhƣ là một thú tiêu khiển không thể thiếu để vui thú cảnh điền viên: “Sáng nay, cụ Ấm cũng ngâm thơ. Cụ tin rằng ngâm thơ lúc yên lặng, lúc mới tỉnh giấc là một cách vận động thần khí kỳ diệu nhất của một ngƣời sống bằng cuộc đời tâm tƣởng bên trong. Mỗi buổi sớm ngâm nhƣ thế là đủ tiết ra hết ngoài những cái nặng nề trong cơ thể và để đón lấy khí lành đầu tiên của trời đất. Âu cũng là một quan niệm và một phép vệ sinh của thời cũ. Và ngƣời xƣa uống trà là để giữ mình cho lành mạnh” (Chén trà sương, tr. 109) Lối uống rƣợu thƣởng hoa của ông cụ Kép với mấy ngƣời bạn già tâm giao cũng rất cầu kỳ, lạ đời, độc đáo; uống rƣợu nhắm với đá cuội tẩm kẹo mạch nha, rồi ƣớp với hoa lan ủ kín trong lồng bàn phất giấy, khi cuộc rƣợu bắt đầu, mở lồng bàn ra thì mùi hƣơng lan dìu dịu bay tỏa vào không gian. Các cụ vừa thƣởng rƣợu, vừa thong thả ngâm thơ trong một không khí đầm ấm, thanh lƣơng: “Rồi mỗi chén rƣợu ngừng là một bài thơ ngâm trong trẻo. Cứ thế cho tàn hết buổi chiều” (Hương cuội, tr. 88). Họ uống rƣợu để suy ngẫm, để thƣởng thức cái dƣ vị nhàn tản, thanh đạm của cuộc sống. Việc uống rƣợu ngâm thơ cũng là một thú vui truyền thống của các nhà Nho xƣa. 3.4. Dấu ấn văn hóa qua ngôn ngữ nghệ thuật Tiếp cận tác phẩm từ góc độ văn hóa học hƣớng đến khai thác những giá trị văn hóa đƣợc biểu hiện trong tác phẩm qua hệ thống ngôn ngữ, thế giới hình tƣợng đƣợc mô tả. Qua đó, ngƣời đọc hình dung đƣợc những dấu ấn văn hóa của thời đại. Mỗi tác phẩm văn học đƣợc hình thành dựa trên những nền tảng văn hóa lịch sử nhất định. Dựa trên các phƣơng diện nhƣ ngôn ngữ, kết cấu, hình tƣợng nghệ thuật, nhân vật, ngữ cảnh để tìm ra dấu ấn văn hóa của dân tộc, thời đại là một cách tiếp cận có thể bắt rễ sâu vào tác phẩm để giải mã các ký hiệu trong tác phẩm ấy. Ngôn ngữ là một yếu tố nghệ thuật tạo nên phong cách sáng tác riêng của mỗi nhà văn. Tiếp cận thế giới hình tƣợng trong tác phẩm, ngƣời đọc phải từng bƣớc khám phá những vỉa tầng ngôn ngữ để có thể hiểu đƣợc ý nghĩa ẩn tàng trong chỉnh thể nghệ thuật ngôn từ ấy. Ngôn ngữ hàm chứa trong nó những giá trị văn hóa của một cộng đồng nhất định. Ngƣời đọc muốn cảm nhận đƣợc những giá trị văn hóa ấy cần phải có trí tƣởng tƣợng, sự hiểu biết, sự trải nghiệm văn hóa của cộng đồng ấy. Nhà văn là ngƣời thẩm thấu văn hóa thời đại mà họ đang sống. Bằng tài năng sáng tạo, nhà văn sẽ thể hiện đƣợc những giá trị văn hóa qua ngôn ngữ nghệ thuật để mang lại giá trị thẩm mĩ cho tác phẩm văn học. Ngôn ngữ là phƣơng tiện biểu đạt tƣ tƣởng của con ngƣời và cũng là đối PHẠM THỊ LƢƠNG – DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG TẬP TRUYỆN 34 tƣợng để ngƣời ta khám phá tƣ tƣởng, văn hóa của con ngƣời trong các vỉa tầng ngôn ngữ. Ngôn ngữ gắn liền với tƣ duy, gắn liền với văn hóa của con ngƣời mỗi thời đại. Do vậy, “Văn học nghệ thuật tác động tới tƣ tƣởng, tình cảm ngƣời đọc không phải bằng lôgic lý trí, bằng ngôn ngữ chính luận mà chủ yếu bằng thi pháp nghệ thuật và ngôn ngữ hình tƣợng” (Lã Nguyên, 2018: 70). Nhà văn xuất thân từ môi trƣờng văn hóa nào ít nhiều sẽ chịu ảnh hƣởng dấu ấn từ môi trƣờng văn hóa đó. Trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã “phục nguyên không gian văn hóa”, con ngƣời văn hóa bằng một sự trau chuốt chắt lọc câu chữ trên từng trang viết. Hà Văn Đức (2001: 879) cho rằng: “Nguyễn Tuân kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ cổ xƣa với ngôn ngữ hiện đại, sử dụng mặt mạnh của ngôn ngữ nhiều ngành nghệ thuật “để làm giàu có thêm cho ngôn ngữ văn học”. Những