Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh

Chất lượng nước ao nuôi tôm sú (penaeus monodon) quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước

Thiện, tỉnh Trà Vinh được khảo sát vào tháng 3/2019. Mẫu nước được thu tại 9 vị trí thuộc 3 khu vực ao

nuôi tôm và sau đó tiến hành phân tích 11 thông số sinh – lý – hóa để tính chỉ số WQI. Đồng thời, mẫu

cũng được phân tích cấu trúc quần xã phiêu sinh thực vật để tính các chỉ số sinh học tảo. Kết quả WQI

cho thấy chất lượng nước ổn định và phù hợp cho tôm tại các vị trí quảng canh tự nhiên. Nhưng ngược

lại, hầu hết các vị trí thâm canh có chất lượng nước từ trung bình đến xấu. Thêm vào đó, sự xuất hiện

của chi tảo Euglena là dấu hiệu cho thấy môi trường nước ao giàu dinh dưỡng.

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh trang 1

Trang 1

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh trang 2

Trang 2

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh trang 3

Trang 3

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh trang 4

Trang 4

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh trang 5

Trang 5

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh trang 6

Trang 6

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh trang 7

Trang 7

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh trang 8

Trang 8

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 9200
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh

Đánh giá chất lượng nước ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước thiện, xã Đông hải, huyện Duyên hải, tỉnh Trà Vinh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL 
 ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY 
 Số 71 (05/2020) No. 71 (05/2020) 
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:  
42 
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC AO NUÔI TÔM QUẢNG CANH 
TỰ NHIÊN VÀ THÂM CANH TẠI ẤP PHƯỚC THIỆN, XÃ ĐÔNG HẢI, 
HUYỆN DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH 
Assessment of water quality in extensive and intensive shrimp ponds at 
Phước Thiện hamlet, Đông Hải village, Duyên Hải district, Trà Vinh province 
ThS. Đặng Minh Luật(1), TS. Lưu Thị Thanh Nhàn(2), TS. Nguyễn Thị Gia Hằng(3) 
(1),(2),(3)Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQG TP.HCM 
TÓM TẮT 
Chất lượng nước ao nuôi tôm sú (penaeus monodon) quảng canh tự nhiên và thâm canh tại ấp Phước 
Thiện, tỉnh Trà Vinh được khảo sát vào tháng 3/2019. Mẫu nước được thu tại 9 vị trí thuộc 3 khu vực ao 
nuôi tôm và sau đó tiến hành phân tích 11 thông số sinh – lý – hóa để tính chỉ số WQI. Đồng thời, mẫu 
cũng được phân tích cấu trúc quần xã phiêu sinh thực vật để tính các chỉ số sinh học tảo. Kết quả WQI 
cho thấy chất lượng nước ổn định và phù hợp cho tôm tại các vị trí quảng canh tự nhiên. Nhưng ngược 
lại, hầu hết các vị trí thâm canh có chất lượng nước từ trung bình đến xấu. Thêm vào đó, sự xuất hiện 
của chi tảo Euglena là dấu hiệu cho thấy môi trường nước ao giàu dinh dưỡng. 
Từ khóa: ao tôm, các chỉ số sinh học tảo, chất lượng nước, phiêu sinh thực vật, WQI 
Abstract 
