Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian

Trong nghiên cứu này tập trung vào hai nội dung chính đó là đánh giá biến động đường bờ của khu vực quân

cảng vùng 5 Hải quân bằng ảnh viễn thám đa thời gian từ năm 1999 đến năm 2016. Đánh giá biến động địa

hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân (các năm 2007, 2010); Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dùng

bao gồm: (i) Phương pháp ảnh tỷ số chiết tách đường bờ; (ii) Phương pháp đánh giá biến động đường bờ

bằng GIS; (iii) Mô hình số độ cao và phương pháp đánh giá biến động địa hình đáy. Sự thay đổi đường bờ rõ

nét nhất là các khu vực cảng An Thới thuộc đoạn bờ từ Mũi Đèn đến Mũi Ông Đội. Khu vực từ Mũi Đèn

đến Mũi Con Dương, đường bờ có xu hướng biến động âm (xói lở) diễn ra là chủ yếu với độ rộng trung bình

khoảng 40–50 m, một vài nơi đường bờ biến động dương (bồi tụ) đặc biệt là tại khu vực Mũi Con Dương

với độ rộng đạt đến 60 m. Nhìn vào các mặt cắt AA’, BB’, CC’, DD’ có thể thấy địa hình đáy tại luồng vào

các cảng của quân cảng vùng 5 độ sâu chỉ dao động từ 2 m đến 4 m. Tốc độ bồi tụ trong giai đoạn này lên

tới 1 m/năm.

Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian trang 1

Trang 1

Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian trang 2

Trang 2

Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian trang 3

Trang 3

Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian trang 4

Trang 4

Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian trang 5

Trang 5

Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian trang 6

Trang 6

Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian trang 7

Trang 7

Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian trang 8

Trang 8

Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian trang 9

Trang 9

Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian trang 10

Trang 10

pdf 10 trang viethung 3900
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian

Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian
 239 
Vietnam Journal of Marine Science and Technology; Vol. 19, No. 3B; 2019: 239–248 
DOI: https://doi.org/10.15625/1859-3097/19/3B/14529 
https://www.vjs.ac.vn/index.php/jmst 
Evaluating the shoreline and bottom terrain variations in the naval port 
of zone 5, Phu Quoc, Kien Giang by using multi - temporal remote 
sensing images 
Nguyen The Luan
*
, Nguyen Ngoc Tien, Tran Anh Tuan, Le Dinh Nam, Pham Duc Hung, 
Nguyen Xuan Tung 
Institute of Marine Geology and Geophysics, VAST, Vietnam 
*
E-mail: ntluan.wh@gmail.com 
Received: 25 July 2019; Accepted: 6 October 2019 
©2019 Vietnam Academy of Science and Technology (VAST) 
Abstract 
In this study, the authors aim to study two major contents: (1) Evaluating the shoreline variation in the naval 
port of zone 5 (in the years of 1999, 2006, 2009 and 2016); (2) Evaluating the bottom terrain variation in the 
naval port of zone 5 (in the years of 2007 and 2010). Three main research methodologies were applied: (i) 
Band rationing method for the shoreline extraction; (ii) Shoreline change analysis method using GPS data; 
(iii) Digital elevation model integrated with bottom terrain analysis method. The most obvious change in 
shoreline is in the An Thoi port from Mui Den to Mui Ong Doi. In the shoreline from Mui Den to Mui Con 
Duong, a backward shoreline evolution (erosion) mainly occurred with an average width of about 40–50 m, 
while some other places had a forward shoreline evolution (accumulation), especially in Mui Con Duong 
with a width of 60 m. These sediment materials are sent to conductor and accumulation, making the bottom 
terrain raised. As on the sections AA’, BB’, CC’, DD’, we could see that the bottom terrain at the channel of 
naval port of zone 5 has the depth variation only from 2 m to 4 m. The accumulation rate is up to 1 m/year in 
this period. 
Keywords: Shoreline, bottom topography, erosion, landslide, accumulation, sediment, naval port of zone 5, 
Phu Quoc, Kien Giang. 
Citation: Nguyen The Luan, Nguyen Ngoc Tien, Tran Anh Tuan, Le Dinh Nam, Pham Duc Hung, Nguyen Xuan Tung, 
2019. Evaluating the shoreline and bottom terrain variations in the naval port of zone 5, Phu Quoc, Kien Giang by using 
multi - temporal remote sensing images. Vietnam Journal of Marine Science and Technology, 19(3B), 239–248. 
 240 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, Tập 19, Số 3B; 2019: 239–248 
DOI: https://doi.org/10.15625/1859-3097/19/3B/14529 
https://www.vjs.ac.vn/index.php/jmst 
Đánh giá biến động đƣờng bờ và địa hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 
Hải quân, Phú Quốc, Kiên Giang bằng ảnh viễn thám đa thời gian 
Nguyễn Thế Luân*, Nguyễn Ngọc Tiến, Trần Anh Tuấn, Lê Đình Nam, Phạm Đức Hùng, 
Nguyễn Xuân Tùng 
Viện Địa chất và Địa vật lý biển - Viện Hàn lâm Khoa học và Công Nghệ Việt Nam, Việt Nam 
*
E-mail: ntluan.wh@gmail.com 
Nhận bài: 25-7-2019; Chấp nhận đăng: 6-10-2019 
Tóm tắt 
Trong nghiên cứu này tập trung vào hai nội dung chính đó là đánh giá biến động đường bờ của khu vực quân 
cảng vùng 5 Hải quân bằng ảnh viễn thám đa thời gian từ năm 1999 đến năm 2016. Đánh giá biến động địa 
hình đáy khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân (các năm 2007, 2010); Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dùng 
