Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng

Nuôi trồng thủy sản là ngành sản xuất thực phẩm tăng

trưởng nhanh nhất toàn cầu, với sản lượng tăng từ

khoảng 4 triệu tấn năm 1970 lên 73,8 triệu tấn trong

năm 20141. Đến nay, 50% lượng cá tiêu thụ của con

người trên thế giới đến từ nuôi trồng thủy sản và

khoảng 18 triệu người đang tham gia nuôi cá, trong

đó 94% là từ châu Á1. Việt Nam, nhà sản xuất nuôi

trồng thủy sản lớn thứ 15 trên thế giới, trong đó tỉnh

An Giang cung cấp gần 25% tổng sản lượng thủy sản

quốc gia, được chọn làm khu vực nghiên cứu giữa các

nước đang phát triển vì nuôi trồng thủy sản đóng góp

đáng kể của nền kinh tế nông thôn của đất nước thông

qua thu nhập từ nông nghiệp và trên - và việc làm phi

nông nghiệp. An Giang là một trong bốn tỉnh nằm

trong vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu

Long – nơi đang chịu nhiều ảnh hưởng do biến đổi

khí hậu toàn cầu. Đất đai bị bạc màu; đa dạng sinh

học giảm mạnh; diện tích đất bị xâm nhập mặn, đất bị

khô hạn, nhiễm phèn ngày càng tăng; nhiệt độ không

khí tăng cao và hạn hán bất thường, lũ lụt không theo

quy luật; nhiều dịch bệnh mới hình thành đã đe dọa

đến đời sống và hoạt động của người dân trong tỉnh.

Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng trang 1

Trang 1

Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng trang 2

Trang 2

Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng trang 3

Trang 3

Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng trang 4

Trang 4

Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng trang 5

Trang 5

Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng trang 6

Trang 6

Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng trang 7

Trang 7

Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng trang 8

Trang 8

Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng trang 9

Trang 9

Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 8900
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng

Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 5(1):254-263
Open Access Full Text Article Nghiên cứu
1Viện Môi trường và Tài nguyên - Đại
học Quốc gia TP.HCM, Việt Nam
2Đại học Tôn Đức Thắng TP.HCM, Việt
Nam
Liên hệ
Nguyễn Hồng Anh Thư, Viện Môi trường và
Tài nguyên - Đại học Quốc gia TP.HCM, Việt
Nam
Email: anhthu0710.95@gmail.com
Lịch sử
 Ngày nhận: 01-06-2020
 Ngày chấp nhận: 18-01-2021
 Ngày đăng: 05-03-2021
DOI : 10.32508/stdjsee.v5i1.530
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Đánh giá tính dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi
trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng
Nguyễn Hồng Anh Thư1,*, Nguyễn Khôn Huyền1, Lê Quốc Vĩ1, Trần Thị Hiệu1, Trần Trung Kiên1,
Lê Trọng Nhân2, Lê Thanh Hải1
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Nuôi trồng thuỷ sản – thuộc nhóm Ngư Nghiệp - là một trong những ngành kinh tế có giá trị cao,
chiếm một phần không nhỏ trong cơ cấu kinh tế Nông – Lâm – Ngư nghiệp tại Việt Nam và An
Giang là một tỉnh từ lâu đã có thế mạnh trong ngành nuôi trồng thuỷ sản tại Việt Nam. Tuy nhiên,
tính bền vững của ngành này đang gặp nhiều thách thức bởi quá trình biến đổi khí hậu; Vì vậy,
nhu cầu cấp thiết là đánh giá tính dễ bị tổn thương đối với biến đổi khí hậu của nuôi trồng thủy
sản An Giang dựa trên những thay đổi được dự đoán về nhiệt độ và lượng mưa của vùng theo các
kịch bản biến đổi khí hậu và đánh giá tính dễ bị tổn thương của chúng cho từng khu vực, sử dụng
phương pháp dựa trên chỉ số của Hội đồng liên chính phủ về định nghĩa biến đổi khí hậu về tính
dễ bị tổn thương để khắc phục những hạn chế trong việc phát triển các chiến lược thích ứng cụ
thể ở quy mô khu vực. Tổng cộng có 27 chỉ số khí hậu, môi trường và kinh tế xã hội đã được chọn
cho ba thành phần dễ bị tổn thương: phơi nhiễm, độ nhạy và khả năng thích ứng. Kết quả cho
thấymức độ tổn thương do BĐKH đối với ngành nuôi cá tra tại tỉnh An Giang ởmức độ trung bình,
trong đó huyện Châu Phú chịu tổn thương cao do huyện chủ yếu có sinh kế chính là nuôi cá tra.
Dựa vào hiện trạng và mức độ tổn thương do BĐKH đề xuất các giải pháp thích hợp cho người
nuôi cá tra với mục tiêu phát triển bền vững ngành kinh tế chủ lực này đồng thời tạo ra sinh kế
mới cho người dân và giảm tác động đến môi trường do hoạt động nuôi trồng gây ra.
Từ khoá: chỉ số tổn thương, tính dễ tổn thương, biến đổi khí hậu, nuôi cá tra
GIỚI THIỆU
Nuôi trồng thủy sản là ngành sản xuất thực phẩm tăng
trưởng nhanh nhất toàn cầu, với sản lượng tăng từ
khoảng 4 triệu tấn năm 1970 lên 73,8 triệu tấn trong
năm 2014 1. Đến nay, 50% lượng cá tiêu thụ của con
người trên thế giới đến từ nuôi trồng thủy sản và
khoảng 18 triệu người đang tham gia nuôi cá, trong
đó 94% là từ châu Á 1. Việt Nam, nhà sản xuất nuôi
trồng thủy sản lớn thứ 15 trên thế giới, trong đó tỉnh
An Giang cung cấp gần 25% tổng sản lượng thủy sản
quốc gia, được chọn làm khu vực nghiên cứu giữa các
nước đang phát triển vì nuôi trồng thủy sản đóng góp
đáng kể của nền kinh tế nông thôn của đất nước thông
qua thu nhập từ nông nghiệp và trên - và việc làm phi
nông nghiệp. An Giang là một trong bốn tỉnh nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu
Long – nơi đang chịu nhiều ảnh hưởng do biến đổi
khí hậu toàn cầu. Đất đai bị bạc màu; đa dạng sinh