Water quality in extensive and intensive shrimp ponds of Penaeus monodon at Phước Thiện hamlet, Trà 
Vinh province where was surveyed in March 2019. Water samples were collected from 9 sites that 
belong in 3 areas of shrimp aquaculture and then were carried out to analyze 11 physicochemical and 
biological parameters for calculating water quality index (WQI). The samples were also simultaneously 
analyzed about the community structure of phytoplankton for calculating algae biological indices. The 
WQI results showed that the water quality was stable and suitable for shrimp in extensive sites. On the 
contrary, most of the intensive sites had medium to bad water quality. Besides, the presence of genus 
Euglena is a sign of a nutrient-rich pond. 
Keywords: shrimp ponds, algae biological indices, water quality, phytoplankton, WQI 
1. Đặt vấn đề 
Những năm qua, nghề nuôi tôm sú 
nước lợ, mặn vẫn đang là một trong những 
nghề chủ lực ở tỉnh Trà Vinh. Đặc biệt, 
hoạt động này diễn ra nhiều ở các vùng ven 
biển với mức độ thâm canh ngày càng lớn 
nhưng các hộ nuôi không có sự thống nhất 
trong việc phân bố tách biệt giữa ao quảng 
canh và thâm canh, cũng như chưa có sự 
quan tâm đến chất lượng nước xả thải ra 
ngoài môi trường. Được biết hiện nay 
người dân khu vực ven biển ở ấp Phước 
Thiện, xã Đông Hải, huyện Duyên Hải, 
tỉnh Trà Vinh đã và đang nuôi tôm theo hai 
Email: dangmluat@gmail.com 
ĐẶNG MINH LUẬT và cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
43 
mô hình chính, trong đó quảng canh tự 
nhiên đã có từ những năm 90 của thế kỷ 
trước, còn thâm canh xuất hiện từ sau năm 
2005. Nhưng nó được người dân xây dựng 
và triển khai thực hiện ngày càng nhiều từ 
sau năm 2010 và hầu như tất cả đều dưới 
hình thức tự phát. Việc xây dựng ao thâm 
canh xen lẫn vào các khu vực ao quảng 
canh tự nhiên đã tạo ra sự không thống 
nhất chung trong khu vực. 
Khảo sát thực tế cho thấy tại các hộ 
nuôi tôm thâm canh, nước trong ao chưa 
được xử lý triệt để phần lớn được bơm và 
xả thải vào các con kênh rạch nhỏ nằm len 
lỏi trong nội đồng. Khi đó, chất thải tôm 
nuôi, thức ăn dư, hóa chất lẫn thuốc kháng 
sinh còn thừa trong các con kênh sẽ theo 
dòng nước và chảy trực tiếp ra sông hay 
bãi bồi. Điều kiện tự nhiên về thủy văn của 
tỉnh Trà Vinh có chế độ thủy triều biển 
Đông với đặc trưng là bán nhật triều không 
đều, một ngày: hai lần triều lên, hai lần 
triều xuống [20]. Với chế độ thủy triều lên 
xuống luân phiên và hệ thống kênh rạch 
nhỏ, điều này rất dễ gây nên hiện tượng 
phú dưỡng ở mức độ cục bộ do các vật chất 
có trong nguồn nước xả thải khó có thể đi 
xa nguồn phát thải và tồn lưu lại [5], [13]. 
Như vậy, mỗi khi triều lên nước lớn những 
hộ dân nuôi tôm quảng canh tự nhiên mở 
cống dẫn nước vào ao, các vật chất tồn dư 
trong môi trường bên ngoài rất có khả năng 
trôi theo dòng nước vào ao. 
Vì thế, việc lấy mẫu nước ao và phân 
tích các thông số lý - hóa và sinh học 
nhằm phục vụ việc đánh giá tình trạng chất 
lượng vùng nước ao nuôi là hết sức cần 
thiết. Nghiên cứu này sẽ là một căn cứ sơ 
khởi về tình trạng dinh dưỡng cũng như 