bao gồm: (i) Phương pháp ảnh tỷ số chiết tách đường bờ; (ii) Phương pháp đánh giá biến động đường bờ 
bằng GIS; (iii) Mô hình số độ cao và phương pháp đánh giá biến động địa hình đáy. Sự thay đổi đường bờ rõ 
nét nhất là các khu vực cảng An Thới thuộc đoạn bờ từ Mũi Đèn đến Mũi Ông Đội. Khu vực từ Mũi Đèn 
đến Mũi Con Dương, đường bờ có xu hướng biến động âm (xói lở) diễn ra là chủ yếu với độ rộng trung bình 
khoảng 40–50 m, một vài nơi đường bờ biến động dương (bồi tụ) đặc biệt là tại khu vực Mũi Con Dương 
với độ rộng đạt đến 60 m. Nhìn vào các mặt cắt AA’, BB’, CC’, DD’ có thể thấy địa hình đáy tại luồng vào 
các cảng của quân cảng vùng 5 độ sâu chỉ dao động từ 2 m đến 4 m. Tốc độ bồi tụ trong giai đoạn này lên 
tới 1 m/năm. 
Từ khóa: Đường bờ, địa hình đáy, xói lở, sạt lở, tồi tụ trầm tích, quân cảng vùng 5, Phú Quốc, Kiên Giang. 
MỞ ĐẦU 
Khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân là khu 
vực quân sự, thuộc huyện đảo Phú Quốc, Kiên 
Giang. Việc nạo vét dòng dẫn đã làm cho 
đường bờ và lòng dẫn bị mất cân bằng dẫn đến 
hiện tượng sạt lở, xói lở, dường bờ và lắng 
đọng lòng dẫn. Do đó việc nghiên cứu đánh giá 
biến động đường bờ và biến động địa hình đáy 
khu vực quân cảng vùng 5 Hải quân là hết sức 
cần thiết. 
Hiện nay, có nhiều phương pháp được áp 
dụng để nghiên cứu diễn biến đường bờ, điển 
hình như: Khảo sát trắc địa và GPS, chụp ảnh 
trên không, viễn thám,... Tất cả các phương 
pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm 
riêng, tùy thuộc vào khu vực và dữ liệu nghiên 
cứu [1]. Trong đó, công nghệ ảnh viễn thám 
được xem là phương pháp có ưu điểm hơn so 
với các phương pháp khác [2]. 
Trên thế giới, năm 1996, McFeeters đã giới 
thiệu kỹ thuật chỉ số nước khác biệt (NDWI) 
kết hợp giữa màu xanh lục (band 2) và cận 
hồng ngoại-NIR (band 4) của ảnh Landsat TM. 
McFeeters đề nghị giá trị ngưỡng bằng 0 để 
tách nước, các giá trị lớn hơn 0 được phân loại 
là nước và ngược lại không phải là nước [3]. 
Năm 2006, H. Xu phát hiện ra rằng trong các 
khu vực đã được xây dựng thì kỹ thuật NDWI 
cho kết quả không tốt và đề xuất một kỹ thuật 
khác là chỉ số nước khác biệt được hiệu chỉnh 
Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy 
241 
(MNDWI) bằng cách thay thế band cận hồng 
ngoại bởi band giữa hồng ngoại-MIR (trong đó 
bộcảm biến ETM+ là band 5 và OLI là band 6) 
[4]. Một hạn chế chung tồn tại trong cả hai kỹ 
thuật NDWI, MNDWI là không thể cung cấp 
một giá trị ngưỡng chính xác dùng để phân tách 
rõ ràng giữa đất và nước [5]. Để khắc phục 
những hạn chế trong hai kỹ thuật NDWI và 
MNDWI. Năm 2014, Feyisa et al., (2014) [6] 
đề xuất chỉ số AWEI (Automated Water 
Extraction Index) trên cơ sở phản xạ phổ ở dải 
sóng xanh lục và giữa hồng ngoại phục vụ chiết 
tách thông tin đ ... n, tác giả 
sử dụng các tài liệu do Cục bản đồ Bộ Tài 
nguyên Môi trường xuất bản năm 2007, ph ng 
bảo đảm Hàng hải Bộ Tư lệnh Hải quân cung 
cấp. Ngoài ra c n tham khảo các tài liệu đo vẽ 
của các Công ty thực hiện phục vụ công tác nạo 
vét luồng tàu vào khu vực cảng vùng 5, Các tài 
liệu địa hình, tài liệu thủy- hải văn. 
Nguyễn Thế Luân và nnk. 
242 
Hình 1. Ảnh Landsat tổ hợp màu giả (kênh 4, 3, 2 đối với bộ cảm TM 
và kênh 5, 4, 3 đối với bộ cảm OLI) 
Phƣơng pháp sử dụng 
Phương pháp ảnh tỷ số chiết tách đường bờ 
Dữ liệu ảnh Landsat gồm ảnh Landsat TM 