học giảmmạnh; diện tích đất bị xâm nhậpmặn, đất bị
khô hạn, nhiễm phèn ngày càng tăng; nhiệt độ không
khí tăng cao và hạn hán bất thường, lũ lụt không theo
quy luật; nhiều dịch bệnhmới hình thànhđã đe dọa
đến đời sống và hoạt động của người dân trong tỉnh.
Các nghiên cứu hiện tại về tính dễ bị tổn thương của
việc đánh bắt thủy sản và nuôi trồng thủy sản đối với
biến đổi khí hậu đã được tiến hành chủ yếu ở quy mô
quốc gia kể từ khi Allison et al.2,3. Allison et al.2 các
vấn đề dễ bị tổn thương dựa trên các chỉ số về sự nóng
lên toàn cầu, tầm quan trọng tương đối của nghề cá
trong bối cảnh kinh tế quốc gia và đời sống chế độ ăn
uống, và khảnăng thíchứng với biến đổi khí hậu trong
132 quốc gia. Kết quả của họ chỉ ra rằng các quốc gia ở
Tây Phi, tây bắc NamMỹ và NamÁ là những quốc gia
dễ bị tổn thương nhất. Handisyde và cộng sự4 đã tiến
hànhmột nghiên cứu về nuôi trồng thủy sản trong đó
thay đổi nhiệt độ nước, mật độ dân số, thay đổi lượng
mưa, rủi ro thiên tai và sản xuất nuôi trồng thủy sản
được chọn làm chỉ số cho đánh giá ở quy mô quốc
gia. Tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu có thể
khác nhau giữa các vùng tùy theo vùng khí hậu, khu
vực địa lý (nội địa hoặc ven biển), loại hệ thống nuôi
trồng thủy sản và loài nào được nuôi. Các khu vực
nội địa bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của lũ lụt, nhiệt
độ và lượng mưa, trong khi các khu vực ven biển bị
ảnh hưởng bởi mực nước biển tăng, độ cao sóng và
xói mòn đất nhanh 5. Tuy nhiên, mức độ tác động
có thể không giống nhau đối với từng mối nguy hiểm
Trích dẫn bài báo này: Thư N H A, Huyền N K, Vĩ L Q, Hiệu T T, Kiên T T, Nhân L T, Hải L T. Đánh giá tính
dễ tổn thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá tra An Giang và đề xuất các biện pháp
thích ứng. Sci. Tech. Dev. J. - Sci. Earth Environ.; 5(1):254-263.
254
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 5(1):254-263
này. Tính dễ bị tổn thương của một hệ thống không
chỉ phụ thuộc vào tác động của cácmối nguy hiểmmà
còn phụ thuộc vào độ nhạy và khả năng thích ứng của
hệ thống. 6
Nghiên cứu “Đánh giá về tính dễ bị tổn thương của
nuôi trồng thủy sản Hàn Quốc với biến đổi khí hậu”
của nhóm tác giả Bong – Tae Kim, Christopher L.
Brown, Do –HoonKimdựa trên những thay đổi được
dự đoán về nhiệt độ và độ mặn của nước biển ở các
vùng biển liền kề của Bán đảoTriều Tiên theo các kịch
bản tập trung đại diện (RCP). Các yếu tố của biến đổi
khí hậu ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản, trực tiếp
hoặc gián tiếp, bao gồm tăng nhiệt độ nướ ... ng như người dân đối
với biến đổi khí hậu khá cao trên 80%.
Các huyện có chỉ ố dễ bị tổn thương ởmức trung bình
mặc dù vẫn chịu nhiều các tác động từ BĐKH tuy
nhiên các ảnh hưởng là không lớn. Bên cạnh đó, khả
năng thích ứng thống kê được là khá tích cực. Trong
đó nhận thức về biến đổi khí hậu của người dân từ 80
– 95%, và số lượng người dân được tham gia các buổi
tập huấn, hội thảo về BĐKH đạt tỷ lệ cao 70 – 85%
Các chỉ số về xã hội như cơ sở y tế, trường học, tỷ lệ
giáo viên cũng khá cao.
THẢO LUẬN
Dựa trên các kết quả phân tích bộ chỉ số tính dễ bị tổn
thương nhằm đưa ra thứ tự ưu tiên giữa các huyện để
thực hiện thí điểm các giải pháp thích ứng với BĐKH
giúp cho ngành thủy sản cá tra tại An Giang. Đồng
thời đưa ra các giải pháp phù hợp ứng với thực trạng
