Đặc điểm thành phần khoáng vật trong đá metacarbonat khu vực Sa Thầy, Kon Tum và khả năng ứng dụng của metacarbonat trong đá mỹ nghệ
Các đá metacarbonat trong khu vực huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum phân bố chủ yếu trong tổ hợp
các đá siêu mafic và tổ hợp đá hoa được mô tả chi tiết trong phức hệ Khâm Đức (NP-e1kđ) thuộc
hệ tầng Tiên An. Thành phần các khoáng vật chủ yếu trong các đá metacarbonat khu vực Sa Thầy
gồm: khoáng canxit và khoáng dolomit: 40-85%, khoáng olivin: 5-20%, khoáng pyroxen: 5-15%,
khoáng serpentin: 5-25% và ít talc và epidot. Kết quả phân tích thành phần hóa học của khoáng
vật pyroxen trong đá metacarbonat khu vực nghiên cứu được xác định bằng phương pháp EPMA
như sau: pyroxen có thành phần tương ứng là diopsit (Wo49;5 En50;1Fs0;4 đến Wo50;8En48;9Fs0;2).
Phần rìa của khoáng vật pyroxen thường có hàm lượng wollastonit cao hơn ở phần nhân (từ 49,9
đến 50,8%). Nguồn gốc thành tạo của các đá metacarbonat trong khu vực nghiên cứu là nguồn
gốc biến chất với các giai đoạn biến chất như sau: giai đoạn biến chất khu vực, giai đoạn biến
chất chồng và giai đoạn nhiệt dịch. Với mỗi loại giai đoạn biến chất như vậy, các đá metacarbonat
khu vực Sa Thầy sẽ có các màu sắc đặc trưng khác nhau tạo nên tính đa dạng về màu sắc. Đá
metacarbonat trong khu vực Sa Thầy có đặc trưng chất lượng về màu sắc, có độ bền, độ đa dạng về
họa tiết, hoa văn, độ phóng xạ thấp. Nhờ các tính chất đặc trưng vừa nêu mà các đá metacarbonat
trong khu vực nghiên cứu được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong lĩnh vực đá mỹ nghệ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm thành phần khoáng vật trong đá metacarbonat khu vực Sa Thầy, Kon Tum và khả năng ứng dụng của metacarbonat trong đá mỹ nghệ
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 5(2):1086-1100 Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu Khoa Địa chất, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM Liên hệ Bùi Kim Ngọc, Khoa Địa chất, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM Email: bkngoc@hcmus.edu.vn Lịch sử Ngày nhận: 20-10-2020 Ngày chấp nhận: 02-3-2021 Ngày đăng: 30-4-2021 DOI : 10.32508/stdjns.v5i2.962 Bản quyền © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố mở được phát hành theo các điều khoản của the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Đặc điểm thành phần khoáng vật trong đámetacarbonat khu vực Sa Thầy, Kon Tum và khả năng ứng dụng củametacarbonat trong đámỹ nghệ Bùi Kim Ngọc*, Phạm Trung Hiếu, PhạmMinh, Lê Đức Phúc Use your smartphone to scan this QR code and download this article TÓM TẮT Các đá metacarbonat trong khu vực huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum phân bố chủ yếu trong tổ hợp các đá siêu mafic và tổ hợp đá hoa được mô tả chi tiết trong phức hệ Khâm Đức (NP-e1kđ) thuộc hệ tầng Tiên An. Thành phần các khoáng vật chủ yếu trong các đá metacarbonat khu vực Sa Thầy gồm: khoáng canxit và khoáng dolomit: 40-85%, khoáng olivin: 5-20%, khoáng pyroxen: 5-15%, khoáng serpentin: 5-25% và ít talc và epidot. Kết quả phân tích thành