gồm 7 kênh đa sắc với độ phân giải 30 m, ảnh 
ETM+ gồm 1 kênh toàn sắc với độ phân giải 15 
m và 7 kênh đa sắc với độ phân giải 30 m, tần 
suất thu nhận được ảnh có độ che phủ mây khu 
vực nghiên cứu nhỏ hơn 10%. Đường bờ thu 
nhận qua quá trình xử lý ảnh vệ tinh là các 
vectơ dạng đường. Để giảm thiểu sự khác biệt 
về độ phân giải mặt đất của ảnh vệ tinh đến sản 
phẩm đường bờ, nghiên cứu đã sử dụng thuật 
toán làm trơn (smooth) các vectơ đường bờ. 
Các ảnh vệ tinh cùng loại có thời gian chụp 
khu vực nghiên cứu xấp xỉ nhau, chênh lệch từ 1 
phút đến 15 phút. Sự khác biệt mực triều tại các 
thời điểm thu chụp có thể xẩy ra, vì vậy đường 
bờ từ các ảnh khác nhau thể hiện đường bờ với 
mực triều khác nhau. Nếu sử dụng đường bờ từ 
ảnh vệ tinh để so sánh biến động đường bờ theo 
thời gian thì chắc chắn phải lựa chọn cho được 
các ảnh có cùng mực triều như nhau. 
Dữ liệu viễn thám với đặc điểm đa thời 
gian, phủ trùm cho cả một khu vực rộng lớn 
chính là công cụ hữu hiệu cho việc theo dõi 
biến động đường bờ. Có nhiều phương pháp 
khác nhau trong chiết tách đường bờ từ tư 
liệu viễn thám như là kỹ thuật phân ngưỡng 
đơn kênh hoặc ảnh tỷ số từ 2 kênh trở lên. 
Trong nghiên cứu này, phương pháp ảnh tỷ 
số được áp dụng để chiết xuất đường bờ khu 
vực tây nam Việt Nam từ ảnh viễn thám 
Landsat TM 1999, 2006, 2009 và ảnh 
Landsat OLI, 2016 được lựa chọn là phương 
pháp chỉ số AWEI, do Feyisa et al., (2014) [6] 
đề xuất chỉ số AWEI (Automated Water 
Extraction Index) trên cơ sở phản xạ phổ ở 
dải sóng xanh lục và giữa hồng ngoại phục 
vụ chiết tách thông tin đường bờ. Chỉ số 
AWEI cũng đã được chứng minh tính hiệu 
quả so với các chỉ số khác trong nghiên cứu 
diễn biến đường bờ từ ảnh vệ tinh Landsat 
[7]. 
Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy 
243 
AWEI = 4 × (ρband2 – ρband5) – (0,25 × ρband4 + 2,75 × ρband7) (1) 
Trong đó: ρ là giá trị phản xạ bề mặt của các 
kênh Landsat TM, đối với ảnh Landsat OLI thì 
các kênh tương ứng trong công thức nêu trên là 
các kênh 3, 6, 5 và kênh 7. 
Phương pháp đánh giá biến động đường bờ 
bằng GIS 
Phương pháp đánh giá biến động đường bờ 
được dựa vào kỹ thuật chồng ghép thông tin 
GIS. Kỹ thuật này tạo ra một lớp thông tin mới 
từ nhiều lớp thông tin khác nhau trong cùng 
một phạm vi khu vực nghiên cứu. Biến động 
đường bờ được xác định bằng việc so sánh các 
đường bờ xác định từ các ảnh vệ tinh ở thời 
điểm các năm khác nhau. Dựa trên đường bờ ở 
các năm 1999, 2006, 2009 và 2016 sẽ đánh giá 
được quá trình biến động đường bờ giữa các 
năm và trong cả giai đoạn từ 1999–2016. 
Mô hình số độ cao và phương pháp đánh giá 
biến động địa hình đáy 
Dựa trên các số liệu khảo sát thực tế về địa 
hình và các tài liệu tham khảo đã nêu ở trên, 
nghiên cứu đã tiến hành xây dựng mô hình số 
độ cao cho vùng nghiên cứu qua mỗi thời kỳ 
tương ứng. Để đạt được độ chính xác cao nhất 
trong nghiên cứu, tác giả đã xây dựng mô hình 
số độ cao với giá trị cell size là 5,0 m, tương 
ứng với tỷ lệ bản đồ là 1:5.000. 
Từ những DEM (bản đồ mô hình số độ cao) 
xây dựng được, tiến hành dùng phép trừ giữa 
các giá trị pixel của các DEM với nhau để tìm 
ra sự biến động địa hình đáy qua các thời kỳ và 
theo phương án trước và sau khi nạo vét ở khu 
vực cảng vùng 5 Hải quân. Trên cơ sở đó định 
lượng được sự biến động địa hình đáy, bao gồm: 