của ngành nuôi trồng cá tra tại địa phương và tạo
thêm nguồn sinh kếmới cho người dân. Theo kết quả
tính toán 2 yếu tố tác động lớn nhất đến ngành thủy
sản do BĐKH gây ra là nhiệt độ và lượng mưa.Giải
pháp ứng phó cho các huyện khi nhiệt độ cao và mưa
kéo dài.
- Đối với khi nhiệt độ tăng lên cao khiến cho hàm
lượng ôxy trong nước giảm mạnh vào ban đêm, môi
trường nước xấu đi, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng
và phát triển của cá tra. Các hiện tượng này xảy ra
cường độ ngày càng cao, diễn biến phức tạp hơn và
khó đoán, làm thay đổi mùa vụ canh tác, suy giảm tốc
độ tăng trưởng, nhiều bệnh tật thường xuyên xảy ra
khiến người nuôi cá tra gặp nhiều khó khăn. Các giải
pháp:
+ Để phòng bệnh cho cá và khử trùng nước ao, định
kỳ dùng vôi bột hòa nước và tạt đều khắp ao, có thể
sử dụng thêm chế phẩm sinh học EM gốc để để xử lý
và khử trùng nước ao nuôi, Đặc biệt, những chỗ cho
cá ăn thường chứa thức ăn thừa, thối rữa gây nhiễm
bẩn tạo điều kiện cho sinh vật gây bệnh phát triển, chế
phẩm có thể giúp phân hủy.
+ Quản lý môi trường: Cá tra chịu rất tốt trong điều
kiện khắc nghiệt môi trường nuôi, nhưng do hiện nay
thường nuôi thâm canh mật độ cao, thức ăn cho cá
nhiều, chất thải ra cũng lớn nên môi trường ao nuôi
bị nhiễm bẩn nhanh. Quản lý chất lượng nước trong
ao ương và nuôi thật tốt, tránh để xảy ra hiện tượng
các yếu tố thủy lý hóa biến động lớn và ao nhiễm bẩn
trong quá trình sản xuất. Thường xuyên thay nước,
mỗi lần 20 - 30% lượng nước trong ao để cá tra có
điều kiện sống sạch và khỏe mạnh.
+ Giảm lượng thức ăn trong ngày từ 30 – 40 %, hoặc
bỏ cử ăn vào buổi trưa.
+ Để tăng sức đề kháng cho cá tra tăng cường sử dụng
chế phẩm sinh học có nguồn gốc thảo dược để cải
thiện chất lượng nước, nâng cao sức đề kháng vật
nuôi, gia tăng sự chuyển hóa hấp thu thức ăn của vật
nuôi sẽ góp phần giảm thiểu dịch bệnh, chất lượng sản
phẩmđảmbảo an toàn và giảm thiểu tác động xấu đến
môi trường trong đó có chế phẩm EM gốc hiệu quả.
+ Bên cạnh đó, cũng cần bổ sung Vitamin C, Vitamin
tổng hợp, khoáng chất, các loại sản phẩm có tác động
đến sự phục hồi hoạt động của thận, tỳ tạng, gan, gia
tăng mật độ huyết sắc tố trong máu để tăng sức đề
kháng cho cá tra bằng cách trộn vitamin C vào thức
ăn. Sử dụng hóa chất và kháng sinh phải tuân theo
quy định, sử dụng kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm
khuẩn phải đúng theo hướng dẫn của chuyên môn
kỹ thuật. Tuyệt đối không dùng thuốc kháng sinh để
phòng bệnh cho cá.
- Vào những ngày trời mưa kéo dài, nhiệt độ giảm thì
cần thiết giảm lượng cho ăn và cho cá ăn vào thời điểm
nhiệt độ nước ao có sự cân bằng giữa tầngmặt và tầng
đáy (lúc trời đứng bóng về chiều). Khi hút bùn đáy ao
xong, cần xử lý nền đáy và xử lý cho nước ao trong trở
lại mới cho ăn, bởi vì nếu cá phải sống và bắt mồi ở
vùng có tích tụ nhiều chất thải và khí độc thì dễ xảy
ra hiện tượng cá mất đi hứng thú bắt mồi. Bên cạnh
260
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 5(1):254-263
đó, nếu cá bắt mồi trong vùng nước nhiễm bẩn, cũng
sẽ tạo điều kiện cho tác nhân gây bệnh xâm nhập vào
nội tạng.
- Cải tiến kỹ thuật ương nuôi:
+Khôngnênương, nuôimật độ quá dày: mật độ ương
từ cá bột lên cá hương từ 300 - 400 con/m2; cá hương
lên cá giống từ 100 – 150 con/m2, mật độ nuôi thương
phẩm từ 25 - 30 con/m2.
