Đặc điểm mô bệnh học và hóa mô miễn dịch trong ung thư đường mật trong gan
Đặt vấn đề: Ung thư biểu mô đường mật trong gan có triệu chứng mơ hồ trong khi chẩn đoán hình
ảnh không đặc hiệu và đặc điểm mô bệnh học đôi khi khó phân biệt với di căn. Do đó, đặc điểm mô bệnh
học và hóa mô miễn dịch có hữu ích trong việc xác định ung thư biểu mô đường mật trong gan?
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 52 bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung thư đường
mật trong gan từ tháng 6/2018 đến 3/2020. Tất cả các bệnh nhân đều được sinh thiết khối u bằng kim
sinh thiết 16G, chiều dài mảnh sinh thiết tối thiểu 1,5cm. Bệnh phẩm được xử lý mô bệnh học thường quy
và nhuộm hóa mô miễn dịch trên máy hóa mô tự động Benchmark Utra của Ventana (Roche). Phân loại
mô bệnh học theo WHO 2019.
Kết quả: Ung thư đường mật trong gan chủ yếu là hình thái tuyến gồm biệt hóa rõ chiếm chủ yếu
40,4%, mô đệm liên kết xơ mức độ nhiều chiếm 61,5%, hoại tử u chỉ chiếm 15,4%. Các dấu ấn CK19,
CK7 dương tính đến 100% và hầu hết là lan tỏa. CK20, Hepar 1 dương tính tương ứng là 13,5% và 18,2%
dưới dạng ổ. TTF1 dương tính 12,5%.
Kết luận: Hình ảnh mô bệnh học và dấu ấn CK7, CK19 dương tính mạnh, lan tỏa và Hepar-1 dương
tính ổ rất hữu ích trong việc xác định ung thư đường mật trong gan, tuy nhiên TTF1 và CK 20 cũng có tỷ
lệ dương tính.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm mô bệnh học và hóa mô miễn dịch trong ung thư đường mật trong gan
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 213 ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC VÀ HÓA MÔ MIỄN DỊCH TRONG UNG THƯ ĐƯỜNG MẬT TRONG GAN NGÔ THỊ MINH HẠNH1, ĐỒNG ĐỨC HOÀNG2, NGUYỄN QUANG THI3 Địa chỉ liên hệ: Ngô Thị Minh Hạnh Email: ngominhhanh108@gmail.com 1ThS. Khoa Giải phẫu bệnh-Bệnh viện Trung Ương Quân đội 108 2ThS. Trường Đại học Y Thái Nguyên 3Khoa Giải phẫu bệnh--Bệnh viện Trung Ương Quân đội 108 Ngày nhận bài: 01/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư đường mật chiếm khoảng 2% trong tổng số bệnh ung thư ở người. Mặc dù ít gặp hơn so với ung thư gan nhưng tỷ lệ ung thư đường mật trong gan có xu hướng gia tăng[6]. Các khối u có nguồn gốc đường mật trong gan chiếm 10 - 20% của các khối u ác tính ở gan nguyên phát[8). Theo số liệu thống kê ở Việt Nam, ung thư đường mật chiếm 6% trong tổng số bệnh ngoại khoa đường mật[1]. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới, ung thư đường mật trong gan là khối u ác tính trong gan có biệt hóa đường mật[2]. Chẩn đoán lâm sàng những khối u trong gan nguyên phát, đặc biệt là khối u đường mật gặp nhiều khó khăn do các triệu chứng nghèo nàn và không đặc hiệu. Hơn nữa, rất khó khăn phân biệt ung thư đường mật trong gan với các khối ung thư di căn gan. Về mặt chẩn đoán hình ảnh, khó để quyết định phạm vi khu trú của khối u. Do đó bệnh thường được chẩn đoán ở giai đoạn muộn, tiên lượng bệnh xấu. Qua nghiên cứu hình ảnh mô bệnh học và hóa mô miễn dịch ung thư đường mật trong gan để giúp xác định ung thư đường mật và giúp lâm sàng quyết định hướng xử trí. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 52 bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung thư đường mật từ tháng 6/2018 đến tháng 3/2020. Phương pháp nghiên cứu 58 BN được chẩn đoán mô bệnh học và hoá mô miễn dịch phù hợp nhất với ung thư đường mật trong gan. Tất cả bệnh nhân này được thu thập đầy đủ các thông tin lâm sàng, chỉ số sinh hoá, miễn dịch các dấu ấn ung thư như AFP, CA19-9, CEA, CA125...đối chiếu chẩn đoán hình ảnh (siêu âm, CT, TÓM TẮT Đặt vấn đề: Ung thư biểu mô đường mật trong gan có triệu chứng mơ hồ trong khi chẩn đoán hình ảnh không đặc hiệu và đặc điểm mô bệnh học đôi khi khó phân biệt với di căn. Do đó, đặc điểm mô bệnh học và hóa mô miễn dịch có hữu ích trong việc xác định ung thư biểu mô đường mật trong gan? Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 52 bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung thư đường mật trong gan từ tháng 6/2018 đến 3/2020. Tất cả các bệnh nhân đều được sinh thiết khối u bằng kim sinh thiết 16G, chiều dài mảnh sinh thiết tối thiểu 1,5cm. Bệnh phẩm được xử lý mô bệnh học thường quy và nhuộm hóa mô miễn dịch trên máy hóa mô tự động Benchmark Utra của Ventana (Roche). Phân loại mô bệnh học theo WHO 2019. Kết quả: Ung thư đường mật trong gan chủ yếu là hình thái tuyến gồm biệt hóa rõ chiếm chủ yếu 40,4%, mô đệm liên kết xơ mức độ nhiều chiếm 61,5%, hoại tử u chỉ chiếm 15,4%. Các dấu ấn CK19, CK7 dương tính đến 100% và hầu hết là lan tỏa. CK20, Hepar 1 dương tính tương ứng là 13,5% và 18,2% dưới dạng ổ. TTF1 dương tính 12,5%. Kết luận: Hình ảnh mô bệnh học và dấu ấn CK7, CK19 dương tính mạnh, lan tỏa và Hepar-1 dương tính ổ rất hữu ích trong việc xác định ung thư đường mật trong gan, tuy nhiên TTF1 và CK 20 cũng có tỷ lệ dương tính. Từ khóa: Ung thư đường mật trong gan, mô bệnh học, hóa mô miễn dịch. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 214 MRI, PET/CT), theo dõi điều trị và kiểm tra định kỳ theo chỉ định của bác sỹ ung thư. 58 ca này được loại trừ hoàn toàn những trường hợp ung thư gan, ung thư gan - đường mật kết hợp, ung thư từ vị trí khác di căn gan còn lại chẩn đoán xác định cuối cùng 52 trường hợp ung thư đường mật trong gan. Bệnh phẩm khối u được sinh thiết bằng kim sinh thiết gan 16G, chiều dài mảnh sinh thiết tối thiểu 1,5cm; cố định ngay sau khi mẫu được lấy ra khỏi cơ thể bằng formol trung tính 10%. Bệnh phẩm cố định được xử lý mô bệnh học thường quy trên máy xử lý mô tự động Sakura, được đúc khối paraffin, cắt nhuộm HE thường quy. Đánh giá mô bệnh học theo các thể bệnh của WHO 2019. Mức độ xơ được đánh giá định tính từ mức độ không xơ đến xơ nhiều (xơ nhiều khi các tuyến thưa được ngăn cách nhau bởi mô đệm xơ dày ngược lại không xơ khi các đám tế bào u đặc). Mức độ viêm được đánh giá khi thâm nhiễm các tế bào các viêm từ mức độ không viêm (rải rác lympho bào trong mô đệm) đến mức độ nhiều (các tế bào viêm tập trung thành