Đặc điểm tướng đá - Cổ địa lý Miocen muộn khu vực Đông Nam miền võng Hà Nội
Đặc điểm tướng đá - cổ địa lý Miocen muộn khu vực Đông Nam Miền võng Hà Nội được
làm sáng tỏ trên cơ sở nghiên cứu tiến hóa trầm tích trong mối quan hệ với sự thay đổi mực nước
biển và chuyển động kiến tạo. Sự thay đổi mực nước biển toàn cầu trong Miocen muộn đã tạo ra
một phức tập và ba miền hệ thống trầm tích. Miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST) đặc trưng bởi
năm nhịp trầm tích aluvi. Các nhịp này được thể hiện bởi trường sóng địa chấn thô, hỗn độn, tần số
phản xạ thấp. Môi trường này không thuận lợi cho quá trình tạo than. Miền hệ thống trầm tích biển
tiến (TST) đặc trưng bởi sáu nhịp trầm tích chuyển tiếp với bốn tướng cơ bản: tướng cát bãi triều
vũng vịnh, tướng bùn đầm lầy vũng vịnh, tướng bùn đầm lầy tạo than và tướng sét xám xanh vũng
vịnh. Quá trình tạo nhịp liên quan đến sự thay đổi mực nước biển địa phương do chuyển động nâng
- hạ kiến tạo gây ra. Mỗi pha sụt lún kiến tạo diễn ra với tốc độ rất chậm nên được đền bù trầm tích
hạt mịn tạo tướng bùn đầm lầy phát triển rừng ngập mặn với quy mô lớn. Đó là điều kiện tiên quyết
tạo nên những vỉa than dày phân bố ở vị trí gần cuối mỗi nhịp. Một phần trầm tích miền hệ thống
biển cao (HST) bị bào mòn cắt cụt do quá trình uốn nếp nâng cao tạo nên ranh giới bất chỉnh hợp
góc với trầm tích Pliocen-Đệ Tứ. Tuy nhiên, sau khi khôi phục thấy rõ miền hệ thống trầm tích này
chỉ có một nhịp cơ bản gồm hai tướng: tướng bùn sườn châu thổ và tướng cát nón quạt cửa sông
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm tướng đá - Cổ địa lý Miocen muộn khu vực Đông Nam miền võng Hà Nội
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 69-80 69 Original Article Characteristics of late Miocene Lithofacies - Paleogeography in the Southeast Region of Hanoi Depression Nguyen Thi Phuong Thao*, Tran Nghi, Dinh Xuan Thanh VNU University of Science, Vietnam National University, Hanoi, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Ha Noi, Viet Nam Received 12 May 2020 Revised 24 September 2020; Accepted 28 September 2020 Abstract: The characteristics of late Miocene lithofacies in the southeast region of Hanoi depression have been revealed on the basis of sedimentary evolution in relation to sea level change and tectonic movement. During late Miocene, global sea level change had created one depositional sequence and three sedimentary systems tract. The lowstand systems tract (LST) is characterized by 5 rhythms of alluvial lithofacies. These rhythms were represented by rough and humoc seismic wave fields. This environment was not favorable condition for coal formation. The transgressive systems tract (TST) was characterized by 6 transitional lithofacies rhythms. Each lithofacies rhythm consisted of 4 facies: the tidal flats sand facies of the bay, the mud facies of the river mouth lagoon, the coastal marshy mud facies creating coal and the bay greenish-gray