thành phần cấu trúc quần xã phiêu sinh 
thực vật tồn tại trong hai loại hình ao nuôi 
tôm vùng ven biển ở xã Đông Hải, huyện 
Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1. Khu vực nghiên cứu 
Mẫu nước tại 9 vị trí thuộc ba khu vực 
ao nuôi tôm được lấy vào tháng 03/2019. 
Các vị trí thu mẫu được thể hiện trên hình 1 
gồm khu vực ao nuôi tôm quảng canh tự 
nhiên sát rừng ngập mặn (EPA), ao nuôi tôm 
quảng canh tự nhiên trong nội đồng (EPB) 
và ao nuôi tôm thâm canh (IP) tại ấp Phước 
Thiện, xã Đông Hải, huyện Duyên Hải, tỉnh 
Trà Vinh. Các ao quảng canh tự nhiên có 
diện tích từ 33000 – 47000m2 và các ao 
thâm canh có diện tích từ 2000 – 2300m2. 
Hình 1. Bản đồ vị trí các điểm thu mẫu 
2.2. Phương pháp thu mẫu 
Mẫu phân tích phiêu sinh thực vật: 
mẫu định tính được thu bằng cách kéo lưới 
phiêu sinh thực vật (mắt lưới 25m), mẫu 
định lượng được thu bằng cách lọc qua 
lưới 20 lít nước. Các mẫu phiêu sinh thực 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 71 (05/2020) 
44 
vật sau khi thu được cố định bằng formol 
tại thực địa, sao cho nồng độ formol cuối 
cùng trong mẫu là 5% [2]. 
Mẫu phân tích các thông số hóa - lý: 
kỹ thuật lấy mẫu nước ao hồ tự nhiên và 
nhân tạo theo TCVN 5994:1995 (ISO 
5667-4:1987). Thiết bị được sử dụng lấy 
mẫu nước là plastic bucket dung tích 20L 
và mẫu nước được chứa đựng trong các 
can nhựa PE dung tích 5L đã được xử lý và  ... 5 7 – 9 6,5 – 9 6 - 9 4 và 11 
DO mgO2/L 5 5 4 3 2 
Độ đục NTU 10 20 35 60 100 
TSS mg/L 50 60 70 90 100 
COD mgO2/L 15 15 - - - 
BOD5 mgO2/L 10 10 - - - 
N-NH4
+ mg/L 0,1 0,5 1 10 - 
P-PO4
3- mg/L 0,1 0,3 0,5 - - 
Tổng coliform MPN/100mL 1000 - - - - 
ĐẶNG MINH LUẬT và cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
45 
Giá trị của chỉ số WQI được xét trên 
thang màu đánh giá chất lượng nước (Bảng 
2) từ 1 đến 100 của Brown và cộng sự 
(1970) [17], để có thể đánh giá một cách 
tổng quát nhất về chất lượng nước tại vị trí 
nghiên cứu. Đồng thời sử dụng thuật ngữ 
đánh giá tương ứng với môi trường nước 
ao nuôi tôm như “thích hợp” là đánh giá về 
môi trường sống và “hạn chế” là đánh giá 
về các thông số lý - hóa vượt mức cho 
phép của một trong năm tiêu chuẩn kể trên 
hay nhiều hơn. 
Bảng 2. Thang đánh giá chất lượng nước cho vùng nuôi tôm ven biển Trà Vinh 
WQI ĐÁNH GIÁ MÀU 
> 89 Thích hợp không có hạn chế (Rất tốt) Xanh thẫm 
61-89 Thích hợp nhưng có mức hạn chế thấp (Tốt) Xanh lam 
46-60 Thích hợp nhưng có mức hạn chế trung bình (Trung bình) Vàng 
30-45 Thích hợp nhưng có mức hạn chế cao (Xấu) Đỏ 
< 30 Không thích hợp (Rất xấu) Đỏ thẫm 
2.4. Chỉ số sinh học tảo 
Chỉ số đa dạng loài Shannon – Wiener 
(1949) [3] được tính dựa vào thành phần và 
mật độ của phiêu sinh thực vật, sau đó căn 
cứ vào thang phân loại chất lượng nước 
của Wilhm và Dorris (1968) đưa ra tình 
trạng ô nhiễm thủy vực, với giá trị H’ lớn 
hơn 0,9 thì thủy vực không bị ô nhiễm, 
khoảng từ 0,3 đến 0,9 thì thủy vực ô nhiễm 
nhẹ và dưới 0,3 thì thủy vực bị ô nhiễm 
[8]. Công thức được tính như sau: 
(Shannon và Wiener, 1949) 
Trong đó, H’ là chỉ số Shannon – 
Wiener; pi là tỷ lệ số cá thể được tìm thấy 