đám). Nhuộm hóa mô miễn dịch: bệnh phẩm được cắt từ chính khối nến đã được cắt nhuộm HE trước đó trên máy hóa mô tự động Benchmark Ultra của Ventana (Roche) với các dấu ấn CK7, CK19, Hepar1, CK20, TTF1, CD34... và các dấu ấn chẩn đoán phân biệt dựa vào bệnh cảnh lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh. Trong mỗi lần nhuộm đều có tiêu bản chứng âm và chứng dương. Đánh giá dương tính khi biểu hiện màu vàng nâu ở bào tương và màng bào tương hay nhân tế bào với các mức độ: dương tính mạnh (+++) >25%: 11% - 25% dương tính vừa (++), 1 - 10%: dương tính yếu (+), < 1%: âm tính. Những trường hợp dương tính vừa và dương tính mạnh được coi là dương tính lan tỏa và trường hợp dương tính (+) là dương tính ổ. KẾT QUẢ Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh Tuổi trung bình (năm) Lớn nhất, nhỏ nhất (39 - 84) tuổi 61 ± 10,3 Giới tính Nam 31 (59,6) Kích thước u (cm) Lớn nhất, nhỏ nhất (1,3 - 13,6) 6,6 ± 3,5 Vị trí u U vùng gần rốn gan 15 (28,8) U trong gan phía ngoại vi 37 (71,2) Số lượng u 1 u 23 (44,2) 1 u và vệ tinh 11 (21,1) 2 u 2 (3,8) Nhiều u 16 (30,8) Di căn (hạch, di căn xa) 17 (32,7) Huyết khối tĩnh mạch cửa 4 (7,7) Ung thư đường mật hay gặp ở bệnh nhân nhiều tuổi (61 ± 10,3) gặp nhiều hơn ở nam giới (chiếm 59,6%), vị trí u trong gan phía ngoại vi chiếm 71,2%, di căn hạch và di căn xa chiếm 32,7% và ít gặp huyết khối tĩnh mạch cửa (7,7%). Bảng 2. Các đặc điểm mô bệnh học Thể mô bệnh học Tuyến biệt hóa rõ 21 (40,4) Tuyến biệt hóa vừa 6 (11,5) Tuyến kém biệt hóa 14 (26,9) Thành dây, thành dải, rời rạc 5 (9,6) Thể đặc giống tế bào gan 6 (11,5) Xơ Không xơ 5 (9,6) Xơ ít 15 (28,8) Xơ nhiều 32 (61,5) Viêm Không viêm 11 (21,2) Viêm nhẹ 25 (48,1) Viêm nhiều 16 (30,8) Hoại tử Không hoại tử 44 (84,6) Hoại tử 8 (15,4) Ung thư đường mật trong gan chủ yếu là hình thái tuyến gồm biệt hóa rõ chiếm 40,4%, mô đệm liên kết xơ mức độ nhiều chiếm 61,5%, hoại tử u chỉ chiếm 15,4%, thường kèm theo viêm nhẹ (48,1%). Bảng 3. Đặc điểm hóa mô miễn dịch Số dấu ấn trung bình: 5,5 ± 0,96 (4 - 8) maker. Dấu ấn Dương tính Âm tính Không nhuộm n % n % n % CK7 52 100 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 215 Lan tỏa 51 99,1 CK19 51 98,1 1 1,9 Lan tỏa 50 90,0 CK20 7 13,5 45 86,5 Lan tỏa 3 42,9 CDX2 5 9,6 16 30.8 31 59.6 Lan tỏa 3 60,0 P40 1 1.9 51 98.1 Hepar-1 8 18,2 36 81,8 8 15,4 Lan tỏa 1 12,5 AFP 10 19.2 42 80.8 TTF1 1 12,5 7 87,5 44 84,6 CEA 1 1.9 51 98.1 PSA 1 1.9 51 98.1 CA125 1 1.9 51 98.1 WT1 1 1.9 51 98.1 NapsinA 2 3.8 50 96.2 CD34 1 1.9 51 98.1 Các dấu ấn CK7, CK19 dương tính chủ yếu, tương ứng 100%, 98,1% và hầu hết là lan tỏa. CK20 dương tính 13,5% nhưng chủ yếu là dương tính dạng ổ (58,1%), Hepar1 dương tính 18,2% và hầu hết dương tính dạng ổ (87,5%), TTF1 dương tính 12,5%. Mô bệnh học và hóa mô miễn dịch ung thư biểu mô đường mật trong gan. Các tế bào u xếp thành tuyến có dạng trụ nền mô đệm xơ nhiều. Các tế bào u dương tính mạnh với CK7, âm tính Hepar-1 và CK20 (x 200) BÀN LUẬN Các đặc điểm lâm sàng