+ Cho cá ăn đảm bảo chất và số lượng theo giai đoạn
phát triển, lúc cá có dấu hiệu bệnh nên giảm lượng
thức ăn;
+ Quản lý chất lượng nước trong ao ương và nuôi thật
tốt, tránh để xảy ra hiện tượng các yếu tố thủy lý hóa
biến động lớn và ao nhiễm bẩn trong quá trình sản
xuất;
+ Sử dụng hóa chất và kháng sinh phải tuân thủ theo
qui định, sử dụng kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm
khuẩn phải đúng theo hướng dẫn của chuyên môn kỹ
thuật, tuyệt đối không sử dụng các sản phẩm có chứa
hoạt chất Trifluralin trong quá trình nuôi với bất kỳ
mục đích sử dụng nào; Định kỳ 10 -15 ngày sử dụng
muối và vôi để sát khuẩn cho cá.
KẾT LUẬN
Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về kịch
bản, tác động của BĐKH lên các nguồn tài nguyên,
sinh kế của người dân đã và đang được thực hiện để
phục vụ cho công tác đề ra chiến lược thích ứng với
BĐKH. Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu về những
ảnh hưởng cũng như nhận thức, ứng phó của người
nuôi thủy sản nói riêng và các lĩnh vực cụ thể nói
chung đối với hiện tượng BĐKH.Nghiên cứu này tiến
hành xây dựng được bộ chỉ thị đánh giá tính dễ bị tổn
thương do BĐKH cho cá tra tỉnh An Giang trong bối
cảnh BĐKH. Khi tiến hành xây dựng bộ chỉ số và tính
DBTT tuy gặp khó khăn trong việc thu thập số liệu
nhưng lại đánh giá toàn diện tính dễ tổn thương do
BĐKH và nhận đỉnh rằng 2 yếu tố tác động lớn nhất
đến ngành thủy sản do BĐKH gây ra là nhiệt độ và
lượng mưa.
Trong nghiên cứu này, mới định lượng giá kinh tế do
BĐKH ở quy mô cấp cấp tỉnh, khu vực, nó chỉ đánh
giá một cách định tính tác động của BĐKH thông
qua chỉ số tổn thương. Kết quả tính toán cho thấy tại
An Giang chỉ số dễ bị tổn thương hầu hết ở các mức
trung bình, cao. Trong đó, huyện có mức độ dễ bị tổn
thương cao huyện Châu Phú; huyện có mức độ dễ bị
tổn thương trung bình bao gồm9 huyện và 1 huyện có
mức độ dễ bị tổn thương thấp – Tịnh Biên. Dựa vào
kết quả tỷ lệ dễ bị tổn thương do BĐKH, các giải pháp
thích ứng nên được tiến hành ưu tiên cho huyệnChâu
Phú vì huyện Châu Phú chịu mức độ tổn thương cao
đồng thời người dân trong huyện đa số sống dựa vào
nghề nuôi cá tra.
LỜI CẢMƠN
Tập thể tác giả xin chân thành gửi lời cảm ơn đến
Chương trình Khoa học và Công nghệ Trọng điểm
cấp nhà nước giai đoạn 2014 – 2019 “Khoa học và
Công nghệ Phục vụ Phát triển bền vững Vùng Tây
Nam Bộ” đã hỗ trợ kinh phí thực hiện nghiên cứu
này thông qua hợp đồng số 13/2018/HĐ-KHCN-
TNB.ĐT/14-19/C25.
Xin cảm ơn đến Đại học Quốc gia TP HCM, văn
phòng chương trình Tây Nam Bộ, Viện Môi trường
và Tài nguyên đã hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi
để chúng tôi có thể hoàn thành nghiên cứu, xin cảm
ơn các Sở BanNgành đặc biệt là Sở Tài nguyên vàMôi
trường các tỉnh ĐBSCL đã hỗ trợ và cung cấp số liệu,
tạo điều kiện khảo sát thực tế địa phương.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
AC: Khả năng thích ứng
BĐKH: Biến đổi khí hậu
ĐBSCL: Đồng bằng song Cửu Long
E: Độ phơi nhiễm
KTTV: Khí tượng thủy văn
IPCC: Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu
PĐT: Phiếu điều tra
NBD: Nước biển dâng
S: Độ nhạy cảm
SLQT: Số liệu quan trắc
TDTT: Tính dễ tổn thương
VI: Chỉ số dễ bị tổn thương
XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Nhóm tác giả cam đoan rằng không có xung đột
lợi ích trong công bố bài báo “Đánh giá tính dễ tổn