phần hóa học của khoáng vật pyroxen trong đá metacarbonat khu vực nghiên cứu được xác định bằng phương pháp EPMA như sau: pyroxen có thành phần tương ứng là diopsit (Wo49;5 En50;1Fs0;4 đến Wo50;8En48;9Fs0;2). Phần rìa của khoáng vật pyroxen thường có hàm lượng wollastonit cao hơn ở phần nhân (từ 49,9 đến 50,8%). Nguồn gốc thành tạo của các đá metacarbonat trong khu vực nghiên cứu là nguồn gốc biến chất với các giai đoạn biến chất như sau: giai đoạn biến chất khu vực, giai đoạn biến chất chồng và giai đoạn nhiệt dịch. Với mỗi loại giai đoạn biến chất như vậy, các đá metacarbonat khu vực Sa Thầy sẽ có các màu sắc đặc trưng khác nhau tạo nên tính đa dạng về màu sắc. Đá metacarbonat trong khu vực Sa Thầy có đặc trưng chất lượng vềmàu sắc, có độ bền, độ đa dạng về họa tiết, hoa văn, độ phóng xạ thấp. Nhờ các tính chất đặc trưng vừa nêumà các đámetacarbonat trong khu vực nghiên cứu được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong lĩnh vực đá mỹ nghệ. Từ khoá: Kon Tum, metacarbonat, phức hệ Khâm Đức, đá biến chất, đá mỹ nghệ MỞĐẦU Địa khu Kontum, miền trung Việt Nam được xem là nền móng kết tinh của địa khối Đông Dương với sự hiện diện của các đá biến chất kết tinh từ nhiệt thấp đến cao độ tương ứng từ các đá biến chất tướng đá phiến đến tướng granulite và các phức hệ magma đi kèm (1–4, Hình 1) cho thấy rằng địa khu Kontum được xemnhư làmột lõi Archean trong địa khốiĐông Dương. Tuy nhiên, địa khu Kontum có thể được xem như là vỏ lục địa tái tạo do hoạt động biến chất và magma5. Những năm gần đây, các nghiên cứu đại thời học cho thấy hai sự kiện hoạt động magma-biến chất tiêu biểu ở địa khuKontumxảy ra trong giai đoạn Ordovic-Silua (1,3,4,6) và giai đoạnPecmi-Triat (sự tạo núi Indosinian) ( 3,7–11). Các đá granit địa khu Kon- tum, sau đó, bị phủ lên bởi các trầm tích phun trào basalt Neogen-Đệ tứ. Khu vực Sa Thầy và vùng lân cận bao gồm các đá magma và biến chất tuổi Pro- terozoi và Paleozoi. Các đá metacarbonat được mô tả chi tiết trong phức hệ Khâm Đức (đối sánh với hệ tầng KhâmĐức được Trịnh Long –Nguyễn Xuân Bao thành lập năm 1995)12. Trong phạm vi hẹp của khu vực Sa Nghĩa, các đá biến chất lộ khá tốt dọc đường đi và trên các suối nhánh. Thành phần thạch học gồm đá phiến thạch anh hai mica, các lớp đá quartzit, đá hoa và calciphyres dưới dạng thấu kính (Hình 2 và 3). Các trầm tích Đệ tứ trong vùng có quy mô hẹp dưới dạng bồi tích lấp đầy các dòng suối lớn, thành phần gồm cuội, sỏi, sạn, cát, sét bở rời, chiều dày từ 1-10m. Trên quymô lớn hơn, trong diện phân bố của phức hệ Khâm Đức, các đá xâm nhập và phun trào phát triển rất mạnh mẽ, đáng chú ý là sự có mặt các xâm nhập granitoid được mô tả trong phức hệ Diên Bình tuổi Silua, các thành tạo xâm nhập siêu mafic gồm dunit, serpentinit thuộc phức hệ Hiệp Đức 13, các thành tạo xâm nhập mafic gồm gabro, pyroxenit phức hệ Núi Ngọc. Các đá trong khu vực Sa Nghĩa bị biến chất động lực và biến dạng mạnh mẽ. Đường phương cấu trúc chung của các đá phiến và đá hoa á kinh tuyến do ảnh hưởng của đứt gãy cùng phương Pô Kô. Các đứt gãy phương Tây Bắc - Đông Nam và Đông