Ung thư đường mật trong gan khi được chẩn đoán có độ tuổi trung bình 61 ± 10,3 (39 - 84) tuổi. Theo các nghiên cứu cho thấy tuổi trung bình được chẩn đoán khi > 50 tuổi, gặp nhiều nhất thập niên 50 và 70 tuổi. Bệnh gặp chủ yếu ở nam[1],[2]. Trong nghiên cứu chúng tôi nhận thấy nam giới mắc bệnh nhiều hơn nữ (chiếm 59,6%) (Bảng 1). Theo vị trí A B C D Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 216 giải phẫu, các khối u của đường mật được phân chia gồm 3 loại: ung thư đường mật trong gan, ung thư quanh rốn gan và ung thư đường mật ở đoạn xa. Trong nghiên cứu này khối u ở gần rốn gan chiếm 28,8% còn lại chủ yếu là khối u phía ngoại vi gan (Bảng 1). Ung thư đường mật trong gan mở rộng từ ngoại vi của gan đến phân nhánh ống mật thứ cấp. Do vậy, rất khó khăn để phân biệt ung thư đường mật trung tâm từ ung thư đường mật vùng rốn gan, đặc biệt là biểu hiện ở thể thâm nhiễm quanh ống[5]. Đặc điểm mô bệnh học Về mặt giải phẫu, ung thư đường mật có 2 thể chính là thể ống lớn và thể ống nhỏ. Thể ống lớn xuất hiện ở các ống mật trong gan gần rốn gan (gần với ống gan phải và ống gan trái). Thể ống nhỏ xảy ra xảy ra ưu thế ở ngoại vi gan. Kết quả thu được từ nghiên cứu cho thấy ung thư đường mật trong gan chủ yếu là hình thái tuyến, trong đó tuyến biệt hóa rõ chiếm 40,4%, ung thư tuyến kém biệt hóa chiếm 26,9% (Bảng 2). Qua các nghiên cứu đều cho thấy phần lớn ung thư đường mật trong gan là ung thư biểu mô tuyến và tùy mức độ biệt hóa tuyến mà chia mức độ biệt hóa từ thấp đến biệt hóa cao[2]. Các biến thể khác hiếm gặp trong ung thư biểu mô đường mật trong gan như ung thư biểu mô tuyến vảy, ung thư biểu mô nhày, tế bào nhẫn... hay dạng sarcoma. Trong nghiên cứu có 5 (9,6%) trường hợp mô bệnh học là những tế bào xếp rời rạc dạng dây, dải nhỏ vài tế bào lan tỏa trong mô đệm liên kết (Bảng 2). Đôi khi hình thái tế bào u dạng đa diện, ưa toan xếp dạng bè dày rất giống với hình ảnh ung thư biểu mô tế bào gan. Trong nghiên cứu của chúng tôi gặp 11,5% trường hợp không phân biệt được hình thái ung thư đường mật trong gan với ung thư biểu mô tế bào gan trên hình ảnh HE thường quy. Những trường hợp này phải dựa vào biểu hiện của dấu ấn miễn dịch. Ung thư thường có thành phần phản ứng mô đệm quanh các tế bào u. Dựa trên ước lượng định tính như đề cập ở phần phương pháp nghiên cứu có 61,5% ung thư đường mật xơ hóa nhiều chiếm, vẫn có 9,6% trường hợp không thấy xơ ở mô u, thường gặp ở những trường hợp các đám tế bào u giống ung thư tế bào gan (Bảng 2). Chính đặc điểm xơ và hình ảnh tế bào không rõ hạt nhân, không tạo mật giúp phân biệt với với ung thư tế bào gan[9] nhưng đôi khi là rất khó phân biệt với ung thư biểu mô tuyến di căn gan và những trường hợp này phải dựa vào dấu ấn hóa mô miễn dịch. Viêm cũng là hiện tượng hay gặp trong phản ứng mô đệm u nói chung và trong ung thư biểu mô đường mật trong gan viêm mức độ nhiều chiếm 30,8%, còn lại là thâm nhiễm viêm ít thậm chí là không thấy hình ảnh viêm trên mảnh sinh thiết. Hoại