Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng
Nuôi trồng thủy sản là ngành sản xuất thực phẩm tăng
trưởng nhanh nhất toàn cầu, với sản lượng tăng từ
khoảng 4 triệu tấn năm 1970 lên 73,8 triệu tấn trong
năm 20141. Đến nay, 50% lượng cá tiêu thụ của con
người trên thế giới đến từ nuôi trồng thủy sản và
khoảng 18 triệu người đang tham gia nuôi cá, trong
đó 94% là từ châu Á1. Việt Nam, nhà sản xuất nuôi
trồng thủy sản lớn thứ 15 trên thế giới, trong đó tỉnh
An Giang cung cấp gần 25% tổng sản lượng thủy sản
quốc gia, được chọn làm khu vực nghiên cứu giữa các
nước đang phát triển vì nuôi trồng thủy sản đóng góp
đáng kể của nền kinh tế nông thôn của đất nước thông
qua thu nhập từ nông nghiệp và trên - và việc làm phi
nông nghiệp. An Giang là một trong bốn tỉnh nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu
Long – nơi đang chịu nhiều ảnh hưởng do biến đổi
khí hậu toàn cầu. Đất đai bị bạc màu; đa dạng sinh
học giảm mạnh; diện tích đất bị xâm nhập mặn, đất bị
khô hạn, nhiễm phèn ngày càng tăng; nhiệt độ không
khí tăng cao và hạn hán bất thường, lũ lụt không theo
quy luật; nhiều dịch bệnh mới hình thành đã đe dọa
đến đời sống và hoạt động của người dân trong tỉnh.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 5(1):254-263 Open Access Full Text Article Nghiên cứu 1Viện Môi trường và Tài nguyên - Đại học Quốc gia TP.HCM, Việt Nam 2Đại học Tôn Đức Thắng TP.HCM, Việt Nam Liên hệ Nguyễn Hồng Anh Thư, Viện Môi trường và Tài nguyên - Đại học Quốc gia TP.HCM, Việt Nam Email: anhthu0710.95@gmail.com Lịch sử Ngày nhận: 01-06-2020 Ngày chấp nhận: 18-01-2021 Ngày đăng: 05-03-2021 DOI : 10.32508/stdjsee.v5i1.530 Bản quyền © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố mở được phát hành theo các điều khoản của the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng Nguyễn Hồng Anh Thư1,*, Nguyễn Khôn Huyền1, Lê Quốc Vĩ1, Trần Thị Hiệu1, Trần Trung Kiên1, Lê Trọng Nhân2, Lê Thanh Hải1 Use your smartphone to scan this QR code and download this article TÓM TẮT Nuôi trồng thuỷ sản – thuộc nhóm Ngư Nghiệp - là một trong những ngành kinh tế có giá trị cao, chiếm một phần không nhỏ trong cơ cấu kinh tế Nông – Lâm – Ngư nghiệp tại Việt Nam và An Giang là một tỉnh từ lâu đã có thế mạnh trong ngành nuôi trồng thuỷ sản tại Việt Nam. Tuy nhiên, tính bền vững của ngành này đang gặp nhiều thách thức bởi quá trình biến đổi khí hậu; Vì vậy, nhu cầu cấp thiết là đánh giá tính dễ bị tổn thương đối với biến đổi khí hậu của nuôi trồng thủy sản An Giang dựa trên những thay đổi được dự đoán về nhiệt độ và lượng mưa của vùng theo các kịch bản biến đổi khí hậu và đánh giá tính dễ bị tổn thương của chúng cho từng khu vực, sử dụng phương pháp dựa trên chỉ số của Hội đồng liên chính phủ về định nghĩa biến đổi khí hậu về tính dễ bị tổn thương để khắc phục những hạn chế trong việc phát triển các chiến lược thích ứng cụ thể ở quy mô khu vực. Tổng cộng có 27 chỉ số khí hậu, môi trường và kinh tế xã hội đã được chọn cho ba thành phần dễ bị tổn thương: phơi nhiễm, độ nhạy và khả năng thích ứng. Kết quả cho thấymức độ tổn thương do BĐKH đối với ngành nuôi cá tra tại tỉnh An Giang ởmức độ trung bình, trong đó huyện Châu Phú chịu tổn thương cao do huyện chủ yếu có sinh kế chính là nuôi cá tra. Dựa vào hiện trạng và mức độ tổn thương do BĐKH đề xuất các giải pháp thích hợp cho người nuôi cá tra với mục tiêu phát triển bền vững ngành kinh tế chủ lực này đồng thời tạo ra sinh kế mới cho người dân và giảm tác động đến