thương do biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng cá
tra An Giang và đề xuất các biện pháp thích ứng”.
ĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC GIẢ
Tác giảNguyễnHồngAnhThư,NguyễnKhônHuyền,
Lê Quốc Vĩ, Trần Thị Hiệu, Trần Trung Kiên, Lê
Trọng Nhân, Lê Thanh Hải cùng thực hiện tất cả các
bước và quy trình xây dựng kết quả của nghiên cứu
này.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. FAOF. Minimumdietary diversity forwomen: a guide formea-
surement. Rome: FAO. 2016;82.
2. Allison EH, et al. Vulnerability of national economies to the
impacts of climate change on fisheries’, Fish and fisheries.
2009;10(2):173–196. Available from: https://doi.org/10.1111/
j.1467-2979.2008.00310.x.
3. Watts MJ, Bohle HG. The space of vulnerability: the causal
structure of hunger and famine. Progress in human geog-
raphy. 1993;17(1):43–67. Available from: https://doi.org/10.
1177/030913259301700103.
261
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 5(1):254-263
4. Handisyde N, Telfer TC, Ross LG. Vulnerability of aquaculture-
related livelihoods to changing climate at the global scale.
Fish and fisheries. 2017;18(3):466–488. Available from: https:
//doi.org/10.1111/faf.12186.
5. Zsamboky M, Fernández-Bilbao A, et al. Impacts of climate
change on disadvantaged UK coastal communities. York, UK:
Joseph Rowntree Foundation. 2011;.
6. Parry M, Hanson C. Climate change 2007-impacts, adaptation
and vulnerability: Working group II contribution to the fourth
assessment report of the IPCC. Cambridge University Press.
2007;4.
7. Kim BT, Brown CL. Assessment on the vulnerability of Korean
aquaculture to climate change. Marine Policy. 2019;99:111–
122. Available from: https://doi.org/10.1016/j.marpol.2018.10.
009.
8. ShawR. Community-based climate changeadaptation inViet-
nam: inter-linkages of environment, disaster, and human se-
curity’, Multiple dimensions of global environmental change.
TERI Press, New Delhi(India). 2006;p. 521–547.
9. Dolan AH, Walker IJ. Understanding vulnerability of coastal
communities to climate change related risks. Journal of
Coastal Research. 2006;p. 1316–1323.
10. Adger WN, Kelly PM, Ninh NH. Living with environmental
change: social vulnerability, adaptation and resilience in Viet-
nam. Routledge. 2012;Available from: https://doi.org/10.4324/
9780203995570.
11. Ngữ ND. Biến đổi khí hậu, NXB Khoa học và Kỹ thuật’, Hà Nội.
2008;412.
12. Bé NV, Đăng Văn Trí P, Hằng TTL, Triển TV. Ảnh hưởng của
xâm nhập mặn đến sản xuất nông nghiệp, thủy sản huyện
TrầnĐề, tỉnh Sóc Trăng. Can ThoUniversity Journal of Science.
2017;50:94. Available from: https://doi.org/10.22144/ctu.jvn.
2017.071.
13. Mackay P, Russell M, Merz SK. Socialist Republic of Viet Nam:
Climate change impact and adaptation study in the Mekong
Delta. Technical Assistance Consultant’s Report (Kien Giang
Atlas). 2011;60.
14. Nhuận MT. Đánh giá tổn thương phục vụ cho quy hoạch và
quản lý môi trường (lấy thí dụ ở thành phố Hải Phòng và phụ
cận). VIETNAM JOURNAL OF EARTH SCIENCES. 2006;28(1):1–
10.
15. Kam SP, Badjeck MC. Autonomous adaptation to climate
change by shrimp and catfish farmers in Vietnam’s Mekong
River delta. 2012;.
16. IPCC CC. Mitigation of climate change. Contribution of work-
ing group III to the fifth assessment report of the intergovern-