trong loài thứ i (Pi = ni/N); ni là số lượng cá 
thể của loài thứ i; N là tổng số cá thể trong 
một mẫu nghiên cứu. 
Chỉ số ô nhiễm do Palmer đề xuất dựa 
trên 20 chi tảo chỉ thị cho thủy vực bị ô 
nhiễm chất hữu cơ. Khi chỉ số Palmer lớn 
hơn hoặc bằng 20 thì thủy vực ô nhiễm 
chất hữu cơ cao, từ 15 đến 19 thì thủy vực 
ô nhiễm chất hữu cơ có khả năng tăng cao 
và dưới 15 được quy định là thủy vực ô 
nhiễm chất hữu cơ thấp (thủy vực không bị 
phú dưỡng hoặc thủy vực có các yếu tố hay 
chất gây cản trở đến việc tồn tại tiếp tục 
của tảo) [4]. 
Các thông số sinh - lý - hóa chất lượng 
nước, mật độ phiêu sinh thực vật, chỉ số 
WQI và các chỉ số sinh học gồm: Shannon 
Wiener và Palmer. Tất cả được nhập liệu 
và xử lý số liệu trên hai phần mềm là 
Microsoft Excel 2010 và PRIMER VI được 
dùng để tính chỉ số đa dạng loài Shannon – 
Wiener. 
3. Kết quả - thảo luận 
Qua phân tích các thông số hóa-lý học 
của nước, nghiên cứu nhận thấy những vị 
trí ao quảng canh tự nhiên có các thông số 
được đo đạc (Bảng 3), hầu hết nằm trong 
giới hạn cho phép của QCVN 10-
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 71 (05/2020) 
46 
MT:2015/BTNMT [16] về chất lượng vùng 
nước nuôi trồng thủy hải sản, cho thấy tình 
trạng vùng nước tương đối tốt và thích hợp 
cho tôm sinh trưởng và phát triển. Bên 
cạnh đó, các thông số COD, BOD5, N-NH4 
và P-PO4 tại các vị trí khảo sát hầu hết có 
giá trị nằm dưới ngưỡng phát hiện của 
phương pháp đo. Chỉ riêng với thông số N-
NH4 tại IP1 (2,2 mg/L), COD tại IP1 (18,6 
mg/L) và IP2 (18,1 mg/L) có giá trị cao hơn 
mức giới hạn cho phép theo QCVN 10-
MT:2015/BTNMT [16] về chất lượng vùng 
nước ven biển cho nuôi trồng thủy hải sản. 
Qua đó, nghiên cứu nhận thấy tình trạng 
dinh dưỡng cao tại hai ao TC IP1 và IP2 do 
có các thông số dinh dưỡng cao vượt hơn 
mức giới hạn thuận lợi dành cho vùng 
nước nuôi tôm ven biển dựa theo QCVN 
10-MT:2015/BTNMT [16]. Các giá trị 
thông số này có tác động đến chỉ số chất 
lượng nước WQI (Hình 2) nhằm biểu hiện 
nên tình trạng của vùng nước khảo sát. 
Bảng 3. Kết quả phân tích các thông số hóa-lý tính của nước 
Vị trí 
Thông số 
EPB1 EPB2 EPB3 IP1 IP2 IP3 EPA1 EPA2 EPA3 
Nhiệt độ 
(oC) 
30,63 31,23 32,46 31,63 31,86 32,20 36,36 34,78 34,70 
pH 7,69 8,06 8,23 8,13 8,23 8,75 8,67 8,40 8,39 
Độ mặn 
(‰) 
24 24 23 15 15 5 14 15 15 
Độ đục 
(NTU) 
12 8,1 13 52 106 19 17 14 12 
TSS 
(mg/L) 
54 54 81 286 297 81 54 54 28 
DO 
(mg/L) 
7,43 4,1 5,8 4,13 5,6 5,9 9,8 8,73 7,26 
Tổng Coliform 
(MPN/100mL) 
34 2 13 4 6 500 11 2 50 
Chỉ số chất lượng nước WQI cho thấy 
có sự khác nhau về chất lượng nước giữa 
ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên và thâm 
canh. Cụ thể là các ao nuôi tôm thâm canh 
có chất lượng nước thấp hơn đáng kể so 
với các ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên 
(Hình 2). 
ĐẶNG MINH LUẬT và cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
47 
Hình 2. Chỉ số chất lượng nước – WQI 
Theo thang phân loại của Wilhm và 
Dorris (1968), chỉ số đa dạng Shannon – 
Wiener (H’) cho thấy hầu hết các vị trí 
thuộc ao nuôi tôm quảng canh tự nhiên đều 
có chất lượng nước ở mức không bị ô 