môi trường do hoạt động nuôi trồng gây ra. Từ khoá: chỉ số tổn thương, tính dễ tổn thương, biến đổi khí hậu, nuôi cá tra GIỚI THIỆU Nuôi trồng thủy sản là ngành sản xuất thực phẩm tăng trưởng nhanh nhất toàn cầu, với sản lượng tăng từ khoảng 4 triệu tấn năm 1970 lên 73,8 triệu tấn trong năm 2014 1. Đến nay, 50% lượng cá tiêu thụ của con người trên thế giới đến từ nuôi trồng thủy sản và khoảng 18 triệu người đang tham gia nuôi cá, trong đó 94% là từ châu Á 1. Việt Nam, nhà sản xuất nuôi trồng thủy sản lớn thứ 15 trên thế giới, trong đó tỉnh An Giang cung cấp gần 25% tổng sản lượng thủy sản quốc gia, được chọn làm khu vực nghiên cứu giữa các nước đang phát triển vì nuôi trồng thủy sản đóng góp đáng kể của nền kinh tế nông thôn của đất nước thông qua thu nhập từ nông nghiệp và trên - và việc làm phi nông nghiệp. An Giang là một trong bốn tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long – nơi đang chịu nhiều ảnh hưởng do biến đổi khí hậu toàn cầu. Đất đai bị bạc màu; đa dạng sinh học giảmmạnh; diện tích đất bị xâm nhậpmặn, đất bị khô hạn, nhiễm phèn ngày càng tăng; nhiệt độ không khí tăng cao và hạn hán bất thường, lũ lụt không theo quy luật; nhiều dịch bệnhmới hình thànhđã đe dọa đến đời sống và hoạt động của người dân trong tỉnh. Các nghiên cứu hiện tại về tính dễ bị tổn thương của việc đánh bắt thủy sản và nuôi trồng thủy sản đối với biến đổi khí hậu đã được tiến hành chủ yếu ở quy mô quốc gia kể từ khi Allison et al.2,3. Allison et al.2 các vấn đề dễ bị tổn thương dựa trên các chỉ số về sự nóng lên toàn cầu, tầm quan trọng tương đối của nghề cá trong bối cảnh kinh tế quốc gia và đời sống chế độ ăn uống, và khảnăng thíchứng với biến đổi khí hậu trong 132 quốc gia. Kết quả của họ chỉ ra rằng các quốc gia ở Tây Phi, tây bắc NamMỹ và NamÁ là những quốc gia dễ bị tổn thương nhất. Handisyde và cộng sự4 đã tiến hànhmột nghiên cứu về nuôi trồng thủy sản trong đó thay đổi nhiệt độ nước, mật độ dân số, thay đổi lượng mưa, rủi ro thiên tai và sản xuất nuôi trồng thủy sản được chọn làm chỉ số cho đánh giá ở quy mô quốc gia. Tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu có thể khác nhau giữa các vùng tùy theo vùng khí hậu, khu vực địa lý (nội địa hoặc ven biển), loại hệ thống nuôi trồng thủy sản và loài nào được nuôi. Các khu vực nội địa bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của lũ lụt, nhiệt độ và lượng mưa, trong khi các khu vực ven biển bị ảnh hưởng bởi mực nước biển tăng, độ cao sóng và xói mòn đất nhanh 5. Tuy nhiên, mức độ tác động có thể không giống nhau đối với từng mối nguy hiểm Trích dẫn bài báo này: Thư N H A, Huyền N K, Vĩ L Q, Hiệu T T, Kiên T T, Nhân L T, Hải L T. Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng. Sci. Tech. Dev. J. - Sci. Earth Environ.; 5(1):254-263. 254 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 5(1):254-263 này. Tính dễ bị tổn thương của một hệ thống không chỉ phụ thuộc vào tác động của cácmối nguy hiểmmà còn phụ thuộc vào độ nhạy và khả năng thích ứng của hệ thống. 