trang văn của Nguyễn Tuân cho thấy một tài năng độc đáo trong việc sử dụng, lựa chọn ngôn từ tinh tế và sâu sắc. Ông đã thể hiện sự tài hoa, uyên bác của mình qua việc sử dụng ngôn ngữ trong Vang bóng một thời. Bằng sự am hiểu vốn văn hóa của dân tộc, bằng cách sử dụng từ ngữ đầy tinh tế, ông đã viết nên những trang văn giàu tính tạo hình, sinh động và mang đậm dấu ấn văn hóa Việt. Trong Chữ người tử tù, sự miêu tả tỉ mỉ, chi tiết và những từ ngữ Nguyễn Tuân lựa chọn để miêu tả góp phần thể hiện rất rõ hoàn cảnh, cử chỉ, dáng điệu bộc lộ đƣợc khí chất và tâm trạng của từng nhân vật: “Một ngƣời tù cổ đeo gông, chân vƣớng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Ngƣời tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bƣng chậu mực...” (Chữ người tử tù, tr. 96). Những câu chữ miêu tả đặc sắc đầy đƣờng nét, giàu tính chất tạo hình trên một lần nữa cho thấy: “Nguyễn Tuân là một trong những bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc; đồng thời cũng khẳng định thêm sự phong phú, chính xác về kiến thức lịch sử, văn hóa, xã hội” (Tôn Thảo Miên, 2003: 252). Nguyễn Tuân sử dụng dày đặc những từ ngữ miêu tả, bộc lộ rõ nét vẻ cổ kính, để dẫn dắt ngƣời đọc về lại những khung cảnh một thời quá khứ xa xƣa. Không khí của một tiệc rƣợu đậm chất văn hóa của các nhà nho xƣa đƣợc phác họa qua ngòi bút của ông: “Dứt tiếng cụ Kép, tất cả bốn cụ đều úp lòng tay vào nhau thi lễ và giơ tay chỉ thẳng vào giữa, mời nhau ai cao tuổi xin nhắp chén trƣớc đi. Tiệc rƣợu bắt đầu. Bõ già kính cẩn chắp tay đứng sau lƣng chủ, có vẻ cũng thèm say lắm” (Bữa rượu máu, tr. 87). Hay trong truyện Chén trà sương, ông mô tả sự chăm chút kỹ lƣỡng của cái thú uống trà giữa các bậc hàn nho: “Chỉ có ngƣời tao nhã, cùng một TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021 35 thanh khí, mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà. Những lúc ấy, chủ nhân phải tự tay mình chế nƣớc, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không dám nhờ đến ngƣời khác, sợ làm thế thì mất hết cả thành kính” (Chén trà sương, tr. 108). Câu văn của Nguyễn Tuân tạo ra sự khoan thai, đĩnh đạc, thong thả trong giọng điệu khi ông nói về những nét sinh hoạt văn hóa của các bậc nho sĩ. Cấu tạo câu văn của ông thƣờng nhiều thành phần kết hợp với các biện pháp tu từ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật độc đáo: “Trong cái vƣờn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều tàn nắng, ngƣời ta thƣờng thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, mặc áo lông trắng, lom khom tỉa những lá úa trong đám lá xanh. Cụ Kép nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý” (Bữa rượu máu, tr. 80). Trong nhiều truyện, Nguyễn Tuân sử dụng câu văn tƣơng đối dài, khai triển nhiều thành phần trong một câu. Ông phát triển câu văn một cách rất tự nhiên, tạo ra sự miên man trong giọng kể. Khẳng định tài năng trong việc lựa chọn ngôn từ, sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật đầy giá trị đặc sắc của tác giả tập Vang bóng một thời, Nguyễn Đình Thi đã ca ngợi: “Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ bậc thầy của tiếng Việt Nam và ông làm công việc tạo ra những cái chƣa có, sự sáng tạo ấy do tự học, tự tìm tòi trong trƣờng đời, trong ngay nội tâm mình và trong văn hóa dân tộc ta và các dân tộc khác” (dẫn theo Phan Cự Đệ và tập thể tác giả, 2005: 610). Nguyễn Tuân đã lựa chọn ngôn từ thể hiện với một giọng văn rất riêng cho tập truyện Vang bóng một thời, để lại dấu ấn khác lạ trong sự nghiệp sáng