nhiễm (Hình 3), riêng vị trí EPA1 là thủy 
vực bị ô nhiễm nhẹ (H’ = 0,85). Tuy nhiên 
nếu phân tích về thành phần loài phiêu sinh 
thực vật có thể nhận thấy đây là thủy vực 
khá phù hợp cho tôm vì chúng có được 
nguồn thức ăn tự nhiên giàu dinh dưỡng 
như một số loài phiêu sinh thực vật thuộc 
các chi là Coscinodiscus, Nitzschia và 
Gyrosigma [14]. Chỉ số H’ cho thấy chất 
lượng nước ở mức bị ô nhiễm nhẹ tại IP2 và 
IP3, và tại IP1 lại cho thấy nước không bị ô 
nhiễm. Nhưng nếu nhìn về góc độ thành 
phần và mật độ phiêu sinh thực vật thì 
nhóm khuê tảo tại IP3 có mật độ cao hơn so 
với IP1 và IP2, đáng chú ý là sự có mặt của 
những loài khuê tảo đóng vai trò là nguồn 
thức ăn mang lại giá trị dinh dưỡng cao cho 
tôm như Coscinodiscus, Gyrosigma, 
Nitzschia và Diploneis [15]. Trong khi đó, 
các loài vi khuẩn lam chiếm ưu thế với mật 
độ dày đặc tại hai vị trí IP1 và IP2, nơi có 
các thông số dinh dưỡng đều cao vượt mức 
cho phép, đồng thời điều này cũng có khả 
năng là nguyên do khiến cho thông số TSS 
(Bảng 3) cao vượt mức giới hạn cho phép 
của QCVN 10-MT:2005/BTNMT [16]. Và 
theo như nghiên cứu của Burford (1997) về 
tác động của phiêu sinh thực vật trong ao 
nuôi tôm, tác giả nhận định vi khuẩn lam 
gia tăng mạnh trong ao nuôi giàu dinh 
dưỡng sẽ gây suy giảm đa dạng các nhóm 
loài phiêu sinh thực vật khác trong quần xã, 
đồng thời dẫn đến tình trạng chất lượng 
nước cũng sẽ dần trở nên xấu đi [11]. Như 
vậy, nếu xét về phiêu sinh thực vật thì vị trí 
IP3 có chất lượng nước thích hợp hơn so 
với IP1 và IP2. 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 71 (05/2020) 
48 
Hình 3. Chỉ số đa dạng loài Shannon – Wiener (H’) 
Bên cạnh đó, nghiên cứu ghi nhận 
được sự hiện diện của sáu chi tảo chỉ thị 
cho thủy vực bị ô nhiễm chất hữu cơ theo 
Palmer (1969) [4] tại vị trí IP1 gồm: 
Cyclotella, Navicula, Euglena, Lepocinclis, 
Chlorella và Pandorina, ít hơn so với IP2 
một chi tảo là Phacus. Từ đó quy về chỉ số 
ô nhiễm Palmer của IP1 là 14 chỉ thị cho 
thủy vực ô nhiễm chất hữu cơ thấp (thủy 
vực không bị phú dưỡng hoặc thủy vực có 
các yếu tố hay chất gây cản trở đến việc 
tồn tại tiếp tục của tảo), IP2 là 16 chỉ thị 
cho thủy vực ô nhiễm chất hữu cơ và có 
khả năng sẽ tăng cao. 
Liên kết các kết quả thông số lý - hóa, 
chỉ số WQI, thành phần phiêu sinh thực 
vật, hai chỉ số sinh học Shannon – Wiener 
(H’) và Palmer trong đợt khảo sát tháng 
03/2019 chỉ ra rằng các vị trí quảng canh tự 
nhiên có chất lượng nước tốt và phù hợp 
cho tôm nuôi. Thành phần phiêu sinh thực 
vật trong ao cũng thích hợp cho tôm sử 
dụng làm nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng. 
Trái lại, các vị trí ao thâm canh có chất 
lượng nước xấu, trong đó IP2 có chất lượng 
nước kém nhất khi liên tục có chỉ số WQI 
thấp rơi vào khoảng màu đỏ (Hình 2), các 
thông số như nhu cầu oxy hóa học (COD) 
và tổng chất rắn lơ lửng (TSS) đều cao hơn 
mức cho phép của QCVN 10-
MT:2015/BTNMT [16]. Hơn nữa, phiêu 
sinh thực vật được ghi nhận có mật độ 
nhóm ngành vi khuẩn lam cao nhất so với 
các nhóm ngành tảo khác, trong đó có sự 
