Đặc điểm mao dẫn và khả năng ứng dụng của xỉ đáy nhiệt điện than làm vật liệu chống mao dẫn muối cho công trình xây dựng ven biển
Việc nghiên cứu tận dụng phế thải công nghiệp cũng như tìm kiếm các giải pháp công
trình chống nhiễm mặn, đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng ven biển được các tác giả quan
tâm từ lâu. Trong bài báo này, các tác giả tập trung phân tích đặc điểm mao dẫn để tìm ra nhóm hạt
xỉ đáy kích thước phù hợp, sử dụng trong thiết kế móng công trình có khả năng hạn chế, ngăn chặn
ảnh hưởng của muối trong nước ngầm do xâm nhập mặn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, (1) chiều
cao mao dẫn tỉ lệ nghịch với kích thước hạt: hạt càng lớn, chiều cao mao dẫn càng nhỏ và ngược lại.
Nhóm hạt xỉ đường kính từ 2,0-5,0 mm có chiều cao mao dẫn trung bình 3,33 cm; nhóm hạt kích
thước 1,0-2,0 mm là 7,16 cm; nhóm hạt từ 0,5-1,0 mm là 23,36 cm; nhóm hạt 0,1-0,5 mm là 31,26
cm. (2) Chiều cao mao dẫn tỉ lệ nghịch với nồng độ muối trong dung dịch mao dẫn: chiều cao mao
dẫn lớn nhất khi độ mặn dung dịch mao dẫn là 0,0 g/L; nhỏ nhất khi độ mặn dung dịch mao dẫn là
33,0 g/L. Như vậy, xỉ đáy với nhóm kích thước hạt tương đương sạn sỏi (từ 2,0-5,0 mm) có khả
năng ngăn chặn dòng mao dẫn tốt nhất. Nghiên cứu này làm cơ sở cho các giải pháp thiết kế móng
công trình chống mao dẫn muối liên quan đến xâm nhập mặn, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí
hậu và nước biển dâng hiện nay
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm mao dẫn và khả năng ứng dụng của xỉ đáy nhiệt điện than làm vật liệu chống mao dẫn muối cho công trình xây dựng ven biển
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 17-27 17 Original Article Capillary Characteristics and Applicability of Coal Bottom Ash as an Anti-Capillary Material for Coastal Constructions Nguyen Ngoc Truc1, , Nguyen Van Hoang1, Do Ngoc Ha2, Nguyen Thao Ly3 1VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 2Geotest JSC., Pham Hung, My Dinh 1, Hanoi, Vietnam 3Agrarian and Technological Institute, The Peoples' Friendship University of Russia Received 15 November 2019 Revised 17 February 2020; Accepted 26 February 2020 Abstracts: Utilization of Coal bottom ash (CBA) as well as finding the solutions to prevent saline intrusion, meeting the needs of coastal infrastructure development have been considered by the authors of the article for a long time. In this study, the authors focused on analyzing capillary characteristics in order to find a suitable group of CBA particles, which can be applied in the design of foundations with the high ability in restricting or preventing the effects of salt in saline groundwater. The obtained results show that (1) The capillary height is inversely proportional to the particle size: the larger the particle, the smaller the capillary height and vice versa. The CBA group with a diameter of 2.0 - 5.0 mm has an average capillary height around 3.33 cm; a group of particles size of 1.0 - 2.0 mm is 7.16 cm; a group of particles size of 0.5 – 1.0 mm is 23.36 cm. Meanwhile, the group of particles size of 0.1 - 0.5 mm is 31.26 cm. (2) The capillary height is inversely proportional to the salt