Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai

Nhu mô gan bình thường có nguồn cấp máu 70%

từ tĩnh mạch cửa và chỉ 30% từ động mạch gan [1].

Tuy nhiên, ung thư gan nguyên phát, hay còn được gọi

là ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) có nguồn cấp

máu chính từ động mạch gan [2]. Hiện nay đã có nhiều

phương pháp điều trị ung thư gan như phẫu thuật, ghép

gan, đốt sóng cao tần, nút hóa chất động mạch gan

(TACE) hoặc phối hợp giữa các phương pháp với nhau.

Trong đó, phẫu thuật là phương pháp điều trị triệt để

nhất đối với những bệnh nhân có chỉ định. Tuy vậy, tỉ

lệ những bệnh nhân không được phẫu thuật lên đến

70 – 80%, do xơ gan hoặc giai đoạn tiến triển của bệnh

khiến bệnh nhân không còn chỉ định phẫu thuật [3].

Việc xác định đầy đủ nguồn mạch nuôi khối ung

thư biểu mô tế bào gan không đơn giản, do khối u gan

không chỉ nhận nguồn cấp máu từ các nhánh của động

mạch gan, mà còn từ các nhánh của động mạch ngoài

gan. Trên thực hành lâm sàng, điều này xảy ra rất phổ

biến [6], [7]. Tuy nhiên, việc tiến hành nút mạch hóa

chất các nhánh mạch ngoài gan luôn tiềm ẩn những

nguy cơ, những biến chứng liên quan đến nút mạch

không chọn lọc, do các động mạch ngoài gan còn cấp

máu cho các tạng, tổ chức bình thường của cơ thể.

Chính điều đó khiến cho việc xuất hiện nhánh mạch

ngoài gan cấp máu cho khối u gan trở thành một thách

thức với điều trị TACE

Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai trang 1

Trang 1

Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai trang 2

Trang 2

Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai trang 3

Trang 3

Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai trang 4

Trang 4

Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai trang 5

Trang 5

Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai trang 6

Trang 6

Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai trang 7

Trang 7

Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai trang 8

Trang 8

Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai trang 9

Trang 9

Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 4900
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai

