Đánh giá an toàn của thuốc điều hòa miễn dịch pembrolizumab
Đặt vấn đề: Điều trị bước 1 ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa không phẫu thuật được
không đột biến chủ đạo chủ yếu dựa vào hóa trị bộ đôi với platinum, thêm pembrolizumab vào hóa trị tạo
nên tỉ lệ đáp ứng cao hơn và sống còn bệnh không tiến triển dài hơn có ý nghĩa so với hóa trị đơn
độc(nghiên cứu pha 3 ngẫu nhiên mù đôi Keynote 189).
Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu đánh giá mức độ an toàn của thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn
dịch pembrolizumab.
Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ bệnh nhân điều trị với pembrolizumab tại khoa Ung Bướu bệnh viện
Thống Nhất năm 2019-2020.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả hàng loạt ca.
Kết quả: Trong 2 năm 2019 và 2020 chúng tôi hồi cứu 19 ca có sử dụng pembrolizumab điều trị,
trong nhóm sử dụng pembrolizumab đơn chất có 1/19 ca (5,3%), giảm tiểu cầu và 1/19 ca (5,3%) tăng
men gan độ 2 ổn định ở những chu kì sau; nhóm pembrolizumab phối hợp hóa trị ghi nhận ngứa 1/19 ca
(5,3%) ổn định với thuốc hỗ trợ, giảm bạch cầu 1/19 ca (5,3%), giảm tiểu cầu 1/19 ca (5,3%), tăng men
gan 1/19 ca (5,3%) độ 2 ổn định ở những chu kì sau, 1/19 ca (5,3%) tăng men gan độ 4 phải ngưng
pembrolizumab; trong cả 2 nhóm trung bình thiếu máu là như nhau với thiếu máu độ 2 cao nhất và kiểm
soát được, không ca nào tử vong do tác dụng phụ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá an toàn của thuốc điều hòa miễn dịch pembrolizumab
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 156 ĐÁNH GIÁ AN TOÀN CỦA THUỐC ĐIỀU HÒA MIỄN DỊCH PEMBROLIZUMAB TRẦN MẠNH HOÀNG1, NGUYỄN ĐẮC NHÂN TÂM2, ĐỖ KIM QUẾ3 Địa chỉ liên hệ: Trần Mạnh Hoàng Email: manhhoang.tran@gmail.com Ngày nhận bài: 1/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 BSCKI. Khoa Ung Bướu - Bệnh viện Thống Nhất TP. HCM 2 Bác sĩ Phụ trách Khoa Ung Bướu - Bệnh viện Thống Nhất TP. HCM 3 PGS.TS. Phó Giám đốc - Bệnh viện Thống Nhất TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Điều trị bước 1 ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa không phẫu thuật được không đột biến chủ đạo chủ yếu dựa vào hóa trị bộ đôi với platinum. Trong số những bệnh nhân(BN) có điểm số PD-L1 (programmed death ligan 1) ≥50%, pembrolizumab có thể thay thế hóa trị độc tế bào ở bước một. Thêm pembrolizumab vào hóa trị tạo nên tỉ lệ đáp ứng cao hơn và sống còn bệnh không tiến triển dài hơn có ý nghĩa so với hóa trị đơn độc(nghiên cứu pha 3 ngẫu nhiên mù đôi Keynote 189)[12]. Điều trị ức chế điểm kiểm soát miễn dịch đã được nghiên cứu nhiều (pembrolizumab, atezolizumab, nivolumab) trên nhiều loại ung thư khác nhau ở giai đoạn tiến xa đặc biệt khi có biểu hiện MSI-H hay dMMR. Pembrolizumab đã được thử nghiệm qua nhiều nghiên cứu pha III như Keynote-010, Keynote-024, Keynote-189, Keynote-407, Keynote-048, Keynote- 054và tỏ ra hiệu quả và an toàn; tác dụng phụ qua các nghiên cứu lớn có thể kiểm soát được và tỉ lệ tác dụng phụ nặng thấp chấp nhận được[10][11][12][14]. Nhìn chung hóa trị gây tác dụng phụ đối với mọi bệnh nhân, đã được mô tả rõ ràng ở nhiều nghiên cứu, ảnh hưởng lên những cơ quan nhất