clay facies. The pacing process involved changes in the local sea level caused by tectonic lift. Each tectonic subsidence phase took place at a very slow velocity, so it was compensated for fine-grained sediment creating marshy mud facies to develop mangroves on a large scale. It was a prerequisite to create thick coal seams distributed near the end of each rhythm. A part of highstand systems tract (HST) were eroded due to the improved folding process, creating an angular unconformity boundary with Pliocene-Quaternary sediments. However, after reconstracting of deformated section, it was clear that this system tract had only one rhythm including 2 facies: prodelta mud facies and alluvial fan sandstone facies. Keywords: Lithofacies-paleogeography, sedimentary systems tract, sedimentary rhythm.* ________ * Corresponding author. E-mail address: phuongthao289@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4633 N.T.P. Thao et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 69-80 70 Đặc điểm tướng đá - cổ địa lý Miocen muộn khu vực Đông Nam miền võng Hà Nội Nguyễn Thị Phương Thảo*, Trần Nghi, Đinh Xuân Thành Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 12 tháng 5 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 24 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 9 năm 2020 Tóm tắt: Đặc điểm tướng đá - cổ địa lý Miocen muộn khu vực Đông Nam Miền võng Hà Nội được làm sáng tỏ trên cơ sở nghiên cứu tiến hóa trầm tích trong mối quan hệ với sự thay đổi mực nước biển và chuyển động kiến tạo. Sự thay đổi mực nước biển toàn cầu trong Miocen muộn đã tạo ra một phức tập và ba miền hệ thống trầm tích. Miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST) đặc trưng bởi năm nhịp trầm tích aluvi. Các nhịp này được thể hiện bởi trường sóng địa chấn thô, hỗn độn, tần số phản xạ thấp. Môi trường này không thuận lợi cho quá trình tạo than. Miền hệ thống trầm tích biển tiến (TST) đặc trưng bởi sáu nhịp trầm tích chuyển tiếp với bốn tướng cơ bản: tướng cát bãi triều vũng vịnh, tướng bùn đầm lầy vũng vịnh, tướng bùn đầm lầy tạo than và tướng sét xám xanh vũng vịnh. Quá trình tạo nhịp liên quan đến sự thay đổi mực nước biển địa phương do chuyển động nâng - hạ kiến tạo gây ra. Mỗi pha sụt lún kiến tạo diễn ra với tốc độ rất chậm nên được đền bù trầm tích hạt mịn tạo tướng bùn đầm lầy phát triển rừng ngập mặn với quy mô lớn. Đó là điều kiện tiên quyết tạo nên những vỉa than dày phân bố ở vị trí gần cuối mỗi nhịp. Một phần trầm tích miền hệ thống biển cao (HST) bị bào mòn cắt cụt do quá trình uốn nếp nâng cao tạo nên ranh giới bất chỉnh hợp góc với trầm tích Pliocen-Đệ Tứ. Tuy nhiên, sau khi khôi phục thấy rõ miền hệ thống trầm tích này chỉ có một nhịp cơ bản gồm hai tướng: tướng bùn sườn châu thổ và tướng cát nón quạt cửa sông. Từ khóa: Tướng đá-cổ địa lý, miền hệ thống trầm tích, nhịp trầm tích. 1. Mở đầu* Miền võng Hà Nội là một bộ phận của bể Sông Hồng nằm trên phần đất liền có cùng các