6 Nghiên cứu “Đánh giá về tính dễ bị tổn thương của nuôi trồng thủy sản Hàn Quốc với biến đổi khí hậu” của nhóm tác giả Bong – Tae Kim, Christopher L. Brown, Do –HoonKimdựa trên những thay đổi được dự đoán về nhiệt độ và độ mặn của nước biển ở các vùng biển liền kề của Bán đảoTriều Tiên theo các kịch bản tập trung đại diện (RCP). Các yếu tố của biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản, trực tiếp hoặc gián tiếp, bao gồm tăng nhiệt độ nướ ... ng như người dân đối với biến đổi khí hậu khá cao trên 80%. Các huyện có chỉ ố dễ bị tổn thương ởmức trung bình mặc dù vẫn chịu nhiều các tác động từ BĐKH tuy nhiên các ảnh hưởng là không lớn. Bên cạnh đó, khả năng thích ứng thống kê được là khá tích cực. Trong đó nhận thức về biến đổi khí hậu của người dân từ 80 – 95%, và số lượng người dân được tham gia các buổi tập huấn, hội thảo về BĐKH đạt tỷ lệ cao 70 – 85% Các chỉ số về xã hội như cơ sở y tế, trường học, tỷ lệ giáo viên cũng khá cao. THẢO LUẬN Dựa trên các kết quả phân tích bộ chỉ số tính dễ bị tổn thương nhằm đưa ra thứ tự ưu tiên giữa các huyện để thực hiện thí điểm các giải pháp thích ứng với BĐKH giúp cho ngành thủy sản cá tra tại An Giang. Đồng thời đưa ra các giải pháp phù hợp ứng với thực trạng của ngành nuôi trồng cá tra tại địa phương và tạo thêm nguồn sinh kếmới cho người dân. Theo kết quả tính toán 2 yếu tố tác động lớn nhất đến ngành thủy sản do BĐKH gây ra là nhiệt độ và lượng mưa.Giải pháp ứng phó cho các huyện khi nhiệt độ cao và mưa kéo dài. - Đối với khi nhiệt độ tăng lên cao khiến cho hàm lượng ôxy trong nước giảm mạnh vào ban đêm, môi trường nước xấu đi, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cá tra. Các hiện tượng này xảy ra cường độ ngày càng cao, diễn biến phức tạp hơn và khó đoán, làm thay đổi mùa vụ canh tác, suy giảm tốc độ tăng trưởng, nhiều bệnh tật thường xuyên xảy ra khiến người nuôi cá tra gặp nhiều khó khăn. Các giải pháp: + Để phòng bệnh cho cá và khử trùng nước ao, định kỳ dùng vôi bột hòa nước và tạt đều khắp ao, có thể sử dụng thêm chế phẩm sinh học EM gốc để để xử lý và khử trùng nước ao nuôi, Đặc biệt, những chỗ cho cá ăn thường chứa thức ăn thừa, thối rữa gây nhiễm bẩn tạo điều kiện cho sinh vật gây bệnh phát triển, chế phẩm có thể giúp phân hủy. + Quản lý môi trường: Cá tra chịu rất tốt trong điều kiện khắc nghiệt môi trường nuôi, nhưng do hiện nay thường nuôi thâm canh mật độ cao, thức ăn cho cá nhiều, chất thải ra cũng lớn nên môi trường ao nuôi bị nhiễm bẩn nhanh. Quản lý chất lượng nước trong ao ương và nuôi thật tốt, tránh để xảy ra hiện tượng các yếu tố thủy lý hóa biến động lớn và ao nhiễm bẩn trong quá trình sản xuất. Thường xuyên thay nước, mỗi lần 20 - 30% lượng nước trong ao để cá tra có điều kiện sống sạch và khỏe mạnh. + Giảm lượng thức ăn trong ngày từ 30 – 40 %, hoặc bỏ cử ăn vào buổi trưa. + Để tăng sức đề kháng cho cá tra tăng cường sử dụng chế phẩm sinh học có nguồn gốc thảo dược để cải thiện chất lượng nước, nâng cao sức đề kháng vật nuôi, gia tăng sự chuyển hóa hấp thu thức ăn của vật nuôi sẽ góp phần giảm thiểu dịch bệnh, chất lượng sản phẩmđảmbảo an toàn và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường trong đó có chế phẩm EM gốc hiệu quả. + Bên cạnh đó, cũng cần bổ sung Vitamin C, Vitamin tổng hợp, khoáng chất, các loại sản phẩm có tác động đến sự phục hồi hoạt động của thận, tỳ tạng, gan, gia tăng mật độ huyết sắc tố trong máu để tăng sức đề kháng cho cá tra bằng cách trộn vitamin C vào thức ăn. Sử dụng hóa chất và kháng sinh phải tuân theo quy định, sử dụng kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm khuẩn phải đúng theo hướng dẫn của chuyên môn kỹ thuật. Tuyệt đối không dùng thuốc kháng sinh để phòng bệnh cho cá. - Vào những ngày trời mưa kéo dài, nhiệt độ giảm thì cần thiết giảm lượng cho ăn và cho cá ăn vào thời điểm nhiệt độ nước ao có sự cân bằng giữa tầngmặt và tầng đáy (lúc trời đứng bóng về chiều). Khi hút bùn đáy ao xong, cần