Bắc - Tây Nam quy mô nhỏ, ít ảnh hưởng đến cấu trúc chung của khu vực khảo sát. Trong khu vực SaThẩy có 2 phức hệ tổ hợp thạch kiến tạo (PHTKT) là: (i) PHTKT Mesoproterozoi (PR2) phân bố một phần nhỏ phía Tây – Nam khu vực nghiên cứu, cấu thành bởi các thành tạo trầm tích Trích dẫn bài báo này: Ngọc B K, Hiếu P T, Minh P, Phúc L D. Đặc điểm thành phần khoáng vật trong đámetacarbonat khu vực Sa Thầy, Kon Tum và khả năng ứng dụng củametacarbonat trong đámỹ nghệ. Sci. Tech. Dev. J. - Nat. Sci.; 5(2):1086-1100. 1086 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 5(2):1086-1100 Hình 1: Sơ đồ địa chất khu vực nghiên cứu và địa điểm thu mẫu phân tích 1087 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 5(2):1086-1100 Hình 2: Thân đá metacarbonat lộ ra tại khu vực Sa Thầy Hình 3: Thân metacarbonat lộ ra tại moong khai thác dọc quốc lộ 14 lục nguyên, phun trào, lục nguyên carbonat của hệ tầng Khâm Đức, chứa các tổ hợp đá biến chất thạch anh, gneiss, amphibolit và một ít đá hoa; (ii) PHTKT Paleozoi thượng – Mesozoi hạ (P2-T1) phân bố rộng rãi, thành phần thạch học bao gồmgabrodiorit, diorit, granodiorit, granit biotit, granit hornblend biotit, bị cắt xén, cà nát mạnh mẽ bởi các hệ thống đứt gãy tạo nên các đới milonit khá rộng. Đối tượng chúng tôi quan tâm nghiên cứu trong khu vực này là các đá metacarbonat – loại đá biến chất trao đổi từ đá siêu mafic xuyên cắt vào đá carbonat có trước hoặc do biến chất khu vực. Thân đá hoa và calciphyres lộ ra trên bình đồ dưới dạng một hình quả đỗ kéo dài theo phương á kinh tuyến. Chiều rộng lớn nhất khoảng 80 m ... ộ cứng thấp (3-4) 1095 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 5(2):1086-1100 Bảng 1: Thành phần hóa học của pyroxen xiên đơn (Cpx) phân tích bằng phương pháp EPMA (% khối lượng) trong đámetacarbonat Vị trí 69 70 85 96 97 99 100 Oxit (phần nhân) (phần nhân) (phần rìa) (phần nhân) (phần rìa) (phần rìa) (phần nhân) MgO 18,668 18,555 18,231 18,760 18,582 18,066 17,637 CaO 25,618 25,822 25,934 25,866 26,000 26,125 26,030 FeO 0,085 0,080 0,012 0,087 0,099 0,119 0,191 SiO2 55,499 55,789 55,619 55,656 55,801 55,198 55,217 TiO2 0,000 0,000 0,020 0,051 0,017 0,000 0,000 MnO 0,000 0,016 0,010 0,000 0,015 0,024 0,000 Al2O3 0,018 0,010 0,013 0,012 0,020 0,023 0,016 K2O 0,000 0,000 0,015 0,000 0,000 0,000 0,000 Cr2O3 0,000 0,044 0,004 0,008 0,014 0,020 0,000 Na2O 0,001 0,014 0,027 0,000 0,000 0,032 0,003 Tổng cộng (%) 99,889 100,330 99,885 100,440 100,548 99,607 99,094 O=6 K 0,000 0,000 0,001 0,000 0,000 0,000 0,000 Na 0,000 0,001 0,002 0,000 0,000 0,002 0,000 Ca 0,990 0,995 1,004 0,995 0,999 1,015 1,018 Mg 1,004 0,994 0,982 1,004 0,994 0,976 0,960 Mn 0,000 0,001 0,000 0,000 0,000 0,001 0,000 Fe 0,003 0,002 0,000 0,003 0,003 0,004 0,006 Ti 0,000 0,000 0,001 0,001 0,000 0,000 0,000 Cr 0,000 0,001 0,000 0,000 0,000 0,001 0,000 Al 0,001 0,000 0,001 0,000 0,001 0,001 0,001 Si 2,002 2,006 2,010 1,997 2,002 2,001 2,016 Wollastonit Ca2Si2O6 49,5 49,7 50,1 49,8 49,9 50,8 50,5 Enstatit Mg2Si2O6 50,1 49,6 49,0 50,2 49,6 48,9 47,6 Ferrosilit Fe2Si2O6 0,4 0,7 0,9 0,0 