Đánh giá hiệu quả nút mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 39 - 10/2020 87
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ NÚT MẠCH NGOÀI 
GAN CỦA UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN 
TẠI TRUNG TÂM ĐIỆN QUANG BỆNH VIỆN 
BẠCH MAI
Evaluation the effectiveness of the extrahepatic 
arterial chemoembolization on treatment of 
hepatocellular carcinoma in Radiology center of 
Bach Mai Hospital 
Trần Đức Huy*, Phạm Minh Thông**, Vũ Đăng Lưu*, 
Trịnh Hà Châu*
* Trường đại học Y Hà Nội
** Trung tâm điện quang, Bệnh 
viện Bạch mai
SUMMARY Purpose: Evaluation the effectiveness of the extrahepatic arterial 
chemoembolization on treatment of hepatocellular carcinoma.
Subjects and methods: There is a non-controlled prospective 
intervention study in HCC patients with tumors which had blood supply 
from extrahepatic arteries from July 2019 to August 2020 in Radiology 
center of Bach Hospital.
Results:. Our study was performed on 56 patients including 48 
men (85.7%) and 8 women (14.3%) who were diagnosed with HCC. 
The mean age were 58.29 ± 10,849 years old. The rate of successful 
approaching to the extrahepatic vessel branches was 83.05%. There were 
2 patients (3.58%) had acute complications during and immediately after 
intervention. Special complications related directly to the extra-hepatic 
embolization were observed in 14 patients (25%). After an average of 
2.25 ± 0.919 months of follow-up, 1 patient (1.8%) re-examined due 
to rupture of liver tumor, the remaining 55 patients (98.2%) were re-
examined by appointment. The results of tumor response according to 
mRECIST with complete response, partial response, stable disease and 
progressive disease were 3.6%, 52.7%, 25.5%, and 18.2% respectively.
Conclusion: The results of the extrahepatic arterial 
chemoembolization in our study had high rates of the successful 
approaching to the extrahepatic vessel branches, the intervention safety 
and the post-intervention tumor response.
Key words: TACE, Extrahepatic artery supply to HCC
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 39 - 10/202088
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhu mô gan bình thường có nguồn cấp máu 70% 
từ tĩnh mạch cửa và chỉ 30% từ động mạch gan [1]. 
Tuy nhiên, ung thư gan nguyên phát, hay còn được gọi 
là ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) có nguồn cấp 
máu chính từ động mạch gan [2]. Hiện nay đã có nhiều 
phương pháp điều trị ung thư gan như phẫu thuật, ghép 
gan, đốt sóng cao tần, nút hóa chất động mạch gan 
(TACE) hoặc phối hợp giữa các phương pháp với nhau. 
Trong đó, phẫu thuật là phương pháp điều trị triệt để 
nhất đối với những bệnh nhân có chỉ định. Tuy vậy, tỉ 
lệ những bệnh nhân không được phẫu thuật lên đến 
70 – 80%, do xơ gan hoặc giai đoạn tiến triển của bệnh 
khiến bệnh nhân không còn chỉ định phẫu thuật [3].
Việc xác định đầy đủ nguồn mạch nuôi khối ung 
thư biểu mô tế bào gan không đơn giản, do khối u gan 
không chỉ nhận nguồn cấp máu từ các nhánh của động 
mạch gan, mà còn từ các nhánh của động mạch ngoài 
gan. Trên thực hành lâm sàng, điều này xảy ra rất phổ 
biến [6], [7]. Tuy nhiên, việc tiến hành nút mạch hóa 
chất các nhánh mạch ngoài gan luôn tiềm ẩn những 
nguy cơ, những biến chứng liên quan đến nút mạch 
không chọn lọc, do các động mạch ngoài gan còn cấp 
máu cho các tạng, tổ chức bình thường của cơ thể. 