xử lý nền đáy và xử lý cho nước ao trong trở lại mới cho ăn, bởi vì nếu cá phải sống và bắt mồi ở vùng có tích tụ nhiều chất thải và khí độc thì dễ xảy ra hiện tượng cá mất đi hứng thú bắt mồi. Bên cạnh 260 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 5(1):254-263 đó, nếu cá bắt mồi trong vùng nước nhiễm bẩn, cũng sẽ tạo điều kiện cho tác nhân gây bệnh xâm nhập vào nội tạng. - Cải tiến kỹ thuật ương nuôi: +Khôngnênương, nuôimật độ quá dày: mật độ ương từ cá bột lên cá hương từ 300 - 400 con/m2; cá hương lên cá giống từ 100 – 150 con/m2, mật độ nuôi thương phẩm từ 25 - 30 con/m2. + Cho cá ăn đảm bảo chất và số lượng theo giai đoạn phát triển, lúc cá có dấu hiệu bệnh nên giảm lượng thức ăn; + Quản lý chất lượng nước trong ao ương và nuôi thật tốt, tránh để xảy ra hiện tượng các yếu tố thủy lý hóa biến động lớn và ao nhiễm bẩn trong quá trình sản xuất; + Sử dụng hóa chất và kháng sinh phải tuân thủ theo qui định, sử dụng kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm khuẩn phải đúng theo hướng dẫn của chuyên môn kỹ thuật, tuyệt đối không sử dụng các sản phẩm có chứa hoạt chất Trifluralin trong quá trình nuôi với bất kỳ mục đích sử dụng nào; Định kỳ 10 -15 ngày sử dụng muối và vôi để sát khuẩn cho cá. KẾT LUẬN Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về kịch bản, tác động của BĐKH lên các nguồn tài nguyên, sinh kế của người dân đã và đang được thực hiện để phục vụ cho công tác đề ra chiến lược thích ứng với BĐKH. Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu về những ảnh hưởng cũng như nhận thức, ứng phó của người nuôi thủy sản nói riêng và các lĩnh vực cụ thể nói chung đối với hiện tượng BĐKH.Nghiên cứu này tiến hành xây dựng được bộ chỉ thị đánh giá tính dễ bị tổn thương do BĐKH cho cá tra tỉnh An Giang trong bối cảnh BĐKH. Khi tiến hành xây dựng bộ chỉ số và tính DBTT tuy gặp khó khăn trong việc thu thập số liệu nhưng lại đánh giá toàn diện tính dễ tổn thương do BĐKH và nhận đỉnh rằng 2 yếu tố tác động lớn nhất đến ngành thủy sản do BĐKH gây ra là nhiệt độ và lượng mưa. Trong nghiên cứu này, mới định lượng giá kinh tế do BĐKH ở quy mô cấp cấp tỉnh, khu vực, nó chỉ đánh giá một cách định tính tác động của BĐKH thông qua chỉ số tổn thương. Kết quả tính toán cho thấy tại An Giang chỉ số dễ bị tổn thương hầu hết ở các mức trung bình, cao. Trong đó, huyện có mức độ dễ bị tổn thương cao huyện Châu Phú; huyện có mức độ dễ bị tổn thương trung bình bao gồm9 huyện và 1 huyện có mức độ dễ bị tổn thương thấp – Tịnh Biên. Dựa vào kết quả tỷ lệ dễ bị tổn thương do BĐKH, các giải pháp thích ứng nên được tiến hành ưu tiên cho huyệnChâu Phú vì huyện Châu Phú chịu mức độ tổn thương cao đồng thời người dân trong huyện đa số sống dựa vào nghề nuôi cá tra. LỜI CẢMƠN Tập thể tác giả xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Chương trình Khoa học và Công nghệ Trọng điểm cấp nhà nước giai đoạn 2014 – 2019 “Khoa học và Công nghệ Phục vụ Phát triển bền vững Vùng Tây Nam Bộ” đã hỗ trợ kinh phí thực hiện nghiên cứu này thông qua hợp đồng số 13/2018/HĐ-KHCN- TNB.