định và là những tác dụng phụ tiên đoán được về mức độ và thời gian xảy ra. Ngược lại, với những hồ sơ đang có người ta thấy tác dụng phụ của thuốc điều hòa miễn dịch xảy ra trên số lượng ít bệnh nhân, có thể TÓM TẮT Đặt vấn đề: Điều trị bước 1 ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa không phẫu thuật được không đột biến chủ đạo chủ yếu dựa vào hóa trị bộ đôi với platinum, thêm pembrolizumab vào hóa trị tạo nên tỉ lệ đáp ứng cao hơn và sống còn bệnh không tiến triển dài hơn có ý nghĩa so với hóa trị đơn độc(nghiên cứu pha 3 ngẫu nhiên mù đôi Keynote 189). Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu đánh giá mức độ an toàn của thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch pembrolizumab. Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ bệnh nhân điều trị với pembrolizumab tại khoa Ung Bướu bệnh viện Thống Nhất năm 2019-2020. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả hàng loạt ca. Kết quả: Trong 2 năm 2019 và 2020 chúng tôi hồi cứu 19 ca có sử dụng pembrolizumab điều trị, trong nhóm sử dụng pembrolizumab đơn chất có 1/19 ca (5,3%), giảm tiểu cầu và 1/19 ca (5,3%) tăng men gan độ 2 ổn định ở những chu kì sau; nhóm pembrolizumab phối hợp hóa trị ghi nhận ngứa 1/19 ca (5,3%) ổn định với thuốc hỗ trợ, giảm bạch cầu 1/19 ca (5,3%), giảm tiểu cầu 1/19 ca (5,3%), tăng men gan 1/19 ca (5,3%) độ 2 ổn định ở những chu kì sau, 1/19 ca (5,3%) tăng men gan độ 4 phải ngưng pembrolizumab; trong cả 2 nhóm trung bình thiếu máu là như nhau với thiếu máu độ 2 cao nhất và kiểm soát được, không ca nào tử vong do tác dụng phụ. Kết luận: Sử dụng pembrolizumab điều trị ung thư an toàn cho cả 2 nhóm. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 157 ảnh hưởng lên mọi cơ quan và nhất là không thể tiên đoán được, các hồ sơ ghi nhận còn thay đổi chưa nhất quán[10][14][16]. Tóm tắt về hồ sơ an toàn của phác đồ Pembrolizumab + hóa trị trong điều trị bước 1 so với hóa trị Platinum + Pemetrexed ở bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn tiến xa hay Pembrolizumab đơn trị (các NC Keynote 189;010;024)[10]12][14][16]: - Biến cố bất lợi xảy ra có thể quản lý và kiểm soát được và tương tự hồ sơ an toàn khi dùng Pembrolizumab đơn trị. - Tỉ lệ biến cố bất lợi liên quan điều trị nói chung và mức độ 3 trở lên tương đương ở 2 phác đồ. - Biến cố bất lợi liên quan điều trị phối hợp Pembrolizumab + hóa trị thường gặp nhất từ mức độ 3 trở lên: thiếu máu (16,3%), giảm bạch cầu trung tính (15,8%), giảm tiểu cầu (15,8%). - Tổn thương thận cấp 5,2% ở nhóm kết hợp và 0,5% ở nhóm hóa trị; độ 3 - 5 lần lượt 2,0 và 0% xảy ra hầu hết ở những trường hợp có nhiều bệnh lý kèm theo. - Viêm phổi kẽ tần suất khoảng 1,7% ở nhóm kết hợp và không xuất hiện ở nhóm hóa trị đơn độc; độ 3-5 khoảng 1,5%. Bảng 1. Thời điểm và thời gian xảy ra tác dụng phụ (NC Keynote 002) n(%) Thời gian khởi phát trung bình Thời lượng trung bình Viêm phổi mô kẽ 26 (2,6%) 4,3 tháng (2 ngày - 19,3 tháng) 2,8 tháng (2 ngày - 15,1 tháng) Viêm đại tràng 16 (1,6%) 4,2 tháng (10 ngày - 9,7 tháng) 1,4 tháng (4 ngày - 7,2 tháng) Viêm gan 8 (0,8%) 22 ngày (8 ngày - 21,4 tháng) 1,3 tháng (1 tuần - 2,2 tháng) Viêm cầu thận 4 (0,4%) 6,8 tháng (12 ngày - 12,8 tháng) 1,1 tháng (2,1 tuần - 3,3 tháng) Tổn thương tuyến yên 10 (1,0%) 1,5 tháng (1 ngày - 6,5 tháng) 3,4 tháng (0,8 - 12,7 tháng) Cường giáp 24 (2,4%) 1,4 tháng (1 ngày - 21,9 tháng) 1,8 tháng (1,4 tuần - 12,8 tháng) Suy giáp 75 (7,4%) 3,5 tháng (5 ngày - 18,9 tháng) 7,9 tháng( 6 ngày - 24,3 tháng) Theo nghiên cứu Keynote 024[16] trên 154 bệnh nhân điều trị pembrolizumab đơn chất và 151 bệnh nhân điều trị với hóa chất trung bình thời gian theo dõi 25,2 tháng trung vị sống còn toàn bộ 30 tháng cho nhánh điều trị với pembrolizumab và 14,2 tháng cho nhánh điều trị với hóa chất; biến cố bất lợi độ 3 - 5 ở nhóm pembrolizumab thấp hơn nhóm hóa trị (31,2% so với 53,3%). Tại Việt Nam điều trị với ức chế điểm kiểm soát miễn dịch đã được chấp thuận vài năm gần đây, tuy nhiên số lượng BN chưa nhiều và cũng chưa có tổng kết; chúng tôi làm đề tài này với mong muốn bước đầu đánh giá mức độ an toàn của thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch pembrolizumab. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Bước đầu đánh giá an toàn của thuốc giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quát hơn, tiến tới sẽ đánh giá hiệu quả điều trị. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Tất cả những bệnh nhân điều trị với pembrolizumab tại khoa Ung Bướu bệnh viện Thống Nhất trong 2 năm 2019 và 2020. Chúng tôi hồi cứu 19 BN được điều trị với pembrolizumab, sử dụng phần mềm SPSS 20.0 thống kê. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm chung Chúng tôi hồi cứu trong 2 năm 2019 và 2020 có 19 BN với đa phần là ung thư phổi được sử dụng tối thiểu 1 chu kì Pembrolizumab; tuổi trung bình 71 tuổi, nhỏ nhất 41 tuổi lớn nhất 89 tuổi, độ lệch chuẩn 13,044 chủ yếu xung quanh độ tuổi 60, với tỉ lệ nam chiếm ưu thế 73,68%. Đặc điểm lâm sàng Loại ung thư: Trong nghiên cứu này đa phần là bệnh ung thư phổi chiếm 73,68% còn lại là các ung thư khác như dạ dày, đầu cổ, gan, melanom. Số chu kì: Bệnh nhân được điều trị ít nhất 1 ck pembrolizumab và nhiều nhất 11ck, trung vị 4,32 chu kì; độ lệch chuẩn 2,626. Thiếu máu Thiếu máu: Không thiếu máu 5,3%; thiếu máu độ 1 và 2 bằng nhau 47,37%. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 158 Mức độ thiếu máu theo phân nhóm pembrolizumab đơn chất và phối hợp hóa trị Bảng 1. Trung bình thiếu máu 2 nhóm Group Statistics phối hợp hóa trị N Mean Std. Deviation Std. Error Mean do thiếu máu có 12 1.42 .669 .193 không 7 1.43 .535 .202 Bảng 2. Kiểm định t - test mức độ thiếu máu 2 nhóm Independent Samples Test Levene's Test for Equality of Variances t - test for Equality of Means F Sig. t df Sig. (2 - tailed) Mean Difference Std. Error Difference 95% Confidence Interval of the Difference Lower Upper dothieumau Equal variances assumed .757 .396 -.040 17 .968 -.012 .297 -.639 .615 Equal variances not assumed -.043 15.092 .967 -.012 .279 -.607 .583 Nhóm có phối hợp hóa trị 12 bệnh nhân, độ thiếu máu trung bình 1,42 với độ lệch chuẩn 0,669; bảy bệnh nhân không phối hợp hóa trị độ thiếu máu trung bình 1,43 với độ lệch chuẩn 0,535; kiểm định Lavene’s test có F = 1,231 sign = 0,396 phương sai hai nhóm như nhau; t = -0,044, df = 17, sign = 0,968. Kiểm định t-test trung bình