Chính điều đó khiến cho việc xuất hiện nhánh mạch 
ngoài gan cấp máu cho khối u gan trở thành một thách 
thức với điều trị TACE. 
Ở nước ta chưa có nghiên cứu đầy đủ về nút mạch 
hóa chất đối với các khối u gan được cấp máu bởi các 
nhánh mạch máu ngoài gan. Chính vì thế, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này với mục tiêu đánh giá hiệu quả 
nút nhánh động mạch ngoài gan cấp máu cho khối ung 
thư biểu mô tế bào gan tại Trung tâm điện quang bệnh 
viện Bạch Mai.
 II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn: Được chẩn đoán xác định ung 
thư biểu mô tế bào gan theo tiêu chuẩn của Bộ Y Tế, 
có chỉ định TACE. Có hồ sơ đầy đủ về xét nghiệm máu 
ngoại vi, xét nghiệm marker và hình ảnh CLVT có tiêm 
thuốc cản quang trước can thiệp. Trên hình ảnh DSA có 
nhánh mạch ngoài gan cấp máu cho khối u gan. - Bệnh 
nhân được tái khám, được làm lại các xét nghiệm máu 
ngoại vi và hình ảnh (CLVT có tiêm thuốc cản quang 
hoặc CHT có tiêm thuốc đối quang từ).
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân có huyết khối 
tĩnh mạch cửa. Bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu.
2. Quy trình thực hiện, phương pháp nghiên cứu
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung thư biểu 
mô tế bào gan, được làm đầy đủ các xét nghiệm máu 
ngoại vi, xét nghiệm marker và chụp CLVT có tiêm thuốc 
cản quang, có chỉ định và đồng ý với chỉ định TACE.
Trên phim chụp CLVT, đánh giá đầy đủ khối u về 
vị trí, vị trí tăng sinh mạch, nhánh mạch trong gan cấp 
máu, nhánh mạch ngoài gan cấp máu cho u, các biến 
đổi giải phẫu động mạch gan, shunt động tĩnh mạch 
cửa, shunt với phổi ( nếu có). Trường hợp khối u lớn, 
nằm ở các vị trí đặc biệt như sát vòm hoành, đẩy lồi 
bao gan, tiếp xúc đại tràng góc gan, tiếp xúc cực trên 
thận phải, tiếp xúc thành ngực, tiếp xúc, xâm lấn hố túi 
mật, cần lưu ý các nhánh mạch ngoài gan tương ứng 
ngay cả trong trường hợp không thấy nhánh mạch trực 
tiếp cấp máu cho u trên CLVT.
Tiến hành can thiệp:
Sát khuẩn, gây tê tại chỗ vị trí vùng bẹn phải, chọc 
động mạch đùi phải, đặt sheath 5Fr theo phương pháp 
Seldinger. Chụp động mạch thân tạng, xác định các 
cuống mạch nuôi u từ các nhánh động mạch trong gan, 
tiếp cận và nút tắc các nhánh động mạch trong gan, 
đánh giá kết quả nút động mạch trong gan ( nhánh nuôi 
u tắc hoàn toàn/ không tắc hoàn toàn), đánh giá đọng 
vật liệu của khối u (toàn bộ khối/khuyết một phần).
Chụp các nhánh động mạch ngoài gan nghi ngờ cấp 
máu cho u đã xác định trên CLVT. Đánh giá khả năng tiếp 
cận chọn lọc đối với các nhánh mạch ngoài gan, quyết 
định bơm hóa chất hay không. Trường hợp tiếp cận được 
chọn lọc, tiến hành bơm vật liệu nút mạch có hoặc không 
pha với hóa chất diệt u. Các  ...  ĐM dưới hoành cùng bên [16]. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, có 25 trường hợp khối u gan 
được ĐM dưới hoành phải cấp máu, 10 trường hợp 
có triệu chứng đau vai phải sau can thiệp, chiếm tỷ lệ 
17.8% trong các biến chứng, triệu chứng liên quan đến 
nhánh mạch ngoài gan cấp máu, trong đó 7 trường hợp 
dùng lipiodol pha với hóa chất làm vật liệu nút mạch, 
3 trường hợp còn lại sử dụng hạt vi cầu 100-300mcm 
pha với hóa chất. Có 2/4 trường hợp đau vai trái sau 
nút mạch động mạch dưới hoành trái, và đều sử dụng 
lipiodol pha với hóa chất làm vật liệu nút mạch. Tất cả 
các bệnh nhân đau vai sau nút mạch nhánh động mạch 
dưới hoành phải và trái đều được theo dõi tại khoa 