giai đoạn phát triển địa chất trong giai đoạn Cenozoi như ở phần ngập nước. Trong đó khu vực nghiên cứu nằm phía Đông Nam của Miền võng Hà Nội, nơi có triển vọng lớn về than nâu và các mỏ khí (Hình 1). Đối với bể Sông Hồng nói chung và khu vực Đông Nam Miền võng Hà Nội nói riêng đã có ________ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: phuongthao289@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4633 nhiều công trình nghiên cứu theo nhiều lĩnh vực khác nhau: i) Các vấn đề về kiến tạo địa động lực được nhiều tác giả quan tâm nhất bởi lẽ lịch sử hình thành và phát triển địa chất trầm tích bể Sông Hồng gắn liền với đới đứt gãy Sông Hồng. Năm 2004 tuyển tập “Đới đứt gãy Sông Hồng” xuất bản với hàng loạt công trình công bố về cơ chế kiến tạo địa động lực của đới đứt gãy Sông Hồng [1]. Các công trình đều chứng minh đứt gãy Sông Hồng đổi chiều chuyển động từ trượt bằng trái (trước 5,5 triệu năm) chuyển sang trượt bằng phải (sau 5,5 triệu năm). N.T.P. Thao et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 69-80 71 ii) Về trầm tích luận, theo Trần Nghi (2018) [2], trầm tích Cenozoi bể Sông Hồng có 6 phức tập tương ứng với 6 hệ tầng do các nhà cổ sinh-địa tầng thiết lập (Phạm Quang Trung, Nguyễn Địch Dỹ, Đỗ Bạt và nnk,1998) [3]: (1) Phức tập Eocen- Oligocen dưới - Hệ tầng Phù Tiên (E2-E31); (2) Phức tập Oligocen trên - Hệ tầng Đình Cao (E32); (3) Phức tập Miocen dưới - Hệ tầng Phong Châu (N11); (4) Phức tập Miocen giữa - Hệ tầng Phù Cừ (N12); (5) Phức tập Miocen trên - Hệ tầng Ti ... ,mt)TST = 6/3(amt,mt) + 7/3(amt,mt) + 8/3(amt,m) + 9/3(amt,mt) + 10/3(amt,mt) + 11/3(amt,m) Mỗi nhịp tiến hóa theo xu thế biển dâng do ảnh hưởng của một pha kiến tạo sụt lún yếu, bắt đầu là tướng cát bãi triều và kết thúc là tướng sét vũng vịnh (Hình 5, Bảng 1). i) Tướng cát bãi triều Trên mẫu lõi thấy rõ cấu tạo phân lớp xiên chéo mịn xen kẽ với phân lớp xiên chéo thô do động lực thủy triều tác động (hình 7). Dưới lát mỏng thạch học, cát thuộc nhóm ít khoáng thạch anh-litic, độ mài tròn và chọn lọc trung bình (Sotb=1,8; Rotb = 0,6); hàm lượng thạch anh trung bình chiếm khoảng 45% (Qtb =45%). Thành phần xi măng luôn chứa một hàm lượng siderit và calcit tại sinh đặc trưng cho môi trường trầm tích có chế độ kiềm yếu và trung tính, động lực sóng yếu (Hình 6, 8; Bảng 1). Hình 4. Các nhịp trầm tích miền hệ thống trầm tích biển thấp thể hiện trên mặt cắt địa chấn 2-2’. Hình 5. Các nhịp trầm tích miền hệ thống biển tiến thể hiện trên mặt cắt địa chấn 2-2’. N.T.P. Thao et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 69-80 76 Hình 6. Cát kết thạch anh-litic hạt nhỏ, xi măng calcit, siderit tại sinh. Chọn lọc và mài tròn trung bình (So=1,8, Rotb=0,6). N+, x40. (Lm5-LK SH1, độ sâu 649,8m). Hình 7. Trầm tích bãi triều hỗn hợp biển dâng: phần dưới cát kết hạt trung cấu tạo phân lớp xiên chéo thô; phần trên bột kết pha cát cấu tạo phân lớp xiên ché mịn. Thành phần độ hạt dưới thô trên mịn. (Mẫu lõi LK