thiếu máu ở hai nhóm phối hợp và không phối hợp với hóa trị không khác nhau. Các tác dụng phụ khác Giảm bạch cầu chỉ có 1/19 (5,2%) trường hợp độ 1; giảm tiều cầu 2/19 (10,5%) trường hợp trong đó một ca độ 1, một ca độ 4 chẩn đoán K gan tiến triển mà trước điều trị đã có giảm tiểu cầu độ 3. Trong nghiên cứu này có 3/19 (15,8%) ca tăng men gan trong đó hai ca độ 2 khi phối hợp hóa trị, chu kì sau giảm liều hóa trị không thấy tăng men gan lại; một ca tăng men gan độ 4 do điều trị pembrolizumab. Ngứa có 1 trường hợp ở mức độ vừa phải. Bảng 3. Các tác dụng phụ khác Loại tác dụng phụ Tần suất - Mức độ Ghi chú Pem đơn chất Giảm tiểu cầu 1 ca độ bốn Bước 2 trở đi Tăng men gan 1 ca độ hai Bước 1 Pem + hóa trị Giảm bạch cầu 1 ca độ một Bước 2 trở đi Giảm tiểu cầu 1 ca độ một Bước 2 trở đi Tăng men gan 1 ca độ hai Bước 1 1 ca độ bốn Bước 1 Ngứa 1 ca trung bình Bước 1 Các tác dụng phụ khác như buồn nôn, nôn, suy giáp, nhược giáp, viêm phổi mô kẽ không gặp. BÀN LUẬN Qua hồi cứu trên hồ sơ chúng tôi có 19 ca điều trị với Keytruda (pembrolizumab) chủ yếu là ung thư phổi chiếm 73,68% điều trị ít nhất 1 chu kì (3 ca) và nhiều nhất là 11 chu kì (1 ca), với 7 trường hợp điều trị đơn chất Keytruda và 12 trường hợp phối hợp với hóa trị; có 12/19 ca điều trị trên 3ck (3 tháng) chiếm tỉ lệ 63%, và những ca này cho đáp ứng lâu dài phù hợp với những nghiên cứu trước thường pembrolizumab cho đáp ứng chậm sau 3 tháng. Đa số Bn lớn tuổi với độ tuổi trung bình 71 tuổi, tuổi trung bình trong nghiên cứu chúng tôi lớn hơn các nghiên cứu khác trong ung thư phổi (60 - 65t) và có bệnh lý nội khoa đi kèm, với tỉ lệ nam chiếm ưu thế 15/19 trường hợp với chỉ số hoạt động cơ thể 1 - 2 đến 3. Tỉ lệ ung thư phổi có 14 ca chiếm tỉ lệ 73,68% trong lô nghiên cứu này với số chu kì điều trị trung bình là 4, hầu hết điều trị ở bước sau khi thể trạng bệnh nhân yếu và đã có tác dụng phụ của phác đồ phía trước. Nhóm Keytruda đơn chất chúng tôi không ghi nhận bệnh nhân than mệt, tiêu chảy hay nôn ói, Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 159 huyết áp bệnh nhân ổn định, không ghi nhận nổi mẩn, triệu chứng hô hấp cũng như cường hay suy giáp; tổng phân tích nước tiểu trong giới hạn bình thường. Thiếu máu 1 ca từ độ 0 lên độ 2 là Bn trên 80 tuổi di căn nhiều vị trí nên mức độ thiếu máu này do nhiều nguyên nhân và một ca từ độ 0 lên độ 1 Bn K gan đã điều trị nhiều bước, đã có dấu hiệu giảm ba dòng tế bào máu. Giảm tiểu cầu một ca độ 4 cũng là ca K gan, Bn giảm tiểu cầu trước điều trị độ 3, nên nghĩ do diễn tiến của bệnh không nghĩ do điều trị; tăng men gan độ hai 1 trường hợp và ổn định ở những chu kì sau. Vì vậy nhìn chung tác dụng phụ trên hệ huyết học chấp nhận được. Nhóm phối hợp hóa trị cũng tương tự chỉ nghi nhận tác dụng phụ trên hệ huyết học: một trường hợp giảm tiểu cầu và một giảm bạch cầu độ 1 kiểm soát tốt, những chu kì sau không thấy giảm; và có tăng men gan độ hai 1 trường hợp và ổn định những chu kì sau đó; cá biệt có 1 Bn tăng men gan độ 4 (AST/ALT = 1024/916) gấp 20 lần, nhưng chỉ tăng bilirubin nhẹ, đáp ứng với thuốc hạ men gan tốt, Bn này có men gan tăng gấp 3 lần bình thường trước điều trị, bệnh tiểu đường kèm theo nhưng ổn định, ngứa có tăng