phòng và tự khỏi sau tối đa 5 ngày. Nghiên cứu của 
Kim và cộng sự năm 2005 đã đưa ra giải pháp có thể 
dùng lidocaine 2% bơm trực tiếp vào động mạch dưới 
hoành qua vi ống thông để làm giảm triệu chứng đau 
vai của bệnh nhân [13]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 1 bệnh nhân 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 39 - 10/2020 93
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
biến chứng viêm phổi sau can thiệp nút động mạch 
dưới hoành phải. Trường hợp này gặp sau can thiệp nút 
nhánh ĐM dưới hoành phải có shunt với phổi, nhánh 
ĐM dưới hoành này được nút bằng lipiodol pha với hóa 
chất sau can thiệp bệnh nhân ho nhiều và sốt. Phim 
chụp CLVT lồng ngực sau đó quan sát thấy vật liệu nút 
mạch (lipiodol) đọng ở phần thấp thùy dưới phôi phải 
kèm theo đó là tình trạn đông đặc và xẹp phổi phải. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng có 02 trường hợp 
khác nhánh động mạch dưới hoành phải cấp máu cho 
khối u và có shunt với động mạch phổi, 1 trường hợp 
chúng tôi dùng hạt vi cầu kích thước 100-300mcm ngậm 
Famorubicin), trường hợp còn lại chúng tối sử dụng hạt 
vi cầu kích thước 300-500 mcm ngậm Famorubicin để 
nút tắc cuống mạch. Cả 2 trường hợp này đều không 
ghi nhận biến chứng viêm phổi tương tự như trường 
hợp dùng lipiodol. Có thể giải thích do lipiodol kích cỡ 
nhỏ hơn hạt vi cầu, khả năng nút tắc mạch kém hơn, 
chúng dễ dàng đi qua shunt vào mạch phổi và đọng lại 
ở nhu mô phổi gây viêm phổi. Nghiên cứu của Tajima 
và cộng sự năm 2002 đã chỉ ra rằng mức độ các biến 
chứng phổi ( đọng lipiodol ở phổi, đông đặc phổi hay 
tràn dịch màng phổi) có tương quan với lượng lipiodol 
dùng trong nút nhánh động mạch dưới hoành [17].
Có 1 trường hợp bệnh nhân bị viêm hoại tử túi 
mật sau nút nhánh động mạch túi mật cấp máu cho 
khối u gan với hỗn dịch lipiodol và Famorubicin 50mg, 
sau đó bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật cắt bỏ 
túi mật. Viêm túi mật trong trường hợp nút nhánh động 
mạch túi mật cấp máu cho khối u gan là biến chứng 
khá thường gặp, tuy nhiên thường điều trị bảo tồn, rất 
ít trường hợp phải phẫu thuật cắt bỏ túi mật [18], [19], 
[20]we performed repeated (two or more. Trong trường 
hợp của chúng tôi, bệnh nhân tình trạng đau tăng lên, 
túi mật căng to, thành dày kèm dịch và thâm nhiễm 
quanh túi mật không giảm sau 2 ngày điều trị nội khoa. 
Sau khi hội chẩn bác sĩ ngoại khoa, bệnh nhân được 
chỉ định mổ cắt túi mật.
Trong nghiên cứu của chúng tôi ko ghi nhận được 
các biến chứng đặc biệt khác như hoại tử da cơ thành 
ngực, liệt, hoại tử đại tràng, hoại tử dạ dày,
Về tiến triển của tình trạng xơ gan và tình trạng 
khối u của các bệnh nhân sau nút mạch, có 5 trường 
hợp bệnh nhân xơ gan tiến triển, 5 trường hợp u gan 
xâm lấn tĩnh mạch cửa và 5 trường hợp xuất hiện di 
căn xa ngoài gan, trong đó 3 trường hợp di căn phổi, 1 
trường hợp di căn xương cánh chậu phải và 1 trường 
hợp di căn tuyến thượng thận phải. Các trường hợp 
này sau đó đều được điều trị nội khoa hoặc với hóa 
chất bổ trợ toàn thân. 1 trường hợp bệnh nhân tái khám 
vì vỡ u gan, trường hợp này là một bệnh nhân nữ, trẻ 
tuổi, tái khám sau 6 tháng can thiệp thay vì 1 tháng như 
trong giấy hẹn khám lại. Sau đó bệnh nhân được tiến 
hành nút động mạch gan cầm máu cấp cứu, tình trạng 
bệnh nhân sau đó ổn định.
Đáp ứng khối u gan sau điều trị theo mRECIST 
có 31 bệnh nhân có đáp ứng sau can thiệp, chiếm tỉ lệ 