Giá trị bồi lớn nhất, giá trị xói lớn nhất, giá trị 
xói lở - bồi tụ trung bình và thể tích xói lở - bồi 
tụ cho mỗi khu vực tính toán. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Kết quả đánh giá đƣờng bờ 
Chiết tách đường bờ từ ảnh vệ tinh 
Landsat 
Bằng việc sử dụng công thức (1), ảnh 
AWEI được tính toán cho các cảnh ảnh từng 
năm, dựa vào biểu đồ phân phối giá trị, xác 
định được ranh giới đường bờ nước. Trong các 
ảnh AWEI giá trị ngưỡng được xác định là 0,15, 
nếu AWEI > 0,15 là nước và AWEI < 0,15 là 
đất (hình 2). 
Hình 2. Biểu đồ phân phối giá trị AWEI và ngưỡng xác định ranh giới đất và nước 
Nguyễn Thế Luân và nnk. 
244 
Hình 3. Đường bờ được chiết tách từ ảnh chỉ số AWEI 
Biến động đường bờ khu vực nghiên cứu 
Bằng việc sử dụng kỹ thuật chồng ghép 
GIS, đường bờ biển các năm 1999, 2006, 2009 
và 2016 của khu vực nghiên cứu được chồng 
lên nhau để xác định sự biến động của chúng 
trong giai đoạn 1999–2016. Kết quả cho thấy, 
quá trình thay đổi đường bờ rõ nét nhất là các 
khu vực cảng An Thới (đoạn từ Mũi Đèn đến 
Mũi Ông Đội) (hình 4).Trong đó quá trình 
biến động mạnh nhất diễn ra ở khu vực Mũi 
Con Dương. 
Hình 4. Các thế hệ đường bờ giai đoạn 1999–2016 
Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy 
245 
Trên hình 5 là biến động đường bờ ở các 
giai đoạn khác nhau. Trong các năm 1999–
2006 và 2006–2009 đường bờ hầu như ít biến 
động, biến động chủ yếu diễn ra trong giai đoạn 
2009–2016, trong đó khu vực từ Mũi Đèn đến 
Mũi Con Dương, đường bờ có xu hướng biến 
động âm (xói lở) diễn ra là chủ yếu với độ rộng 
trung bình khoảng 40–50 m, một vài nơi đường 
bờ biến động dương (bồi tụ) đặc biệt là tại khu 
vực Mũi Con Dương với độ rộng đạt đến 60 m. 
Nguyên nhân có thể ở khu vực quần đảo An 
Thới và khu vực quân cảng vùng 5 không được 
che chắn nên chịu tác động mạnh mẽ của các 
yếu tố động lực biển (sóng, gió, thuỷ triều, 
d ng chảy ven bờ, nước dâng...). Do cấu trúc 
bờ biển ở khu vực là cát bở rời nên rất dễ sạt lở 
dưới tác động của sóng và d ng ven bờ, dẫn 
đến khu vực Mũi Đen và vùng ngoài Mũi Ông 
Đội bị biến động mạnh theo mùa. 
Hình 5. Biến động đường bờ các giai đoạn 
Kết quả đánh giá biến động địa hình đáy 
khu vực cảng vùng 5 
Các kết quả được đánh giá dưới dạng các 
mặt cắt AA’, BB’, CC’, DD’ được thể hiện trên 
hình 6. 
Sự khác biệt của địa hình đáy giữa các thời 
điểm, từ năm 2007 đến năm 2010 là cơ sở để 
đánh giá diễn biến địa hình đáy khu vực cảng 
vùng 5 Hải quân. 
Kết quả cho thấy, trong thời điểm này địa 
hình đáy luồng được bồi lên với tốc độ khá 
lớn, nhất là khu vực luồng tàu vào cảng 
(hình 7a–7b), cụ thể: 
Bờ phía phải cầu cảng số 3 nằm ở mũi 
đông nam đảo Phú Quốc thuộc thị trấn An 
Thới, huyện đảo Phú Quốc có xu hướng xói 
nhẹ, tốc độ xói trung bình khoảng từ 0,08–0,1 
m/năm. Bờ trái của khu vực cảng có xu thế bồi, 
tốc độ bồi trung bình khoảng 0,1–0,15 m/năm. 
Hiện tượng bồi tụ này gây khó khăn cho tàu 
Hải quân có trọng tải lớn ra vào cảng. 
Nhìn chung, trong giai đoạn này, địa hình 
đáy khu vực cảng vùng 5 được bồi lên tương 
đối mạnh. Tốc độ bồi tụ trên toàn vùng tính 
toán khoảng 0,09 m/m2 (diện tích của vùng tính 
toán khu vực cảng số 1, 2 có diện tích sử dụng 
Nguyễn Thế Luân và nnk. 
246 
khoảng 607.000 m2 ~ 60,7 ha, khu vực cảng số 
3 có diện tích sử dụng khoảng 1.845.529 m2 ~ 
184,55 ha). Cầu cảng 1 và cầu cảng số 2 nằm 