mental panel on climate change. 2014;.
17. Iyengar NS, Sudarshan P. A method of classifying regions
from multivariate data. Economic and political weekly. , pp
-, . 1982;p. 2047–2052.
18. Pillai P, Philips BR, Shyamsundar P, Ahmed K, Wang L. Climate
risks and adaptation in Asian coastal megacities. Washington,
DC: World Bank. 2010;.
19. Hiền TD. Nghiên Cứu Xây Dựng Mô Hình Đánh Giá Tác Động
Của Biến Đổi Khí Hậu Đến Một Số Lĩnh Vực Kinh Tế - Xã Hội
Cho Thành Phố Đà Nẵng;.
262
Science & Technology Development Journal – Science of The Earth & Environment, 5(1):254-263
Open Access Full Text Article Research Article
1Institute For Environment And
Resources – VNU-HCM, Vietnam
2Ton Duc Thang University, Việt Nam
Correspondence
Nguyen Hong Anh Thu, Institute For
Environment And Resources –
VNU-HCM, Vietnam
Email: anhthu0710.95@gmail.com
History
 Received: 01-06-2020 
 Accepted: 18-01-2021 
 Published: 05-3-2021
DOI : 10.32508/stdjsee.v5i1.530 
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Evaluation for the vulnerability of climate change affecting to
shark catfish farming in An Giang and suggesting some solutions
for this case.
Nguyen Hong Anh Thu1,*, Nguyen Khon Huyen1, Le Quoc Vi1, Tran Thi Hieu1, Tran Trung Kien1,
Le Trong Nhan2, Le Thanh Hai1
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
Aquaculture that belongs to Fishery is one of the high-value economies accounting for a signifi-
cant portion in the economic structure of Agriculture- Forestry- Fishery in Viet Nam and An Giang-
a province that has prevailed in Aquaculture in Viet Nam. However, its sustainability has been fac-
ing many obstacles derived from climate change; Hence, it is essential to evaluate the vulnerability
of climate change affecting shark catfish farming in An Giang based on the prediction of temper-
ature and rainfall obtained from sets of conditions of climate change and then evaluate their vul-
nerability for each area by using a numerical method and based on Intergovernmental Panel on
Climate Change in vulnerability to overcome the difficulties in development strategies adapt for
a certain area. There are 27 indicators of climate, environment, and social economics selected for
three vulnerable components: exposure, sensitivity, and adaptability. As a result, it is shown that
the vulnerability of catfish farming in An Giang due to climate change is at a moderate level, and
Chau Phu district is suffering from high vulnerability because catfish farming is known as residents'
livelihood there. Followed by practical issues and the levels of vulnerability due to climate change,
some solutions are suggested for the purpose of sustainability in this prevailed economy as well as
the creation of new means of living and reduce effects affecting the environment.
Key words: vulnerability index, vulnerability, climate change, pangasius farming
Cite this article : Thu N H A, Huyen N K, Vi L Q, Hieu T T, Kien T T, Nhan L T, Hai L T. Evaluation for the 
vulnerability of climate change affecting to shark catfish farming in An Giang and suggesting some 
solutions for this case.. Sci. Tech. Dev. J. - Sci. Earth Environ.; 5(1):254-263.
263

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_tinh_de_ton_thuong_do_bien_doi_khi_hau_den_nganh_nu.pdf