SH1). Hình 8. Cát kết thạch anh litic hạt nhỏ, xi măng gồm calcit tại sinh vi hạt giao thoa dị thường và siderit vi hạt tại sinh màu nâu đỏ dạng đám rải rác. Độ chọn lọc và mài tròn trung bình (So=1,9, Ro= 0,6). N+, x40. (Lm2-LK SH3, độ sâu 562,1m). ii) Tướng bùn bãi triều vịnh cửa sông Tướng bùn bãi triều vịnh cửa sông được thành tạo theo ba giai đoạn: (1) giai đoạn 1 lắng đọng bùn giàu vật chất hữu cơ mà đen; (2) giai đoạn 2 lắng đọng sét màu nâu phủ một lớp mỏng trên bùn đen; (3) giai đoạn này dòng triều và sóng mạnh làm xáo trộn 2 lớp trầm tích có màu sắc khác nhau, tái di chuyển và tái lắng đọng tạo thành một lớp trầm tích mới có cấu tạo kiểu “turbidit” (Hình 9). Hình 9. Bùn kết màu xám đen loang lổ, cấu tạo phân lớp xiên chéo thô kiểu “turbidit” do dòng triều và sóng mạnh làm xáo trộn giữa thành phần sét nâu và bùn đen. (Mẫu lõi LK SH2 (855,7m-856,5m)). iii) Tướng bùn đầm lầy tạo than Tướng bùn đầm lầy tạo than phân bố cộng sinh với tướng bùn cát lagun cửa sông và tướng bùn bãi triều hỗn hợp. Đặc trưng của tướng bùn đầm lầy tạo than là trầm tích màu đen, mùi bùn thối chứa nhiều mùn bã vật chất hữu cơ; chỉ số Eh luôn luôn âm (Eh << 0) và pH bị giảm từ 7,5 xuống 4. Khi hàm lượng vật chất hữu cơ chiếm chủ yếu, hàm lượng sét không đáng kể đánh dấu một giai đoạn phát triển rừng ngập mặn với quy mô lớn (hình 10, 11). Nếu vỉa than dày chứng tỏ chế độ kiến tạo tương đối bình ổn, tốc độ đền bù trầm tích cân bằng với tốc độ sụt lún, môi trường đầm lầy phát triển rừng ngập mặn thống trị trong một thời gian rất dài. iv) Tướng sét vũng vịnh N.T.P. Thao et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 69-80 77 Tướng sét vũng vịnh còn gọi là tướng sét đồng bằng ngập lụt biển là dấu hiệu kết thúc của một nhịp biển dâng hoặc kết thúc miền hệ thống trầm tích biển tiến (TST). Tướng trầm tích này được đặc trưng bởi hàm lượng bùn sét cao, môi trường có chế độ kiềm mạnh (pHtb=7,8). Trên mẫu lõi thấy rõ cấu tạo phân lớp ngang song song, màu xám xanh đồng nhất chứng tỏ môi trường vũng vịnh yên tĩnh (Hình 12, 13, Bảng 1). Hình 10. Bùn kết màu loang lổ đen-trắng-hồng, cấu tạo phân lớp xiên chéo do thủy triều điều tiết. Màu đen là sét than, màu trắng là bùn kết sạch, màu hồng là do bị phong hóa thấm đọng về sau. (Mẫu lõi LK SH3 (998,1m-998,9m)). Hình 11. Sét kết giàu sericit, siderit tại sinh và pyrit dạng hạt nhỏ màu đen và chứa các dải than. N+, x40. (Lm5-LK SH3, độ sâu 891,4m). Hình 12. Sét kết chứa phong phú siderit tại sinh vi hạt màu nâu đỏ. N+, x40. (Lm6-LK SH1, độ sâu 861,4m). Hình 13. Trầm tích lớp dưới là sét kết cấu tạo phân lớp ngang song song tướng sét vũng vịnh biển dâng, lớp trên là cát kết pha bột cấu tạo phân lớp xiên chéo thô bãi triều biển hạ. (Mẫu lõi LK SH1 (750,5m-752,5m)). 