tử khối u là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ ác tính một số u nói chung. Trong ung thư đường mật trong gan thể hiện trên mảnh sinh thiết đặc điểm hoại tử u không phải là phổ biến, chỉ chiếm 15,4%. Đặc điểm hóa mô miễn dịch Những đặc điểm lâm sàng mơ hồ và chẩn đoán hình ảnh không đặc hiệu, đặc điểm mô bệnh học chủ yếu là hình thái tuyến nên ung thư đường mật trong gan đôi khi rất khó phân biệt với những trường hợp ung thư di căn và ung thư gan nguyên phát. Qua nghiên cứu thấy ung thư đường mật trong gan có tỷ lệ CK7 và CK19 dương tính gần như 100%, phần lớn ở dạng lan tỏa (Bảng 3). Tuy nhiên những dấu ấn này vẫn không phải là dấu ấn đặc hiệu, chúng có thể biểu hiện trong nhiều ung thư biểu mô khác và do đó cũng khó phân biệt với ung thư tuyến di căn gan. Cần phải phối hợp thêm các dấu ấn khác loại trừ di căn như ở đường tiêu hóa, phần phụ hay phổi....Nhiều tài liệu nói tới cặp đôi CK7/CK20 rất hữu ích để phân biệt với nguồn gốc đường mật và ung thư di căn. Phân biệt với ung thư đại trực tràng di căn gan CK7 âm tính, CK20 dương tính với ung thư đường mật trong gan CK7 dương tính, CK20 âm tính. Trong nghiên cứu này chúng tôi thấy CK20 dương tính chiếm 13,5% (Bảng 3). Nghiên cứu của Cabbie còn cho thấy CK7/CK20 không những có giá trị chẩn đoán ung thư đường mật di và di căn gan mà còn giúp phân biệt ung thư đường mật trong gan (CK7+/CK20-) và ung thư đường mật ngoài gan (CK7+/CK20+). Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ ung thư đường mật trong gan CK20 dương tính[3]. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 13,5% trường hợp CK20 dương tính (Bảng 3). Những trường hợp dương tính này thường liên quan đến thay đổi dị sản ruột và những trường hợp này u đều ở vị trí gần rốn gan. CDX2 có giá trị để phân biệt với những trường hợp ung thư đại trực tràng[2],[4] nhưng trong đường tiêu hóa nói chung như đường mật CDX2 vẫn dương tính. Trong nghiên cứu này chúng tôi thấy CDX2 dương tính 9,6% (Bảng 3). Ngoài ra những dấu ấn như TTF1 giúp chẩn đoán phân biệt với một số ung thư tuyến phổi hay ung thư tuyến giáp[7] cũng biểu hiện dương tính trong ung thư biểu mô đường mật trong gan nhưng dưới dạng ổ (12,5%). KẾT LUẬN Hình ảnh mô bệnh học và dấu ấn CK7, CK19 dương tính mạnh, lan tỏa hữu và Hepar-1 dương tính ổ hữu ích trong xác định ung thư đường mật trong gan, tuy nhiên, CK20, TTF1 cũng có tỷ lệ dương tính. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 217 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Đình Tho, Nguyễn Tiến Quyết, Đoàn Thanh Tùng, Nguyễn Hải Nam (2005), “Mọt số đạc điểm dịch tễ học của ung thư đường mạt”. Y học Viẹt nam, tạp 310, 26-33. 2. Bosman FT, Carneiro F, Hruban RH et al (2019). Tumors of the liver and intrahepatic bile ducts in WHO classification of tumours of the digestive system, vol 3, 5th Lyon: International Agency for Research on Cancer. 3. Cabibi D, Licata A, Barresi E et al (2003), Expression of cytokeratin 7 and 20 in pathological conditions of the bile tract, Pathol. Res. Pract, 199, 65-70. 