tác của ông, và cũng ghi dấu ấn độc đáo không lẫn với bất kỳ giọng văn nào trƣớc và sau ông. 4. THAY LỜI KẾT Có thể thấy, qua tác phẩm Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã miệt mài đi tìm và cố gắng lƣu giữ lại nét đẹp trong đời sống xã hội và văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông hƣớng ngòi bút miêu tả vào những chuyện xƣa, về một thời quá khứ để bày tỏ nỗi lòng mình. Vũ Ngọc Phan (1989: 416) từng nhận xét: “Tác giả chỉ định dùng những nét đơn giản để ghi lại mấy cảnh xƣa có những tính cách đặc Việt Nam. Cái tiếng vang của thời đã qua, cái bóng của thời đã qua mà ngày nay ngƣời ta tƣởng nhƣ còn văng vẳng và thấp thoáng”. Trong Vang bóng một thời, ngƣời ta nhận thấy những nét văn hóa truyền thống còn đậm nét của ngƣời Việt. Tất cả đƣợc thể hiện qua thế giới nhân vật với tiếng nói, dáng điệu, cách ứng xử mang đậm dấu ấn nét đẹp xƣa, đúng nhƣ Phan Cự Đệ (2004: 235) đã nhận xét: “Vang bóng một thời đã giữ ngƣời ta lại với những hình ảnh gần gũi nhất của dân tộc”. PHẠM THỊ LƢƠNG – DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG TẬP TRUYỆN 36 CHÚ THÍCH (1) Tập truyện Vang bóng một thời đƣợc nhà xuất bản Tân Dân ấn hành lần đầu tiên năm 1940. Trƣớc đó, nhiều truyện trong Vang bóng một thời đã đƣợc đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Tao Đàn. Tập truyện đƣợc tái bản vào các năm 1943, 1945, 1951, 1962, 1988. Cho đến nay, tập truyện đã đƣợc tái bản nhiều lần. Năm 2005, nhà xuất bản Văn học đã in Tuyển tập Nguyễn Tuân (Lữ Huy Nguyên tuyển chọn), trong đó tập truyện Vang bóng một thời đƣợc in trọn vẹn trong Tuyển tập bao gồm 12 tác phẩm (Những chiếc ấm đất, Bữa rượu máu, Thả thơ, Đánh thơ, Ngôi mả cũ, Hương cuội, Chữ người tử tù, Một đám bất đắc chí, Chén trà sương, Đèn đêm thu, Trên đỉnh non Tản, Khoa thi cuối cùng). TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Hà Văn Đức. 2001. Lý luận, phê bình văn học miền Trung thế kỷ XX. Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng. 2. Hoàng Chí Bảo. 2010. “Nhân cách và giáo dục văn hóa nhân cách”. https://www. chungta.com/nd, truy cập ngày 06/5/2010. 3. Hồ Chí Minh. 2011. Toàn tập – Tập 3. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 4. Hyatt, Jenny - Helen Simons. 1999. “Cultural Codes – Who Holds the Key?”. https://jour nals.sagepub.com/doi/10.1177/13563899922208805. 5. Jane BinSun. 2018. “What is the Relationship Between Literature and Culture?”. https:// www.quora.com/What-is-the-relationship-between-literature-and-culture-1, truy cập ngày 7/6/2019. 6. Kim Ann Zimmermann. 2017. “What Is Culture? Definition of Culture?”, https://www.live science.com/21478-what-is-culture-definition-of-culture.html, truy cập ngày 13/7/2018. 7. Lã Nguyên. 2018. Phê bình kí hiệu học - Đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ. Hà Nội: Nxb. Phụ nữ. 8. Lê Nguyên Cẩn. 2014. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia. 9. Nguyễn Tuân. 2005. Vang bóng một thời. Trích trong Tuyển tập 1. Hà Nội: Nxb. Văn học. 10. Phan Cự Đệ và tập thể tác giả. 2005. Văn học Việt Nam 1900-1945. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 11. Phan Cự Đệ. 2004. Văn học Việt Nam thế kỷ XX. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 12. Tôn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu). 2003. Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 13. Vũ Ngọc Phan. 1989. Nhà văn hiện đại – Tập 1. TPHCM: Nxb. Khoa học Xã hội.
File đính kèm:
- dau_an_van_hoa_trong_tap_truyen_vang_bong_mot_thoi_cua_nguye.pdf