4.1.3. Đặc điểm tướng đá-cổ địa lý giai đoạn biển cao Miền hệ thống trầm tích biển cao gồm một nhịp trầm tích châu thổ với 2 tướng đặc trưng (từ dưới lên): tướng bùn sườn châu thổ (prodelta) và tướng cát nón quạt cửa sông. Một phần miền hệ thống trầm tích biển cao bị biến dạng nâng trồi và bị bào mòn cắt cụt, đôi nơi nhịp 12 bị cắt cụt hoàn toàn (Hình 4, 5). Vì vậy, miền hệ thống này bị bào mòn mất đi một khối lượng các trầm tích được thành tạo trong giai đoạn đầu quá trình biển thoái. Các trường sóng của miền hệ thống trầm tích biển cao đặc trưng là thô đứt đoạn, tần số phản xạ thấp, cấu tạo nêm tăng trưởng xen kẽ với trường sóng mịn nằm ngang song song, tần số phản xạ trung bình, đặc trưng cho châu thổ ngầm (Hình 14). N.T.P. Thao et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 69-80 78 Hình 14. Miền hệ thống trầm tích biển cao thể hiện qua mặt cắt địa chấn 1-1’ và các lát mỏng LK SH1, SH2. Bảng 1. Tổng hợp các tướng trầm tích theo ba miền hệ thống của trầm tích Miocen trên khu vực Đông Nam Miền võng Hà Nội Tuổi địa chất Các miền hệ thống Nhịp trầm tích Tướng trầm tích Trường sóng địa chấn Khoáng vật tạo đá & KV tại sinh pH, Eh, Kt (trung bình) So và Ro (trung bình) Hệ tầng Tiên Hưng - Miocen trên (N13th) HST amh12 Tướng cát nón quạt cửa sông Thô, hỗn độn - Qm,Qp, plagiocla, felspat, mảnh đá -Siderit, calcit - So=2,2 Ro=0,4 Tướng bùn sườn châu thổ Nêm tăng trưởng Siderit, calcit pH=8,0 Eh= 30 Kt=2,3 So=2,5 TST am11 amt10 amt9 amt8 amt7 amt6 Tướng sét vũng vịnh Mịn, nằm ngang song song Siderit, calcit pH=8,2 Eh=50 Kt=2,4 So=1,9 Tướng bùn đầm lầy tạo than Mịn, định hướng ngang Siderit, calcit, than nâu, pyrit pH= 5 Eh<<0 Kt=1,5 So=2,3 Tướng bùn bãi triều vịnh cửa sông Mịn, xiên chéo Calcit, siderit, pyrit pH= 7,8 Eh=50 Kt=1,5 So =2,5 Ro =0,4 Tướng cát bãi triều Xiên chéo thô -Qm, Qp, plagiocls, felspat, mảnh đá calchedon, quarzit - So= 2,3 Ro=0,5 LST ar5 ar4 ar3 ar2 ar1 Tướng bột sét bãi bồi Mịn, nằm ngang - - - Tướng cát sạn lòng sông Thô, hỗn độn - - - N.T.P. Thao et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 71-80 79 4.2. Tiến hóa trầm tích trong mối quan hệ với sự thay đổi mực nước biển và chuyển động kiến tạo trong giai đoạn Miocen muộn 4.2.2. Khái quát Trong giai đoạn Miocen muộn, môi trường trầm tích khu vực Đông Nam Miền võng Hà Nội liên tục thay đổi do sự thay đổi mực nước biển và chuyển động kiến tạo. Mực nước biển toàn cầu thay đổi theo ba pha: pha biển thấp tạo nên phức hệ tướng aluvi đặc trưng cho môi trường lục địa, pha biển tiến tạo ra phức hệ tướng chuyển tiếp ven biển - vũng vịnh và pha biển cao tạo nên phức hệ tướng châu thổ (Hình 15). Tuy nhiên, chuyển động kiến tạo địa phương đã tạo ra những quy luật riêng và làm phức tạp hóa xu thế chung của ba miền hệ thống biển thấp (LST), miền hệ thống biển tiến (TST) và miền hệ thống biển cao (HST). Chuyển động dao động của kiến tạo địa phương đã tạo ra sự dao động mực nước biển địa phương. Đồng thời cả hai nguyên nhân này đã tạo ra 12 nhịp trầm tích trong cả ba miền hệ thống. Hình 15. Mối quan hệ giữa tướng trầm tích, sự thay đổi mực nước biển và chuyển động kiến tạo trầm tích Miocen trên khu vực Đông Nam Miền võng Hà Nội. 4.2.3. Mô