hiện diện của bảy chi tảo chỉ thị cho vùng 
nước ô nhiễm chất hữu cơ theo Palmer 
(1969) [4] gồm: Cyclotella, Navicula, 
Euglena, Lepocinclis, Chlorella, Pandorina 
và Phacus. Đồng thời, tình trạng chất lượng 
nước của IP1 không tốt hơn IP2 là mấy khi 
chỉ số WQI ở khoảng màu vàng (Hình 2) và 
các thông số như COD, N-NH4+, và TSS 
cũng đều cao hơn tiêu chuẩn Việt Nam 
QCVN 10-MT:2015/BTNMT [16]. Tuy 
nhiên, về mật độ phiêu sinh thực vật có 
phần thấp hơn so với IP2 nhưng vẫn cao 
hơn rất nhiều so với các vị trí ao quảng 
canh tự nhiên và điều quan trọng là nhóm 
vi khuẩn lam vẫn là nhóm chiếm ưu thế 
nhất. Riêng vị trí ao IP3 có môi trường nước 
ôn hòa tương tự như các vị trí quảng canh 
tự nhiên, nguyên nhân có thể là do ao nuôi 
ĐẶNG MINH LUẬT và cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
49 
đang trong giai đoạn vừa thả giống (được 
ba tuần tính đến thời điểm thu mẫu) ngắn 
hơn so với hai ao IP1 và IP2 (đã được nuôi 
hơn một tháng tính đến thời điểm thu mẫu). 
Do đó, tình trạng dinh dưỡng trong môi 
trường nước ao IP3 còn rất thấp so với hai 
ao còn lại (Bảng 3). 
Tóm lại, tình trạng dinh dưỡng cao 
vượt mức cho phép theo QCVN 10-
MT:2015/BTNMT đang xảy ra tại các ao 
nuôi tôm thâm canh, thêm vào đó sự có 
mặt của nhóm tảo mắt cho thấy môi trường 
nước và đáy ao đã có sự ô nhiễm hữu cơ từ 
việc nhiễm bẫn nền đáy ao do thức ăn thừa 
mứa và chất thải tôm nuôi lắng đọng ngày 
một nhiều và tình trạng này sẽ còn tiếp tục 
tăng lên qua từng giai đoạn nuôi [14]. 
Nhóm vi khuẩn lam sẽ có tác động tiêu cực 
đến ao nuôi khi chúng còn chiếm vị trí ưu 
thế trong ao, vì tôm sẽ rất khó tiêu hóa khi 
ăn phải loài tảo này và gây ra bệnh phân 
trắng cho tôm [15], đồng thời chất lượng 
nước cũng sẽ dần trở nên xấu đi [11]. Hơn 
nữa, qua khảo sát thực tế được biết nguồn 
nước xả thải của các hộ nuôi thâm canh lại 
không được xử lý triệt để trước khi bơm và 
xả thải trực tiếp ra các con kênh, rạch, bãi 
bồi hay RNM nằm gần đó. Nếu hoạt động 
này diễn ra liên tục trong một thời gian dài 
rất có khả năng làm cho các vật chất trong 
nước thải tồn dư lại môi trường sông, kênh 
rạch. Qua đó gây ảnh hưởng đến đời sống 
của các loài sinh vật ngoài tự nhiên và có 
thể khi đó các ao nuôi tôm quảng canh tự 
nhiên cũng không phải là ngoại lệ. 
4. Kết luận 
Các vị trí ao quảng canh tự nhiên và 
IP3 có chất lượng nước tương đối tốt và 
thích hợp cho sự phát triển của tôm. Còn 
những ao nuôi tôm thâm canh (ngoại trừ vị 
trí ao IP3) hiện có tình trạng phì dưỡng bởi 
sự giàu có mật độ vi khuẩn lam và sự xuất 
hiện của nhóm tảo mắt, đồng thời hai thông 
số dinh dưỡng là NH4+ và COD đều cao 
vượt ngưỡng giới hạn cho phép theo 
QCVN 10-MT:2015/BTNMT. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Forbes, (2020, June 1). Penaeus monodon (giant tiger prawn), Center for Agriculture 
and Biosciences International [Online]. Available: 
https://www.cabi.org/isc/datasheet/71093. 
[2] Sournia, Phytoplankton manual, Paris: UNESCO, 1978. 
[3] E. Shannon and W. Wiener, The mathematical theory of communication, Urbana: 
University of Illinois Press, 1949. 