tại mũi nam đảo Phú Quốc với phạm vi khu 
nước của cảng có diện tích sử dụng khoảng 
607.000 m
2
 - 60,7 ha. 
Hình 6. Sơ đồ mặt cát tại vùng nghiên cứu 
Hình 7a. Mô hình số độ cao khu vực cảng vùng 5 năm 2007 
Hình 7b. Mô hình số độ cao khu vực cảng vùng 5 năm 2010 
Đánh giá biến động đường bờ và địa hình đáy 
247 
(a) Mặt cắt AA’ (b) Mặt cắt BB’ 
(c) Mặt cắt CC’ (d) Mặt cắt DD’ 
Hình 8. Biến đổi địa hình từ năm 2007 đến 2010 tại mặt cát AA’, BB’, CC’, DD’ 
Các kết quả biến động địa hình đáy trong 
giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2010 được thế 
hiện qua các mặt cắt AA’, BB’, CC’, DD’. 
Nhìn vào các mặt cắt có thể thấy trước khi nạo 
vét địa hình tại luồng vào các cảng của quân 
cảng vùng 5 độ sâu chỉ dao động từ 2 m đến 
4 m. Tốc độ bồi tụ trong giai đoạn này lên tới 
1 m/năm. Nguyên nhân là do sóng đưa các vật 
liệu như bùn, cát từ phía ngoài biển nông vào 
và sự xói lở dọc bờ đã đưa bùn cát dọc bờ đưa 
ra lòng dẫn. 
Ở dải ven biển khu vực huyện An Thới từ 
tháng 12 đến tháng 3 năm sau, sóng hướng 
đông bắc hoạt động khá mạnh tác động vào 
khu vực các đảo, vì vậy phía bờ phải vẫn bị 
xói lở mạnh. Từ tháng 3 trở đi các sóng hướng 
đông bắc hoạt động yếu dần, nhưng xuất hiện 
các sóng hướng đông và đông nam hoạt động 
mạnh nên dòng chảy dọc bờ mang vật liệu từ 
phía nam lên bồi ở phía bắc khu vực cảng. 
Ngoài ra, ở khu vực cảng có sự tương tác giữa 
các dòng thành phần như d ng sóng ven bờ, 
dòng triều và dòng chảy do sóng đã làm vật 
liệu được tích tụ mạnh gây bồi lấp ở khu vực 
luồng tàu vào cảng vùng 5. Đặc biệt trong giai 
đoạn từ năm 2007 đến năm 2010 ở khu vực 
cảng vùng 5 xuất hiện nhiều bar, bãi cát án 
ngữ ngay trước cửa gây khó khăn cho hoạt 
động giao thông thủy. Điều này có thể lý giải 
như sau: Trong mùa khô vì d ng chảy có tốc 
độ nhỏ không thể đẩy được các vật liệu bùn 
cát ra xa cửa (các vật liệu này phần lớn do 
sóng đưa từ phía ngoài biển nông vào và dòng 
bùn cát dọc bờ đưa ra) nên lòng dẫn cửa sông 
thường bị bồi lấp mạnh và cửa sông bị thu hẹp 
lại vào khoảng thời gian này. 
Nhận xét và thảo luận 
Kết quả cho thấy, trong khu vực nghiên cứu 
đường bờ thay đổi rõ nét nhất là các khu vực 
cảng An Thới thuộc đoạn bờ từ Mũi Đèn đến 
Mũi Ông Đội. Trong đó, quá trình biến động 
mạnh nhất diễn ra ở khu vực Mũi Con Dương. 
Biến động chủ yếu diễn ra trong giai đoạn 
2009–2016, trong đó khu vực từ Mũi Đèn đến 
Mũi Con Dương , đường bờ có xu hướng biến 
động âm (xói lở) diễn ra là chủ yếu với độ rộng 
trung bình khoảng 40–50 m, một vài nơi đường 
bờ biến động dương (bồi tụ) đặc biệt là tại khu 
vực Mũi Con Dương với độ rộng đạt đến 60 m. 
Kết quả biến động địa hình đáy trong giai 
đoạn từ năm 2007 đến năm 2010 được thể hiện 
qua các mặt cắt AA’, BB’, CC’, DD’. Nhìn vào 
các mặt cắt có thể thấy địa hình đáy tại luồng 
vào các cảng của quân cảng V5 độ sâu chỉ dao 
động từ 2 m đến 4 m. Tốc độ bồi tụ trong giai 
đoạn này lên tới 1 m/năm. 
Nguyễn Thế Luân và nnk. 
248 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Ozturk, D., and Sesli, F. A., 2015. 
Shoreline change analysis of the 
Kizilirmak Lagoon Series. Ocean & 
Coastal Management, 118, 290–308. 
[2] Du, Z., Li, W., Zhou, D., Tian, L., Ling, 
F., Wang, H., ... and Sun, B., 2014. 
Analysis of Landsat-8 OLI imagery for 
land surface water mapping. Remote 
sensing letters, 5(7), 672–681. 