mức độ và đáp ứng tốt với steroids và kháng histamin; bệnh nhân này sau đó ngưng pembrolizumab và tiếp tục hoàn thành đủ liệu trình hóa trị dung nạp tốt. Thiếu máu cao nhất là độ 2 và kiểm soát được, như chúng ta đã biết ung thư giai đoạn IV và lại trên thể trạng lớn tuổi( tuổi trung bình nghiên cứu chúng tôi là 71) thì mức độ thiếu máu rất khó xác định do bệnh hay do hóa trị vì bệnh nhân thường trước đó ăn uống kém; hơn nữa khi so sánh giữa hai nhóm hóa trị và hóa trị phối hợp pembrolizumab thì mức độ thiếu máu không khác biệt; mức độ này gần giống với phác đồ hóa trị chuẩn[1][2][6][8][9]. Mức độ thiếu máu đã hiệu chỉnh (so với mức độ thiếu máu trước điều trị): như chúng ta cũng biết bệnh nhân ung thư giai đoạn 4 thường đã đi vào suy mòn, nên trước khi điều trị thường đã có thiếu máu, ăn uống kém, đặc biệt là điều trị ở bước sau, mà có tới 11/19 bệnh nhân (57,9%) điều trị ở bước sau trong nghiên cứu này; sau khi hiệu chỉnh với tình trạng thiếu máu trước điều trị chúng tôi thấy tình trạng thiếu máu độ 2 giảm từ 47,37% xuống 15,79%; thiếu máu độ 1 giảm từ 47,37% xuống còn 26,32%; không thiếu máu 52,63%; cải thiện tình trạng thiếu máu từ độ 2 thành không thiếu máu là 5,26%; điều này chứng tỏ điều trị đã có hiệu quả giảm nhẹ triệu chứng cho bệnh nhân. KẾT LUẬN Qua hồi cứu 19 trường hợp tại khoa Ung Bướu bệnh viện Thống Nhất chúng tôi thấy các tác dụng phụ khi điều trị với Keytruda có thể kiểm soát tốt với tỉ lệ bằng hoặc thấp hơn so với các nghiên cứu trước, không trường hợp nào tử vong. Tuy số lượng mẫu còn hạn chế nhưng đây là tiền đề cho nghiên cứu tiếp theo với số lượng lớn hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Thị Hà (2017). "Đánh giá kết quả điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IV bằng phác đồ Paclitaxel - Cisplatin tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa". Luận văn thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội. 2. Nguyễn Việt Hà, Đặng Văn Khoa & Lã Duy Tuyền (2013). "Đánh giá kết quả phác đồ Docetaxel - Gemcitabine trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIB - IV". Tạp chí Ung thư học Việt Nam, 4, tr 189-195. 3. Đặng Thanh Hồng & Vũ Văn Vũ (2000). "Ghi nhận bước đầu điều trị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa với Gemzar- Carboplatin". Tạp chí thông tin Y Dược, 8, tr 146 - 149. 4. Nguyễn Tuấn Khôi (2007). "Điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa tại chỗ". Luận án bác sĩ chuyên khoa II Ung thư học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 5. Nguyễn Việt Quang, Huỳnh Quyết Thắng, Tăng Kim Sơn & Huỳnh Thảo Luật (2015). "Đánh giá hiệu quả hóa trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB - IV bằng phác đồ Paclitaxel- Carboplatin tại Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ". Tạp chí Ung thư học Việt Nam, 4, tr 141 - 147. 6. Trần Đình Thanh (2011). "Chẩn đoán và điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa ở người trên sáu mươi tuổi". Luận án chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 7. Trần Đình Thanh, Nguyễn Thiện Nhân & Võ Trần Ái Trân (2013). "Đánh giá kết quả phác đồ Gemcitabine - Carboplatin trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa". Tạp chí Ung thư học Việt Nam, 1, tr 216 - 223. 