[4] M. Palmer, “A Composite Rating of Algae Tolerating Organic Pollution”, Journal of 
Phycology, 5, 78-82, 1969. 
[5] Đặng Thị Hồng Phương và Hà Anh Tuấn. “Hoạt động nuôi tôm tập trung và 
chất lượng môi trường nước nuôi tôm tại xã Hải Đông, huyện Hải hậu, tỉnh Nam 
Định”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 107(7), 31-35, 2013. 
[6] E. Beltrame, C. Bonetti and J. Bonetti Filho, “Pre-selection of areas for shrimp 
culture in a subtropical Brazilian lagoon based on multicriteria hydrological 
evaluation”, Journal of Coastal Research, 39, 1838-1842, 2006. 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 71 (05/2020) 
50 
[7] Huỳnh Phú, “Nghiên cứu đánh giá môi trường chất lượng nước vùng nuôi tôm sú ven 
biển Trà Vinh và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững”, Luận án Tiến Sĩ, Đại 
học Thủy Lợi, Hà Nội, 2006. 
[8] J. L. Wilhm and T. C. Dorris, “Biological parameters for water quality criteria”, 
Bioscience, 8(6), 477-481, 1986. 
[9] J. M. Landwehr and R. A. Deininger, “A Comparision of Several Water Quality 
Indexes”, Journal of the Water Pollution Control Federation, 48(5), 954-958, 1976. 
[10] J. M. Landwehr, “Water Quality Indices – Construction and Analysis”, PhD thesis, 
University of Michigan, 1974. 
[11] M. Burford, “Phytoplankton dynamics in shrimp ponds”, Aquaculture Research, 28, 
351-360, 1997. 
[12] Nguyễn Phú Hòa, Chất lượng môi trường nước trong nuôi trồng thủy sản, Đại học 
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2016. 
[13] Nguyễn Văn Công, Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Thủy 
Sản, Được soạn thảo cho Ngân hàng Thế giới, Washington, DC, 2017. 
[14] Nimda Tép Bạc, (1/6/2020). Tảo độc trong ao nuôi tôm và biện pháp quản lý, Nguồn 
tepbac.com [Trực tuyến]. Địa chỉ: https://tepbac.com/tin-tuc/full/tao-doc-trong-ao-
nuoi-tom-va-bien-phap-quan-ly-20617.html 
[15] Phạm Thanh Lưu, Trần Thành Thái, Nguyễn Thị Mỹ Yến và Ngô Xuân Quảng, “Đa 
dạng thực vật phù du trong ao nuôi tôm sinh thái Cà Mau”, Kỷ yếu Báo cáo Khoa 
học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật – Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 7, 
793-800, 2017. 
[16] QCVN 10-MT:2015/BTNMT. (2015), Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng 
nước biển. 
[17] R. M. Brown, N. I. McClelland, R. A. Deininger and R. G. Tozer, “Water quality 
index-do we dare?”, Water Sewage Works, 117(10), 339-343, 1970. 
[18] T. M. H. Pham, “Development of Water Quality Indices for Surface Water Quality 
Evaluation in Vietnam”, Journal of Environmental Engineering, 137, 273-283, 2009. 
[19] TCVN 5994: 1995 (ISO 5667–4: 1987) – Tiêu chuẩn Quốc gia về Chất 
lượng nước – Lấy mẫu – Hướng dẫn lấy mẫu ở hồ ao tự nhiên và nhân tạo. 
[20] Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Trà Vinh, Quyết định Ban hành Kế hoạch Phòng, chống thiên 
tai trên địa bàn tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2016 – 2020, Số 791/ QĐ-UBND, 2016. 
Ngày nhận bài: 06/12/2019 Biên tập xong: 15/5/2020 Duyệt đăng: 20/5/2020 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_chat_luong_nuoc_ao_nuoi_tom_quang_canh_tu_nhien_va.pdf