[3] McFeeters, S. K., 1996. The use of the 
Normalized Difference Water Index 
(NDWI) in the delineation of open water 
features. International Journal of Remote 
Sensing, 17(7), 1425–1432. 
[4] Xu, H., 2006. Modification of normalised 
difference water index (NDWI) to 
enhance open water features in remotely 
sensed imagery. International Journal of 
Remote Sensing, 27(14), 3025–3033. 
[5] Feyisa, G. L., Meilby, H., Fensholt, R., 
and Proud, S. R., 2014. Automated Water 
Extraction Index: A new technique for 
surface water mapping using Landsat 
imagery. Remote Sensing of Environment, 
140, 23–35. 
[6] Feyisa, G. L., Meilby, H., Fensholt, R., 
and Proud, S. R., 2014. Automated Water 
Extraction Index: A new technique for 
surface water mapping using Landsat 
imagery. Remote Sensing of Environment, 
140, 23–35. 
[7] Li, W., and Gong, P., 2016. Continuous 
monitoring of coastline dynamics in 
western Florida with a 30-year time series 
of Landsat imagery. Remote Sensing of 
Environment, 179, 196–209. 
[8] Klemas, P., and Victor, V., 2009. Remote 
sensing of coastal resources and 
environment. Environmental Research, 
Engineering and Management, 48(2), 11–18. 
[9] Proisy, C., Souza Filho, P., Fromard, F., 
Prost, M. T., Mendes, A. C., and De 
Coligny, F., 2003. Monitoring the 
Dynamic of the Amazon Coast (Pará, 
Brasil and French Guiana) Using a 
Commom Methodology Based on a 
Spatial Analysis Coupled to a Simulation 
Tool. Mangrove 2003. 
[10] Winarso, G., and Budhiman, S., 2001. The 
potential application of remote sensing 
data for coastal study. In Proc. 22nd. 
Asian Conference on Remote Sensing, 
Singapore (pp. 1–5). 
[11] Trần Văn Điện, Trần Đình Lân, Trần Đức 
Thạnh, Nguyễn Văn Thảo, Đỗ Thu 
Hương, 2005. ng dụng viễn thám giám 
sát xói lở bờ biển và biến động cửa đầm 
phá Tam Giang, Cầu Hai, yế ội th o 
 c gia v đ m phá Th a Thi n- ế. Tr. 
277–287. 
[12] Phạm Thị Phương Thảo, Hồ Đình Duẩn, 
Đặng Văn Tỏ, 2011. ng dụng viễn thám 
và GIS trong theo dõi và tính toán biến 
động đường bờ vực Phan Thiết. Tạp chí 
 hoa học và Công nghệ biển, 11(3), 1–13. 
[13] Nguyễn Duy Khang, Lê Mạnh Hùng, 
2012. Thực trạng xói lở bờ biển, suy thoái 
rừng ph ng hộ và xu thế diễn biến đường 
bờ khu vực ven biển G Công Đông, tỉnh 
Tiền Giang. Tạp chí hoa học và Công 
nghệ Thủy lợi. 
[14] Trịnh Lê Hùng, Vũ Danh Tuyên, 2013. 
Nghiên cứu phương pháp xác định biến 
động đường bờ dựa trên kết quả phân loại 
ảnh viễn thám đa thời gian. Tạp chí hoa 
học Tài ng y n và Môi trường, 1, 42–47. 
[15] Đào Đình Châm, Nguyễn Thái Sơn, 
Nguyễn Quang Minh, 2013. ng dụng 
công nghệ viễn thám và hệ thông tin địa lý 
trong đánh giá diễn biến bãi bồi ven biển 
Cửa Đáy qua các thời kỳ (1996–2011). 
Tạp chí Các khoa học v Trái đất, 35(4), 
349–356. 
[16] Huỳnh Văn Chương, Trần Huy Cương, 
Phạm Gia Tùng, 2014. ng dụng viễn 
thám và GIS đánh giá sự biến đổi địa hình 
bờ biển khu vực Núi Thành, tỉnh Quảng 
Nam giai đoạn 2000–2013. yế ội 
th o Ứng dụng GIS toàn q c 2014. Tr. 
1–8. 
[17] Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Khánh, 
2016. Quan trắc sự biến động đường bờ sử 
dụng ảnh vệ tinh Landsat đa thời gian ở 
khu vực Cửa Đại, sông Thu Bồn, Quảng 
Nam. Tạp chí hoa học th ật M - 
Địa chất. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_bien_dong_duong_bo_va_dia_hinh_day_khu_vuc_quan_can.pdf