hình tiến hóa trầm tích Quy luật tương quan giữa chuyển động kiến tạo với sự thay đổi mực nước biển và tướng trầm tích được biểu diễn trên hình 15. Đường cong thay đổi mực nước biển và đường cong biểu diễn hướng chuyển động kiến tạo là ngược nhau. Có thể định dạng được ba mô hình cấu trúc nhịp đặc trưng cho ba miền hệ thống như sau: i) Mô hình nhịp trầm tích aluvi; ii) Mô hình nhịp trầm tích chuyển tiếp biển tiến; iii) Mô hình nhịp trầm tích chuyển tiếp biển thoái. i) Mô hình nhịp trầm tích aluvi gồm 5 nhịp được điều tiết bởi 5 pha kiến tạo chuyển động nhịp nhàng trên môi trường lục địa trong bối cảnh biến thoái toàn cầu. Theo phương thẳng đứng mỗi nhịp có dạng bất đối xứng. Thành phần độ hạt dưới thô trên mịn, trong đó cấp hạt thô nằm trực tiếp trên bề mặt bào mòn. Bắt đầu mỗi pha kiến tạo địa hình khu vực nghiên cứu được nâng cao, năng lượng dòng chảy mạnh, tướng cát sạn lòng sông được thành tạo. Cuối mỗi nhịp địa hình có xu thế hạ thấp, năng lượng dòng chảy yếu dần, tướng bột sét bãi bồi được thành tạo phủ trên tướng cát sạn lòng sông. ii) Mô hình nhịp trầm tích chuyển tiếp biển tiến gồm 6 nhịp được thành tạo trong giai đoạn biển tiến và do 6 pha kiến tạo địa phương dao động nhịp nhàng trong bối cảnh biển tiến toàn cầu. Theo phương thẳng đứng mỗi nhịp có dạng á đối xứng. Tướng sét vũng vịnh là ranh giới giữa các nhịp. Theo phương thẳng đứng thành phần độ hạt cũng giảm dần từ dưới lên trên như nhịp trầm tích aluvi, song ở đây là mặt cắt biển tiến có độ hạt mịn hơn và thành phần hạt thô nằm trên mặt bào mòn biển tiến. Khi địa hình nâng cao thành tạo các tướng cát bãi triều, ngược lại khi địa hình sụt lún nhẹ mực nước biển dâng cao thành tạo các tướng bùn đầm lầy tạo than và kết thúc là tướng sét vũng vịnh. iii) Mô hình nhịp trầm tích chuyển tiếp biển thoái gồm một nhịp trầm tích châu thổ được thành tạo trong giai đoạn biển cao. Theo phương thẳng đứng nhịp trầm tích châu thổ có thành phần độ hạt tăng dần từ dưới lên (dưới mịn trên thô). Dưới cùng là tướng bùn sườn châu thổ (prodelta) và trên cùng là tướng cát nón quạt cửa sông. Trên bình đồ đồng N.T.P. Thao et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 37, No. 1 (2021) 71-84 80 bằng châu thổ bồi tụ mở rộng về phía biển theo từng giai đoạn thành tạo đường bờ cổ. Mỗi thế hệ đường bờ cổ được đặc trưng bởi một thế hệ thùy châu thổ với tướng cát nón quạt cửa sông. 5. Kết luận i) Trầm tích Miocen trên khu vực Đông Nam Miền võng Hà Nội thuộc một phức tập, bao gồm ba miền hệ thống và 12 nhịp trầm tích. ii) Miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST) gồm 5 nhịp trầm tích nối tiếp nhau: ar1, ar2, ar3, ar4, và ar5. Mỗi nhịp đặc trưng bởi hai tướng cộng sinh với nhau: (1) tướng cát sạn lòng sông (dưới) và (2) tướng bột sét bãi bồi (trên). iii) Miền hệ thống trầm tích biển tiến (TST) có 6 nhịp trầm tích ven biển-vũng vịnh nối tiếp nhau: (amt,mt)1, (amt,mt)2, (amt,mt)3, (amt,mt)4, (amt,mt)5, (amt,mt)6. Mỗi nhịp (từ dưới lên) đặc