0,4 0,2 1,9 Diopsid Diopsid Diopsid Diopsid 1096 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 5(2):1086-1100 Bảng 2: Hàm lượng các oxit chính của các đámetacarbonat khu vực NamĐắk Glei và khu vực Sa Nghĩa STT Số hiệu mẫu Hàm lượng (%) SiO2 TiO2 Al2O3 Fe2O3 FeO MnO MgO CaO Na2O K2O P2O5 1 VN1824 66,78 0,41 9,07 0.7 2,73 0,12 6,21 7,91 2,11 1,98 0,14 2 VN1824/131,12 0,04 0,31 0,19 0,22 0,03 19,52 24,80 0,07 0.04 0,10 3 820a 50,64 0,01 0,40 0,24 2,58 0,04 21,2 23,99 0,00 0,43 0,01 4 820c 46,07 0,03 0,01 0,24 4,5 0,04 23,47 20,62 0,00 0,06 0,02 Bảng 3: Hàm lượng các tham số phóng xạ trong các đámetacarbonat khu vực NamĐắk Glei Số hiệu mẫu Hoạt độ phóng xạ riêng(Bq/kg) Kết quả chỉ số hoạt độ phóng xạ I1 Kết quả chỉ số hoạt độ phóng xạ I2 Kết quả chỉ số hoạt độ phóng xạ I3 CU-235 CTh-232 CK-40 VN1824 29,81 82,94 488,1 0,677 0,265 0,096 VN1824/1 18,64 74,45 113,1 0,471 0,187 0,066 nhưng khá dẻo dai do có sự xen kẽ với một số thành phần khoáng vật khác như pyroxen, olivin, serpentin. Vì thế, chúng tương đối bền trong quá trình sử dụng. Trong đámetacarbonat họa tiết hoa văn có nhiều hình dạng khác nhau nhưng giá trị nhất vẫn là họa tiết da rắn và da báo. Chúng được thành tạo do sự sắp xếp xen kẽ và có quy luật của khoáng vật serpentin với các khoáng vật khác như: canxit, carbonat có trong đá, tạo nên hình dạng đặc trưng xếp lớp thẳng hàng và xen kẹp đều nhau (kiểu da rắn), hay xen lẫn vào nhau (da báo)và tạo nên giá trị thẩm mỹ cao cho sản phẩm. Tỷ trọng Tỷ trọng của đá 2,94; độ rỗng 2,35; độ hút nước 0,61; cường độ kháng nén 920. Đặc điểmmàu sắc các đámetacarbonat - Các đá metacarbonat màu xanh lục vằn da rắn: Khoáng vật chủ yếu là serpentin dạng sợi dài loại crizotin, chúng tạo thành các tấm lớn và óng ánh khi xoay bàn kính. Các dải khoáng vật carbonat trong mẫu cũng tạo thành các tấm song song với các tấm serpentin, đôi chỗ chúng là các dải nhỏ cắt ngang qua serpentin. Chiều rộng phổ biến của các tấm serpentin 0,25 - 0,3 mm (Hình 12). - Các đá metacarbonat màu xám xanh: Khoáng vật chủ yếu là serpentin dạng vảy nhỏ loại antigorit, kích thước rất nhỏ và rải đều trong phần nền củamẫu cùng khoáng vật nhóm cacbonat. Đôi chổ chúng có dạng các tia sợi rất nhỏ là crizotin chạy song song và định hướng với nhau (Hình 4). - Các đá metacarbonat màu xám trắng phớt xanh: Khoáng vật nhóm cacbonat trong mẫu chiếm nhiều hơn khoáng vật serpentin. Serpentin chủ yếu có dạng vảy nhỏ là antigorit, chúng nằm xen trong danh giới các hạt khoáng vật canxit và tạo thành các ổ nhỏ. Kích thước các ổ phổ biến 0,1x0,15 - 0,2x0,25mm(Hình 6). Tùy thuộc vào từng loại khoáng vật serpentin, số lượng, sự phân bố tương quan giữa serpentin và khoáng vật cacbonat hoặc khoáng vật khác sẽ tạo nên các màu sắc khác nhau của các đá metacarbonat. Triển vọng Các thân đá metacarbonat lộ ra với chiều dài 1.450 m, chiều rộng trung bình 50 m, chiều sâu 50 m. Tài nguyên dự báo cấp 333 là: 3.625.000 m3 15. Khả năng sử dụng Đá metacarbonat đạt tiêu chuẩn chất lượng mỹ nghệ chúng được sử dụng chính trong lĩnh vực mỹ nghệ, đá ghép, tạc tượng, đá phong thủy... Theo