ĐT/14-19/C25. Xin cảm ơn đến Đại học Quốc gia TP HCM, văn phòng chương trình Tây Nam Bộ, Viện Môi trường và Tài nguyên đã hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để chúng tôi có thể hoàn thành nghiên cứu, xin cảm ơn các Sở BanNgành đặc biệt là Sở Tài nguyên vàMôi trường các tỉnh ĐBSCL đã hỗ trợ và cung cấp số liệu, tạo điều kiện khảo sát thực tế địa phương. DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT AC: Khả năng thích ứng BĐKH: Biến đổi khí hậu ĐBSCL: Đồng bằng song Cửu Long E: Độ phơi nhiễm KTTV: Khí tượng thủy văn IPCC: Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu PĐT: Phiếu điều tra NBD: Nước biển dâng S: Độ nhạy cảm SLQT: Số liệu quan trắc TDTT: Tính dễ tổn thương VI: Chỉ số dễ bị tổn thương XUNGĐỘT LỢI ÍCH Nhóm tác giả cam đoan rằng không có xung đột lợi ích trong công bố bài báo “Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng”. ĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC GIẢ Tác giảNguyễnHồngAnhThư,NguyễnKhônHuyền, Lê Quốc Vĩ, Trần Thị Hiệu, Trần Trung Kiên, Lê Trọng Nhân, Lê Thanh Hải cùng thực hiện tất cả các bước và quy trình xây dựng kết quả của nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. FAOF. Minimumdietary diversity forwomen: a guide formea- surement. Rome: FAO. 2016;82. 2. Allison EH, et al. Vulnerability of national economies to the impacts of climate change on fisheries’, Fish and fisheries. 2009;10(2):173–196. Available from: https://doi.org/10.1111/ j.1467-2979.2008.00310.x. 3. Watts MJ, Bohle HG. The space of vulnerability: the causal structure of hunger and famine. Progress in human geog- raphy. 1993;17(1):43–67. Available from: https://doi.org/10. 1177/030913259301700103. 261 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 5(1):254-263 4. Handisyde N, Telfer TC, Ross LG. Vulnerability of aquaculture- related livelihoods to changing climate at the global scale. Fish and fisheries. 2017;18(3):466–488. Available from: https: //doi.org/10.1111/faf.12186. 5. Zsamboky M, Fernández-Bilbao A, et al. Impacts of climate change on disadvantaged UK coastal communities. York, UK: Joseph Rowntree Foundation. 2011;. 6. Parry M, Hanson C. Climate change 2007-impacts, adaptation and vulnerability: Working group II contribution to the fourth assessment report of the IPCC. Cambridge University Press. 2007;4. 7. Kim BT, Brown CL. Assessment on the vulnerability of Korean aquaculture to climate change. Marine Policy. 2019;99:111– 122. Available from: https://doi.org/10.1016/j.marpol.2018.10. 009. 8. ShawR. Community-based climate changeadaptation inViet- nam: inter-linkages of environment, disaster, and human se- curity’, Multiple dimensions of global environmental change. TERI Press, New Delhi(India). 2006;p. 521–547. 9. Dolan AH, Walker IJ. Understanding vulnerability of coastal communities to climate change related risks. Journal of Coastal Research. 2006;p. 1316–1323. 10. Adger WN, Kelly PM, Ninh NH. Living with environmental change: social vulnerability, adaptation and resilience in Viet- nam. Routledge. 2012;Available from: https://doi.org/10.4324/ 9780203995570. 11. Ngữ ND. Biến đổi khí hậu, NXB Khoa học và Kỹ thuật’, Hà Nội. 2008;412. 12. Bé NV, Đăng Văn Trí P, Hằng TTL, Triển TV. Ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến sản xuất nông nghiệp, thủy sản huyện TrầnĐề, tỉnh Sóc Trăng. Can ThoUniversity Journal of Science. 2017;50:94. Available from: https://doi.org/10.22144/ctu.jvn. 2017.071. 13. Mackay P, Russell M, Merz SK. Socialist Republic of Viet Nam: Climate change impact and adaptation study in the Mekong Delta. Technical Assistance Consultant’s Report (Kien Giang Atlas). 2011;60. 14. Nhuận MT. Đánh giá tổn thương phục vụ cho quy hoạch và quản lý môi trường (lấy thí dụ ở thành phố Hải Phòng và phụ cận). VIETNAM JOURNAL OF EARTH SCIENCES. 2006;28(1):1– 10. 