56.3%, 24 bệnh nhân chiếm 23.7% không đáp ứng sau 
điều trị. Đáp ứng của mRECIST ảnh hưởng bởi việc 
tiếp cận được nhánh mạch ngoài gan và chiến lược 
can thiệp. Như đã đưa ra ở phần kết luận (bảng 11), ở 
nhóm tiếp cận được động mạch ngoài gan cũng như 
nhóm nút mạch cả trong và ngoài gan cũng đem lại 
hiệu quả đáp ứng cao hơn so với không can thiệp được 
mạch ngoài gan cũng như trường hợp chỉ nút động 
mạch trong gan, độ tin cậy 95% với p = 0.00 <0.01. Tiếp 
cận nhánh mạch ngoài gan đòi hỏi phải có bác sĩ can 
thiệp phải là người có tay nghề và kinh nghiệm cao, tuy 
nhiên không phải trường hợp nào cũng có thể tiếp cận 
được chọn lọc như mong đợi. Các trường hợp không 
nút mạch trong nghiên cứu của chúng tôi do một số 
nguyên nhân như hết hóa chất, hết vật liệu hay không 
tiếp cận chọn lọc được nhánh cần nút. 
Có 44/56 bệnh nhân được chỉ định TACE lần tiếp 
theo. Kết quả cho thấy nhánh mạch ngoài gan đã can 
thiệp vẫn còn cấp máu cho u chiếm tỷ lệ cao (61.36%), 
trong đó có 17 trường hợp ( 38.63%) đã được tắc mạch 
ở mức độ tắc hoàn toàn trong lần can thiệp trước vẫn 
còn phần cấp máu cho khối u, cho thấy tỷ lệ tái thông 
cao ở các nhánh mạch ngoài gan ngay cả khi đã được 
nút tắc triệt để. Có thể giải thích do các nhánh mạch 
ngoài gan chủ yếu cấp máu cho các mô cơ quan lành 
của cơ thể, khi nguồn cấp máu này bị gián đoạn (do 
vật liệu nút mạch), chúng có thể được bàng hệ từ các 
nhánh gần của cùng động mạch hay từ các động mạch 
lân cận thông qua các vòng nối, ví dụ như vòng nối 
bàng hệ giữa động mạch dưới hoành, động mạch liên 
sườn và động mạch ngực trong. Điều này làm giảm tuy 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 39 - 10/202094
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
cơ tắc mạch hoàn toàn đối với các nhánh mạch ngoài 
gan cấp máu cho khối u gan, giảm hiệu quả điều trị của 
nút mạch u gan.
 V. KẾT LUẬN
Sự xuất hiện nhánh động mạch ngoài gan cấp 
máu cho khối u gan là một thách thức trong điều trị ung 
thư biểu mô tế bào gan với phương pháp nút mạch hóa 
chất. Khi đó, ngoài việc quan tâm đến hiệu quả diệt khối 
u, các bác sĩ can thiệp cần quan tâm nhiều hơn đến các 
biến chứng cũng như tính an toàn của can thiệp.
Nút động mạch ngoài gan trong điều trị ung thư 
biểu mô tế bào gan được thực hiện tại Trung tâm điện 
quang bệnh viện Bạch Mai thu được kết quả với tỷ lệ 
tiếp cận thành công nhánh mạch ngoài gan cao, tỷ lệ 
biến chứng thấp và tỷ lệ đáp ứng khối u tương đối cao, 
cho thấy tính an toàn và độ hiệu quả cao trong can thiệp 
của chúng tôi. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít các bệnh 
nhân gặp các biến chứng trong và sau can thiệp, tỷ lệ 
tái thông của nhánh mạch ngoài gan cấp máu vẫn ở 
mức cao.
Một số hình minh họa
Hình 1. Bệnh nhân nữ, 60 tuổi, tiền sử HCC đã nút mạch 5 lần. Đi khám phát hiện khối u gan phải phân 
thùy sau còn tăng sinh mạch, nút mạch lần 6.
Chụp động mạch thân tạng thấy khối gan phải tăng sinh mạch nhiều, cấp máu chính từ nhánh động mạch phân 
thùy sau. Tiếp cận chọn lọc phân thùy sau ( hình C), nút nhánh động mạch phân thùy sau bằng hỗn dịch lipiodol và 
Famorubicin. Chụp động mạch MTTT thấy có phần cấp máu cho cực dưới khối u ( hình D). Tiếp cận chọn lọc nhánh 
cấp máu cho u tách từ động mạch MTTT ( hình E), sau đó nút tắc nhánh này bằng hỗn dịch lipiodol và Famorubicin. 
Single shot ( hình F) thấy khối u đọng vật liệu nút mạch.