tìm hiểu của tác giả trong quá trình khảo sát thực địa và sinh hoạt tại địa phương, đá metacarbonat khu vực vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu và chưa chính thức đưa vào khai thác. Tuy nhiên dưới sự quản lý chưa thật sự nghiêm ngặt của các cấp có thẩm quyền, đá trong khu vực này vẫn bị khai thác bất hợp pháp. Mẫu đá thô được bán tại địa phương dao động từ 50-100 ngàn đồng/kg và bán trong các cửa hàng là 200 ngàn đồng/1kg. 1097 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 5(2):1086-1100 Như vậy cho đến nay, đá metacarbonat khu vực nghiên cứu đã và đang được sử dụng trong lĩnh vực tạc tượng, và đá phong thủy khá phổ biến ở ngay tại địa phương và một số tỉnh lân cận (Hình 12 và 13) KẾT LUẬN Các đá metacarbonat được mô tả chi tiết trong phức hệ Khâm Đức, các đá biến chất lộ khá tốt dọc quốc lộ 14 và trên các suối nhánh. Thành phần thạch học gồm đá phiến thạch anh hai mica, các lớp đá quartzit, đá hoa và calciphyr dưới dạng thấu kính. Các thân metacarbonat Sa Thầy thuộc phức hệ Khâm Đức bị vây quanh bởi đá phiến thạch anh – hai mica và các thấu kính serpentinit. Các đá metacarbonat có thành phần thạch học không đồng nhất trong toàn khối. Thành phần khoáng vật chính gồm: serpentin, canxit, carbonat, olivin, pyroxen xiên đơn. Về thành phần hóa học: các đá metacarbonat trong khu vực Sa Thầy có hàm lượng SiO2 thấp, giàu MgO, CaO và nghèo kiềm. Về thành phần hóa học của khoáng pyroxen xiên đơn trong mẫu phân tích theo phương pháp EPMA chủ yếu là diopsid (Wo49;5 En50;1Fs0;4 đến Wo50;8En48;9Fs0;2). Phần rìa của khoáng vật pyroxen thường có lượng wollastonit cao hơn ở phần nhân (từ 49,9 đến 50,8%). Các đá metacarbonat khu vực khảo sát có nhiều màu sắc khác nhau như xanh, vàng, nõn chuối,xám xanh... Mặc dù các đámetacarbonat là loại đá có độ cứng thấp nên ít khi thấy chúng được sử dụng làm đồ trang sức. Nhưng khi được mài bóng và chế tác thành các sản phẩm trong lĩnh vực đá mỹ nghệ và phong thủy, chúng lại được sử dụng khá phổ biến và có giá trị cao. Chất lượng các đá metacarbonat tốt, đa dạng về màu sắc và họa tiết hoa văn, có độ bền cao theo thời gian. Các tiêu chuẩn khác đều phù hợp làm đá mỹ nghệ, đá phong thủy. Qua các nghiên cứu, tổng hợp tài liệu, cho thấy các đá metacarbonat Sa Thầy có nguồn gốc biến chất với các giai đoạn biến chất: biến chât khu vực, biến chất chồng, nhiệt dịch. Đá metacarbonat trong khu vực nghiên cứu đa dạng về màu sắc và họa tiết hoa văn, có độ bóng, độ bền cao, độ phóng xạ thấp đạt tiêu chuẩn chất lượng mỹ nghệ nên chúng được sử dụng chính trong lĩnh vực mỹ nghệ, đá ghép, tạc tượng, đá phong thủy. LỜI CÁMƠN Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ Đề tài mã số C2018-18-21. Cảm ơn Dr. Kenta Kawaguchi, Phòng thí nghiệmEPMATrườngĐại học Hiroshima, Nhật Bản hỗ trợ phân tích EPMA. DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT EPMA (Electron probe micro - analyzer): phuơng pháp phân tích vi dò điện tử Cpx: pyroxen xiên đơn XUNGĐỘT LỢI ÍCH Các tác giả tuyên bố rằng họ không có xung đột lợi ích. ĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC GIẢ 1. Bùi Kim Ngọc: Tham gia khảo sát thực địa, viết bài báo 2. Phạm Trung Hiếu: Thực hiện các phân tích EPMA tại phòng thí nghiệm EPMA Trường Đại học Hi- roshima Nhật Bản, tham gia thu thập mẫu ngoài thực địa và hiệu đính bài báo. 3. PhạmMinh: Vẽ sơ đồ, chụp các hình ảnh lát mỏng và tham gia khảo sát thực địa. 4. Lê Đức Phúc: Trên cơ sở số liệu liên quan đến bài báo, thamgia luận giải về nguồn gốc đámetacarbonat. TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Hieu PT, Dung NT, Thuy NTB, Minh NT, Minh P. U-Pb ages and Hf isotopic composition of zircon and bulk rock geo- chemistry of the Dai Loc granitoid complex in Kontum mas- sif: Implications for early Paleozoic crustal evolution in Central Vietnam. Journal of Mineralogical and Petrological Sciences. 2016;111:326–336. Available from: https://doi.org/10.2465/ jmps.151229. 2. HutchisonCS. Geological evolutionof south-eastAsia.Oxford, Oxford Science Publications. 1989;p. 368. 3. Nakano N, Osanai Y, et al. Geologic andmetamorphic evolu- tion of the basement complexes in the Kontum massif, cen- tral Vietnam. Gondwana Research. 2007;12:438–453. Avail- able from: https://doi.org/10.1016/j.gr.2007.01.003. 4. Osanai Y, et al. Permo-Triassic ultrahigh-temperature meta- morphism in the Kontum massif, central Vietnam. Journal of Mineralogical and Petrological Sciences. 2004;99:225–241. Available from: https://doi.org/10.2465/jmps.99.225. 5. OwadaM, et al. Crustal anatexis and formation of two types of granitic magmas in the Kontum massif, central Vietnam: Im- plications for magma processes in collision zones. Gondwana Research. 2007;12:428–437. Available from: https://doi.org/ 10.1016/j.gr.2006.11.001. 6. Roger F, Maluski H, et al. U-Pb dating of high temperature metamorphic episodes in theKonTumMassif (Vietnam). Jour- nal of Asian Earth Sciences. 2007;30:565–572. Available from: https://doi.org/10.1016/j.jseaes.2007.01.005. 7. Carter A, Roques D, Bristow C, Kinny P. Understanding Mesozoic accretion in Southeast Asia: significance of Trias- sic thermotectonism (Indosinian orogeny) in Vietnam. Ge- ology. 2001;29:211–214. Available from: https://doi.org/10. 1130/0091-7613(2001)0292.0.CO;2. 8. Lepvrier C,Maluski H, LeyreloupA, Thi PT, VuongNV. The Early Triassic Indosinian orogeny in Vietnam (Truong Son Belt and KontumMassif ); implication for the geodynamic evolution of Indochina. Tec-tonophysics. 2004;393:87–118. Available from: https://doi.org/10.1016/j.tecto.2004.07.030. 9. Nagy EA, et al. Geodynamic significance of the Kontummassif in central Vietnam: composite 40Ar/39Ar and U-Pb Ages from Paleozoic to Triassic. Journal of Geology. 2001;109:755–770. Available from: https://doi.org/10.1086/323193. 10. Nam TN, et al. First SHRIMP U-Pb zircon dating of granulites from the Kontummassif (Vietnam) and tectonothermal impli- cations. Journal of Asian Earth Sciences. 2001;19:77–84. Avail- able from: https://doi.org/10.1016/S1367-9120(00)00015-8. 