concentration in the capillary solution: the maximum capillary height exhibits with the lowest capillary solution salinity ~ 0.0 g/L, whereas it reaches minimum value when salinity approximate 33.0 g/L. Thus, CBA with the same particle size of gravel (diameter from 2.0 to 5.0 mm) is able to block capillary flow. This study forms the basis for the design solutions of anti-saline foundation, especially in the context of climate change and sea-level rise. Keywords: Capillary, Coal Bottom Ash, Coal thermo electricity, Saline intrusion, Sea-level rise, Foundation. ________ Corresponding author. E-mail address: trucnn@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4517 N.N. Truc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 17-27 18 Đặc điểm mao dẫn và khả năng ứng dụng của xỉ đáy nhiệt điện than làm vật liệu chống mao dẫn muối cho công trình xây dựng ven biển Nguyễn Ngọc Trực1, , Nguyễn Văn Hoàng1, Đỗ Ngọc Hà2, Nguyễn Thảo Ly3 1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 2Công ty cổ phần Geotest, Phạm Hùng, Mỹ Đình 1, Hà Nội, Việt Nam 3Viện Khoa học Nông nghiệp, Đại học Hữu nghị các Dân tộc Liên Bang Nga Nhận ngày 15 tháng 11 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 17 tháng 02 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 26 tháng 02 năm 2020 Tóm tắt: Việc nghiên cứu tận dụng phế thải công nghiệp cũng như tìm kiếm các giải pháp công trình chống nhiễm mặn, đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng ven biển được các tác giả quan tâm từ lâu. Trong bài báo này, các tác giả tập trung phân tích đặc điểm mao dẫn để tìm ra nhóm hạt xỉ đáy kích thước phù hợp, sử dụng trong thiết kế móng công trình có khả năng hạn chế, ngăn chặn ảnh hưởng của muối trong nước ngầm do xâm nhập mặn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, (1) chiều cao mao dẫn tỉ lệ nghịch với kích thước hạt: hạt càng lớn, chiều cao mao dẫn càng nhỏ và ngược lại. Nhóm hạt xỉ đường kính từ 2,0-5,0 mm có chiều cao mao dẫn trung bình 3,33 cm; nhóm hạt kích thước 1,0-2,0 mm là 7,16 cm; nhóm hạt từ 0,5-1,0 mm là 23,36 cm; nhóm hạt 0,1-0,5 mm là 31,26 cm. (2) Chiều cao mao dẫn tỉ lệ nghịch với nồng độ muối trong dung dịch mao dẫn: chiều cao mao dẫn lớn nhất khi độ mặn dung dịch mao dẫn là 0,0 g/L; nhỏ nhất khi độ mặn dung dịch mao dẫn là 33,0 g/L. Như vậy, xỉ đáy với nhóm kích thước hạt tương đương sạn sỏi (từ 2,0-5,0 mm) có khả năng ngăn chặn dòng mao dẫn tốt nhất. Nghiên cứu này làm cơ sở cho các giải pháp thiết kế móng công trình chống mao dẫn muối liên quan đến xâm nhập mặn, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng hiện nay. Từ khóa: Mao dẫn, xỉ đáy, nhiệt điện than, nhiễm mặn, nước biển dâng, công trình dân dụng. 1. Mở đầu Nhiễm mặn là một loại hình thiên tai khá phổ biến ở các quốc gia ven biển, nhất là những vùng đất thấp ven biển. Trong bối cảnh biến đổi khi hậu và nước biển dâng, quá trình xâm nhập mặn diễn ra mạnh mẽ và ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, kinh tế, xã hội và cơ sở hạ tầng. Độ mặn của đất được xác định thông qua nồng độ muối trong dung dịch nước chiết xuất từ đất bão hòa. Theo đó, đất được coi là không nhiễm mặn ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: trucnn@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4517 nếu có nồng độ muối ≤ 3 g/L, khi nồng độ này ≥ 12 g/L thì đất được coi là đất nhiễm mặn [1]. Ảnh hưởng của nhiễm mặn đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ lâu, đáng kể tới như các tác giả M.N. Terletskaya; A.I. Grot; A.E. Oradovskaya; L.N. Lomize... đã nghiên cứu trên nhiều loại đất khác nhau [2-4]. V.P. Petrukhin từ những nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm trên các loại đất hoàng thổ có chứa thạch cao khu vực Trung Á, Kazakhstan, Ukraine... Ông đã đề cập đến biến dạng xói ngầm, đặc trưng độ bền của N.N. Truc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 17-27 19 đất nhiễm mặn, những điểm cần quan tâm chú ý trong việc khảo sat địa kỹ thuật cũng như thiết kế móng cho công trình xây dựng trên đất nhiễm mặn thuộc các vùng đất nói trên [3,5]. Mặc dù vậy, một giải pháp chống nhiễm mặn hiệu quả cho công trình vẫn chưa được đưa ra trong các nghiên cứu này. Ở trong nước, có nhiều tác giả tập trung nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng chủ yếu về các ... m thí nghiệm. Các kết quả thí nghiệm được thể hiện trên bảng 2, qua đó có thể nhận thấy, hỗn hợp tro xỉ đáy lò nhiệt điện than có hệ số thấm trung bình là 1,04.10-4 cm/s. Nhóm cấp hạt tương đương sạn sỏi có hệ số thấm lớn nhất, xấp xỉ 1,117.10-3; nhóm cấp hạt tương đương cát mịn có hệ số thấm nhỏ nhất, khoảng 1,866.10-5. Bảng 2. Hệ số thấm của xỉ đáy nhiệt điện Phả Lại Cấp hạt vật liệu Hệ số thấm (cm/s) Hỗn hợp 1,04.10-4 Sạn sỏi 1,117.10-3 Hạt thô 7,45.10-4 Hạt trung 7,74.10-4 Hạt mịn 1,866.10-5 3.2. Đặc điểm mao dẫn của xỉ đáy nhiệt điện trong môi trường nhiễm mặn Các thí nghiệm trong phòng tập trung xác định chiều cao mao dẫn ở các cấp hạt khác nhau. Sử dụng dung dịch mao dẫn có nồng độ muối hòa tan khác nhau nhằm đánh giá ảnh hưởng của độ mặn đến chiều cao mao dẫn. Các số liệu thí nghiệm được đo liên tục theo thời gian cho đến khi chiều cao mao dẫn đạt độ ổn định, tức là giá trị lần đọc sau không khác giá trị lần đọc trước. Hầu hết thời gian thí nghiệm đạt ổn định sau khoảng 2800 phút (khoảng 2 ngày). Thí nghiệm kết thúc sau tối đa 3500 phút. Thí nghiệm xác định khả năng mao dẫn của xỉ đáy nhiệt điện than trong môi trường nhiễm mặn được tiến hành với 7 cấp nồng độ muối, gồm 0,0g/l; 4,95g/l; 9,9g/l; 14,85g/l; 19,8g/l; 24,75g/l; và 33,0g/l. Việc lựa chọn các cấp nồng độ muối dựa vào độ mặn trung bình của nước biển Việt Nam. Nếu xem nồng độ 0,0 g/l tương ứng với 0% độ mặn nước biển thì 33,0 g/l tương ứng với 100% độ mặn trung bình của nước biển. Các cấp nồng độ muối được lựa chọn ở trên là giá trị trung bình từ 0 đến 100%. Giá trị chiều cao mao dẫn cho mỗi cấp kích thước hạt của vật liệu là giá trị số đọc cuối cùng, và cũng là giá trị lớn nhất trên đường cong. Bảng 3 tóm lược các giá trị chiều cao mao dẫn của các dung dịch trong các cấp hạt thí nghiệm của xỉ đáy. Bảng 3. Chiều cao mao dẫn của dung dịch với nồng độ muối khác nhau trong xỉ đáy lò Cấp hạt Nồng độ dung dịch mao dẫn (g/L) 0,0 4,95 9,9 14,85 19,8 24,75 33,0 Hạt mịn 36,5 34,0 28,5 29,8 31,2 32,8 26,0 Hạt trung 26,9 25,2 24,5 21,2 20,0 23,2 22,5 Hạt thô 9,5 7,7 6,5 6,3 