8. Trương Vương Vũ (2018). "Kết quả hóa trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa tại bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa". Luận án chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 9. Vũ Văn Vũ, Đặng Thanh Hồng, Nguyễn Thị Minh Khang, Trần Quang Thuận, Nguyễn Mạnh Quốc, Trần Thị Ngọc Mai (2004). "Hóa liệu pháp ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa tại Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 160 Bệnh viện Ung bướu TPHCM 2001-2002". Y Học TP.Hồ Chí Minh, 8 (Phụ bản số 2), tr 154 - 169. 10. Attia. J Clin Oncol. 2005; 23: 6043; Downey. Clin Cancer Res. 2007; 13: 6681; Lutzky. ASCO. 2009 (abstr 9034); van Elsas. J Exp Med. 1999; 190: 355; Weber. J Clin Oncol. 2008; 26: 5950. 11. Gadgeel MC et al., ASCO 2019, Abstract#9013, https://bit.ly/2VD3Js8, accessed in July 2019. 12. Gandhi L et al. N Engl J Med 2018; 378: 2078 - 2092; 2. Garassino MC et al. Presented at the 2019 American Association for Cancer Research (AACR) Annual Meeting, 29 March - 18 April, 2019, Atlanta, USA; 3. Gadgeel S et al. Presented at the 2019 American Society of Clinical Oncology (ASCO) Annual Meeting, 31 May - 4 June, 2019, Chicago, USA. 13. journal/identification-and management-toxicities- immune-checkpoint-blocking-drugs. Oncology. 2014; 28(suppl 3):1 - 12. Accessed 19 May 2015. 14. National Cancer Institute. Common Terminology Criteria for Adverse Events (CTCAE); v4.0. Bethesda, MD: National Cancer Institute 2009. NIH publication 09 - 5410. Updated version CTCAE v4.03 published 14 June 2010. 15. Reck M, Rodr´ıguez-Abreu D, Robinson AG, et al: Pembrolizumab versus chemotherapy for PD- L1-positive non - small-cell lung cancer. N Engl J Med 375:1823 - 1833, 2016 16. Ribas A. N Engl J Med. 2012; 366: 2517-2519. Pillai RN, et al. Cancer. 2018; 124: 271 - 277. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 161 ABSTRACT Evaluating pembrolizumab’s safety in cancer treatment Background: The primary treatment for non mutation driver, nonsurgical NSCLC bases on double chemotherapy with platinum, adding pembrolizumab to chemotherapy resulting in a higher response rate and survival (Keynote 189). Objectives: Initial assessment of safety of pembrolizumab immunosuppressant. Methods: Retrospective descriptive case series in 2019 - 2020. Results: In 2019 and 2020, retrospectively 19 cases using pembrolizumab, in the single pembrolizumab group has had 1/19 case (5.3%) thrombocytopenia and 1/19 case (5,3%) increasing in grade 2 liver enzymes; pembrolizumab plus chemotherapy group has noted the itching 1/19 case (5.3%) responds to antihistamin medicines, leukopenia 1/19 case (5.3%), thrombocytopenia 1/19 case (5.3%), increase in liver enzymes 1/19 case (5.3%) level 2, 1/19 case (5.3%) increase level 4 liver enzymes has musted stop pembrolizumab; in both the moderate anemia groups with the highest and controlled grade 2 anemia, no case died from side effects. Conclusion: Using pembrolizumab to treat cancer has was safe for both groups. Keywords: Pembrolizumab, safety.
File đính kèm:
- danh_gia_an_toan_cua_thuoc_dieu_hoa_mien_dich_pembrolizumab.pdf