1098 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Tự nhiên, 5(2):1086-1100 11. Owada M, et al. Timing of metamorphism and formation of garnet granite in the Kon-tum Massif, central Vietnam: Ev- idence from monazite EMP dating. Journal of Mineralogical and Petrological Sciences. 2006;101:324–328. Available from: https://doi.org/10.2465/jmps.060617a. 12. Tính T. Báo cáo kết quả đo vẽ địa chất và tìm kiếm khoáng sản nhóm tờ Kon Tum - Buôn Mê Thuột tỷ lệ 1/200.000. Lưu trữ Viện TTTL&BTĐC. Hà Nội. 1994;1:143–155. 13. Trung H, et al. Đặc điểm địa chất và nguồn gốc thành tạo các đá siêumafic (serpentinit) phức hệ Hiệp Đức. Tạp chí phát triển KH&CN, T10/2009;12:89–102. 14. Bao NX. Địa chất và khoáng sản Nam Việt Nam tờ Kon Tum tỷ lệ 1/200.000. Cục địa chất và khoáng sản Việt Nam - Liên đoàn 6, Tp. Hồ Chí Minh. 1995;p. 4–5. 15. Đức Duyện T. Báo cáo đo vẽ lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản nhóm tờ Kon Tum, tỷ lệ 1/50.000. Lưu trữ Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. Hà Nội. 2006;2(186). 16. Deer WA, et al. Single - Chain Silicates. Geological Society of London. 1997;528. 1099 Science & Technology Development Journal – Natural Sciences, 5(2):1086-1100 Open Access Full Text Article Research Article Faculty of Geology, VNUHCM – University of Science Correspondence Ngoc Kim Bui, Faculty of Geology, VNUHCM – University of Science Email: bkngoc@hcmus.edu.vn History Received: 20-10-2020 Accepted: 02-3-2021 Published: 30-4-2021 DOI : 10.32508/stdjns.v5i2.962 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Mineral characteristics of metacarbonat in Sa Thay, Kon Tum and potential use for gemstone Ngoc Kim Bui*, Hieu Trung Pham, Minh Pham, Phuc Duc Le Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT Metacarbonates in Sa Thay district, Kon Tum province are mainly distributed in ultramafic and marble assemblages from Kham Duc (NP-e1kđ) complex, belonging to Tien An formation. The main rock-forming minerals are calcite and dolomite (40-85%), olivine (5-20%), pyroxene (5-15%), and serpentine (5-25%). Accessory minerals are talc and epidote. The chemical composition of pyroxene in metacarbonate was determined by EPMA method: the composition of pyroxene is diopsite (Wo49:5 En50:1Fs0:4 to Wo50:8En48:9Fs0:2). The rim of pyroxene grains generally has higher wollastonite than the core (49.9-50.8%). Metacarbonates originated from metamorphic sources with three main stages: regional metamorphism, superimposed metamorphism and hydrother- mal metamorphism stages. With each stage, they have different color characteristics to create a variety of colors. Metacarbonates in Sa Thay, Kontum have quality characteristics of color, durabil- ity, pattern, diversity, and low radioactivity. These make the metacarbonates suitable for gemstone applications. Key words: Sa Thay - Kontum, metacarbonat, Kham Duc complex, metamorphic rock, gemstone Cite this article : Bui N K, Pham H T, Pham M, Le P D. Mineral characteristics of metacarbonat in Sa Thay, Kon Tum and potential use for gemstone. Sci. Tech. Dev. J. - Nat. Sci.; 5(2):1086-1100. 1100
File đính kèm:
- dac_diem_thanh_phan_khoang_vat_trong_da_metacarbonat_khu_vuc.pdf