4. Chen ZI, Lin F (2015), Application of immunohistochemistry in gastrointestinal and liver neoplasms: new markers and evolving practice, Arch Pathol Lab Med,11-23. 5. Mahul B. A. (2017) Intrahepatic Bile Ducts , AJCC Cancer Staging Manual, 8th Edition, 295- 302. 6. McGlynn KA, Tarone RE, El-Serag HB (2006). A comparison of trends in the incidence of hepatocellular carcinoma and intrahepatic cholan giocarcinoma in the United States. Cancer epidemiology, biomarkers & prevention: a publication of the American Association for Cancer Research, cosponsored by the American Society of Preventive Oncology. 15(6): 1198- 1203. 7. Moldvay J, M Jackel, Bogos Ket al (2004), The role of TTF-1 in differentiating primary and metastatic lung adenocarcinomas, Pathology & Oncology Research, 85-88. 8. Rassi ZE, Partensky C. Scoazec JY. Henry L et al (1999). Lombard-Bohas C, Maddern G. Peripheral cholangiocarcinoma: presentation, diagnosis, pathology and management. European journal of surgical oncology: the journal of the European Society of Surgical Oncology and the British Association of Surgical Oncology, 4, 375-380. 9. Vijgen S, Terris B, Rubbia-Brandt L at al (2017), Pathology of intrahepatic cholangiocarcinoma, HepatoBiliary Surg Nutr, 6(1), 22-34. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 218 ABSTRACT Histopathology and immunohistochemistry in intrahepatic cholangiocarcinoma Background: Intrahepatic cholangiocarcinoma (ICC) has ambiguous clinical symptoms with unspecific image diagnosis. Sometimes, it is difficult to distinguish ICC with metastasis basing on pathological features. Therefore, is it useful to diagnose ICC based on histopathology and immunohistochemistry? Objects and method: 52 patients received ICC diagnosis from 6/2018 to 3/2020. All patients were performed biopsy with 16G needle fast gun. Specimen is at least 1.5cm in length. Biopsy samples were routinely processed and stained with HE staining method. The slides from FFPE were then stained with immunohistochemistry staining method, performing on Benchmark Ultra of Ventana. Histopathological classification followed WHO 2019 criteria. Results: Most of ICC cases had well - differentiated ductal features, accounted for 40,4%, the density of sclerosing stroma was high (61.5%), while necrosis was only 15.4%. All of the cases were positive with CK7, CK19 markers and most of them show diffuse pattern. The figure for CK 20 and Hepar-1 was respectively 17.3% and 18.2% but all was and focal expression. TTF1 were also positive at 12.5%. Conclusion: Features of histopathology accompanied by strong, diffuse positive with CK7, CK19 and focal positive with Hepar-1 are useful for ICC diagnosis. However, TTF1 and CK20 have minor rates of positive presence. Key words: Intrahepatic cholangiocarcinoma, Histopathology, Immunohistochemistry.
File đính kèm:
- dac_diem_mo_benh_hoc_va_hoa_mo_mien_dich_trong_ung_thu_duong.pdf