 Hình 2. Bệnh nhân nam, 62 tuổi, đi khám phát hiện khối u gan hạ phân thùy V kích thước khoảng 
52x57mm, tính chất HCC, AFP là 106 ng/ml. Bệnh nhân được sinh thiết chẩn đoán là HCC.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 39 - 10/2020 95
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Phim chụp động mạch thân tạng (hình A) thấy gan 
phải có khối tăng sinh mạch, được cấp máu từ nhánh 
động mạch túi mật (múi tên) và nốt ngoại vi gan phải 
(đầu mũi tên). Tiếp cận chọn lọc nhánh động mạch 
túi mật và chụp chọn lọc thấy khối u tăng sinh mạch 
(hình B). Nút tắc động mạch túi mật bằng 8ml hỗn dịch 
Lipiodol và Famorubicin 50mg. Bơm trào lipiodol 1 phần 
sang gan phải. Single shot thấy khối u lớn đọng vật liệu 
nút mạch tốt, nốt ngoại vi không thấy đọng vật liệu nút 
mạch (hình C).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A S., C C., R C. và cộng sự. (2008). Transcatheter arterial chemoembolization (TACE) in hepatocellular 
carcinoma (HCC): the role of angiogenesis and invasiveness. The American journal of gastroenterology, 
, accessed: 06/09/2020.
2. Hs L., Js K., Ij C. và cộng sự. (1997). The safety and efficacy of transcatheter arterial chemoembolization in the 
treatment of patients with hepatocellular carcinoma and main portal vein obstruction. A prospective controlled 
study. Cancer, , accessed: 06/09/2020.
3. Carr B.I. (2004). Hepatocellular carcinoma: Current management and future trends. Gastroenterology, 127(5), 
S218–S224.
4. Lo C.-M., Ngan H., Tso W.-K. và cộng sự. (2002). Randomized controlled trial of transarterial lipiodol 
chemoembolization for unresectable hepatocellular carcinoma. Hepatol Baltim Md, 35(5), 1164–1171.
5. Llovet J.M. và Bruix J. (2003). Systematic review of randomized trials for unresectable hepatocellular carcinoma: 
Chemoembolization improves survival. Hepatol Baltim Md, 37(2), 429–442.
6. Chung J.W., Park J.H., Han J.K. và cộng sự. (1998). Transcatheter oily chemoembolization of the inferior 
phrenic artery in hepatocellular carcinoma: the safety and potential therapeutic role. J Vasc Interv Radiol JVIR, 
9(3), 495–500.
7. Hc K., Jw C., W L. và cộng sự. (2005). Recognizing extrahepatic collateral vessels that supply hepatocellular 
carcinoma to avoid complications of transcatheter arterial chemoembolization. Radiographics : a review 
publication of the Radiological Society of North America, Inc, , 
accessed: 12/08/2020.
8. Ferlay J., Colombet M., Soerjomataram I. và cộng sự. (2019). Estimating the global cancer incidence and 
mortality in 2018: GLOBOCAN sources and methods. Int J Cancer, 144(8), 1941–1953.
9. Mittal S. và El-Serag H.B. (2013). Epidemiology of HCC: Consider the Population. J Clin Gastroenterol, 47(0), 
S2–S6.
10. Chen C.-J., Yang H.-I., Su J. và cộng sự. (2006). Risk of hepatocellular carcinoma across a biological gradient 
of serum hepatitis B virus DNA level. JAMA, 295(1), 65–73.
11. Young M. và John S. (2020). Hepatic Chemoembolization. StatPearls. StatPearls Publishing, Treasure Island 
(FL).
12. Yu S.J. (2016). A concise review of updated guidelines regarding the management of hepatocellular carcinoma 
around the world: 2010-2016. Clin Mol Hepatol, 22(1), 7–17.
13. Kim H.-C., Chung J.W., Lee W. và cộng sự. (2005). Recognizing Extrahepatic Collateral Vessels That Supply 
Hepatocellular Carcinoma to Avoid Complications of Transcatheter Arterial Chemoembolization. RadioGraphics, 