trưng bởi 4 tướng cộng sinh với nhau: tướng cát bãi triều, tướng bùn bãi triều vịnh cửa sông, tướng bùn đầm lầy tạo than và tướng sét vũng vịnh. iv) Một phần trầm tích thuộc miền hệ thống trầm tích biến cao (HST) bị bào mòn cắt cụt tạo ranh giới bất chỉnh hợp góc với trầm tích Pliocen - Đệ Tứ, miền hệ thống này bao gồm một nhịp trầm tích châu thổ với 2 tướng đặc trưng (từ dưới lên): tướng bùn sườn châu thổ (prodelta) và tướng cát nón quạt cửa sông. v) Lịch sử tiến hóa của trầm tích Miocen trên khu vực Đông Nam Miền võng Hà Nội diễn ra trong mối quan hệ với sự thay đổi mực nước biển toàn cầu và mực nước biển địa phương. Mực nước biển toàn cầu tạo nên phức tập Miocen trên (N13). Mực nước biển địa phương tạo nên 12 nhịp trầm tích như đã nêu ở trên. Mỗi nhịp thay đổi mực nước biển liên quan đến một pha kiến tạo nâng-hạ. Khi địa hình nâng cao mức, nước biển sẽ hạ thấp độ hạt trầm tích sẽ thô hơn được đặc trưng bởi các tướng cát sạn lòng sông, cát bãi triều, cát nón quạt cửa sông. Khi địa hình hạ thấp mực nước biển sẽ dâng cao xuất hiện các tướng bột sét bãi bồi, bùn đầm lầy tạo than và kết thúc là sét vũng vịnh. Lời cảm ơn Để hoàn thành công trình này tập thể tác giả đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Công ty Dầu khí Sông Hồng, Khoa Địa chất, bộ môn Trầm tích của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên về tham khảo nhiều nguồn tài liệu nguyên thủy. Nhân dịp này cho phép tập thể tác giả được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ quý báu đó. Tài liệu tham khảo [1] Specialized Council of Earth Sciences (editor), Red River Rift Zone, Geodynamic Characteristics, Mineralization and Natural Disaster, Science and Technology Publishing House, Hanoi, 2004 (in Vietnamese). [2] T. Nghi, Sedimetary geology of Vietnam, Vietnam National Publishing House, Hanoi, 2018 (in Vietnamese). [3] P.Q. Trung, N.D. Dy, D. Bat, N.Q. An, D.V. Khoi, New polynologic discoveries in Paleogene- Neogene sediments in Northern Song Hong basin, Procedding of Conference on Vietnam Petroleum Institute 20 year development and prospects, Hanoi, 1998, page 171-185 (in Vietnamese). [4] N.X. Huyen, Zoning of Paleogene-Neogene sedimentary facies in Red River basin, PhD thesis (Russian), 1990. [5] L.T. Nghinh, N.X. Huyen, N.T. Yem, T.T. Sau, D.T. Mien, Cenozoic sediments of Red River zone, Geology & Resource, Science and Technology Publishing House, Hanoi, 1991, page 105-115 (in Vietnamese). [6] T. Nghi, M.T. Nhuan, C.V. Ngoi, U. Piet, van W. Tjeerd, van den B. Gert, D.X. Thanh, N.D. Nguyen, V.V. Phai, Holocene sedimentary evolution, geodynamic and anthropogenic control of the Balat river mouth formation (Red River- delta, northern Vietnam). Zeitschrift Fur Geologische Wissenschaften, 30(3), 2002, page 157-172. [7] T. Nghi, Seimentology (the first adition), Vietnam National Publishing House, Hanoi, 2012 (in Vietnamese)
File đính kèm:
- dac_diem_tuong_da_co_dia_ly_miocen_muon_khu_vuc_dong_nam_mie.pdf