15. Kam SP, Badjeck MC. Autonomous adaptation to climate change by shrimp and catfish farmers in Vietnam’s Mekong River delta. 2012;. 16. IPCC CC. Mitigation of climate change. Contribution of work- ing group III to the fifth assessment report of the intergovern- mental panel on climate change. 2014;. 17. Iyengar NS, Sudarshan P. A method of classifying regions from multivariate data. Economic and political weekly. , pp -, . 1982;p. 2047–2052. 18. Pillai P, Philips BR, Shyamsundar P, Ahmed K, Wang L. Climate risks and adaptation in Asian coastal megacities. Washington, DC: World Bank. 2010;. 19. Hiền TD. Nghiên Cứu Xây Dựng Mô Hình Đánh Giá Tác Động Của Biến Đổi Khí Hậu Đến Một Số Lĩnh Vực Kinh Tế - Xã Hội Cho Thành Phố Đà Nẵng;. 262 Science & Technology Development Journal – Science of The Earth & Environment, 5(1):254-263 Open Access Full Text Article Research Article 1Institute For Environment And Resources – VNU-HCM, Vietnam 2Ton Duc Thang University, Việt Nam Correspondence Nguyen Hong Anh Thu, Institute For Environment And Resources – VNU-HCM, Vietnam Email: anhthu0710.95@gmail.com History Received: 01-06-2020 Accepted: 18-01-2021 Published: 05-3-2021 DOI : 10.32508/stdjsee.v5i1.530 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Evaluation for the vulnerability of climate change affecting to shark catfish farming in An Giang and suggesting some solutions for this case. Nguyen Hong Anh Thu1,*, Nguyen Khon Huyen1, Le Quoc Vi1, Tran Thi Hieu1, Tran Trung Kien1, Le Trong Nhan2, Le Thanh Hai1 Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT Aquaculture that belongs to Fishery is one of the high-value economies accounting for a signifi- cant portion in the economic structure of Agriculture- Forestry- Fishery in Viet Nam and An Giang- a province that has prevailed in Aquaculture in Viet Nam. However, its sustainability has been fac- ing many obstacles derived from climate change; Hence, it is essential to evaluate the vulnerability of climate change affecting shark catfish farming in An Giang based on the prediction of temper- ature and rainfall obtained from sets of conditions of climate change and then evaluate their vul- nerability for each area by using a numerical method and based on Intergovernmental Panel on Climate Change in vulnerability to overcome the difficulties in development strategies adapt for a certain area. There are 27 indicators of climate, environment, and social economics selected for three vulnerable components: exposure, sensitivity, and adaptability. As a result, it is shown that the vulnerability of catfish farming in An Giang due to climate change is at a moderate level, and Chau Phu district is suffering from high vulnerability because catfish farming is known as residents' livelihood there. Followed by practical issues and the levels of vulnerability due to climate change, some solutions are suggested for the purpose of sustainability in this prevailed economy as well as the creation of new means of living and reduce effects affecting the environment. Key words: vulnerability index, vulnerability, climate change, pangasius farming Cite this article : Thu N H A, Huyen N K, Vi L Q, Hieu T T, Kien T T, Nhan L T, Hai L T. Evaluation for the vulnerability of climate change affecting to shark catfish farming in An Giang and suggesting some solutions for this case.. Sci. Tech. Dev. J. - Sci. Earth Environ.; 5(1):254-263. 263
File đính kèm:
- danh_gia_tinh_de_ton_thuong_do_bien_doi_khi_hau_den_nganh_nu.pdf