25(suppl_1), S25–S39.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 39 - 10/202096
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
14. Chen G., Song B., Li Z. và cộng sự. (2013). Ectopic Blood Supply of Hepatocellular Carcinoma as Depicted by 
Angiography with Computed Tomography: Associations with Morphological Features and Therapeutic History. 
PLOS ONE, 8(8), e71942.
15. As M., Ak A.A., N E. và cộng sự. (2017). Chemoembolization of Hepatocellular Carcinoma with Extrahepatic 
Collateral Blood Supply: Anatomic and Technical Considerations. Radiographics : a review publication of 
the Radiological Society of North America, Inc, , accessed: 
12/08/2020.
16. Sw S., Ys D., Sw C. và cộng sự. (2006). Diaphragmatic weakness after transcatheter arterial chemoembolization 
of inferior phrenic artery for treatment of hepatocellular carcinoma. Radiology, <https://pubmed.ncbi.nlm.nih.
gov/17005772/>, accessed: 07/09/2020.
17. Tajima T., Honda H., Kuroiwa T. và cộng sự. (2002). Pulmonary Complications after Hepatic Artery 
Chemoembolization or Infusion via the Inferior Phrenic Artery for Primary Liver Cancer. J Vasc Interv Radiol, 
13(9), 893–900.
18. Chu H.H., Kim H.-C., Chung J.W. và cộng sự. (2014). Repeated Intra-Arterial Therapy via the Cystic Artery for 
Hepatocellular Carcinoma. Cardiovasc Intervent Radiol, 37(5), 1283–1291.
19. Shah R.P. và Brown K.T. (2011). Hepatic Arterial Embolization Complicated by Acute Cholecystitis. Semin 
Interv Radiol, 28(2), 252–257.
20. McWilliams J.P., Kee S.T., Loh C.T. và cộng sự. (2011). Prophylactic Embolization of the Cystic Artery Before 
Radioembolization: Feasibility, Safety, and Outcomes. Cardiovasc Intervent Radiol, 34(4), 786–792.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả nút các nhánh mạch ngoài gan của ung thư biểu mô tế bào gan
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu can thiệp không đối chứng trên các bệnh nhân ung thư biểu 
mô tế bào gan có nguồn mạch cấp máu từ các nhánh động mạch ngoài gan từ tháng 7 năm 2019 đến tháng 8 năm 2020 tại Trung 
tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai.
Kết quả: Nghiên cứu được thực hiện trên 56 bệnh nhân gồm 48 nam (85.7%) và 8 nữ ( 14,3%) đã được chẩn đoán xác 
định ung thư biểu mô tế bào gan với độ tuổi trung bình 58.29 ± 10.849 tuổi. Tỷ lệ tiếp cận thành công nhánh mạch ngoài gan 
là 83.05%. Biến chứng cấp trong và ngay sau can thiệp gặp ở 2 bệnh nhân (3.58%). Các triệu chứng, biến chứng đặc biệt trực 
tiếp liên quan đến các nhánh mạch ngoài gan gặp ở 14 bệnh nhân (25%). Sau trung bình là 2.25 ± 0.919 tháng theo dõi, 1 bệnh 
nhân (1.8%) tái khám do vỡ u gan, 55 bệnh nhân còn lại ( 98.2%) tái khám theo hẹn. Kết quả đáp ứng khối u theo mRECIST với 
các mức độ đáp ứng hoàn toàn, đáp ứng một phần, bệnh ổn định và bệnh tiến triển lần lượt là 3.6%, 52.7%, 25.5% và 18.2%. 
Kết luận: Kết quả nút các nhánh động mạch ngoài gan cấp máu cho khối u gan trong nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ thành 
công trong tiếp cận nhánh mạch ngoài gan, tính an toàn trong can thiệp và tỷ lệ đáp ứng khối u sau can thiệp đều ở mức cao.
Từ khóa: Nút hóa chất động mạch gan. Mạch máu ngoài gan cấp máu cho khối u gan. 
Người liên hệ: Trần Đức Huy, Email: fcgermany94@gmail.com
Ngày nhận bài: 28/8/2020. Ngày chấp nhận đăng: 8/9/2020

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_nut_mach_ngoai_gan_cua_ung_thu_bieu_mo_te.pdf