5,6 7,5 7,0 Sạn sỏi 4,8 4,0 3,0 2,5 2,2 3,5 3,3 Kết quả thí nghiệm là đường cong thể hiện mối quan hệ giữa chiều cao mao dẫn (cm) theo thời gian (phút). Với tất cả 4 cấp hạt đều có thể xây dựng được phương trình quan hệ giữa chiều cao mao dẫn theo thời gian tương ứng với mỗi nồng độ muối. Ở giai đoạn đầu của thí nghiệm, sự gia tăng chiều cao mao dẫn diễn ra rất nhanh, phương trình quan hệ có dạng đường cong của hàm logarit y = a.ln(x) + b. Tiếp theo là giai đoạn ổn định với đường cong đi ngang, phương trình quan hệ có dạng hàm tuyến tính bậc nhất y = ax + b, với y là chiều cao mao dẫn, x là thời gian. Hệ số tương quan R2 của các hàm này đều lớn hơn 0,85 (Hình 6). N.N. Truc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 17-27 24 Hình 6. Chiều cao mao dẫn (hk) theo thời gian (t) trong từng loại dung dịch mao dẫn của các nhóm xỉ đáy. N.N. Truc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 17-27 25 Từ các đường cong hk - t, có thể nhận thấy chiều cao mao dẫn quan hệ tỉ lệ nghịch với kích thước hạt của xỉ đáy. Kích thước hạt càng tăng thì khả năng mao dẫn càng giảm, cấp hạt tương đương cát mịn có chiều cao mao dẫn lớn nhất, cấp hạt tương đương sạn sỏi có chiều cao mao dẫn nhỏ nhất. Cụ thể, hạt cấp hạt sạn sỏi (5-2 mm) có chiều cao mao dẫn trung bình 3,33 cm; với cát hạt thô (2-1 mm) là 7,16 cm; cát hạt trung (1-0,5 mm) là 23,36 cm; cát hạt mịn (0,5-0,1 mm) là 31,26 cm. Kết quả phân tích thu được cho thấy, diễn biến quá trình mao dẫn theo thời gian của dung dịch muối trong xỉ đáy có tính quy luật. Đánh giá một cách khái quát, chiều cao mao dẫn trong các cấp hạt xỉ đáy giảm khi bị nhiễm mặn. Tuy nhiên, diễn biến sự thay đổi chiều cao mao dẫn theo các nồng độ muối khá phức tạp. Hình 7 thể hiện mối quan hệ chiều cao mao dẫn (hk) theo nồng độ muối của các nhóm kích thước hạt, trong đó, đường đứt đoạn màu đỏ là đường trung bình diễn biến chiều cao mao dẫn. Với cấp hạt tương đương cát hạt trung, cát hạt thô và sạn, chiều cao mao dẫn giảm dần khi nồng độ muối tăng lên từ 0,0; 4,95; 9,9; 14,85 đến 19,8 g/L. Sau đó, từ độ mặn 19,8 g/L đến 24,75 g/L, chiều cao mao dẫn tăng nhẹ lên cao hơn giá trị hk ở các độ mặn trước, nhưng vẫn thấp hơn hk trường hợp dung dịch mao dẫn 0,0 g/L. Khi nồng độ muối cao hơn 24,75 g/L và tăng đến 33,0 g/L, chiều cao mao dẫn giảm dần với mức giảm khá lớn. Hình 7. Chiều cao mao dẫn (hk) theo nồng độ muối của các nhóm kích thước hạt xỉ đáy. Với nhóm vật liệu cấp hạt mịn, sự giảm chiều cao mao dẫn khi nhiễm mặn chỉ diễn ra khi dung dịch mao dẫn có độ mặn từ 0,0 đến 9,9 g/L. Khi độ mặn mặn vượt quá 9,9 g/L lên đến 24,75 g/L, chiều cao mao dẫn hk tăng dần đáng kể. Sau độ mặn 24,75 g/L, chiều cao mao dẫn lại giảm mạnh, thấp hơn chiều cao mao dẫn tại 0,0 g/L. Như vậy có thể nhận thấy, chiều cao mao dẫn hk trong xỉ đáy đạt giá trị cao nhất khi dung dịch bão hòa chưa bị nhiễm mặn, hay nồng độ muối là 0,0 g/L; và hk hầu như nhỏ nhất khi dung dịch bão hòa đạt đến độ mặn nghiên cứu, tương đương nước biển tự nhiên (33,0 g/L). Ở khía cạnh kích thước hạt, hk tỉ lệ nghịch với đường kính mao dẫn, hay đường kính hạt. Chiều cao mao dẫn lớn nhất khi môi trường bão hòa có cấp hạt tương đương cát hạt mịn, và nhỏ nhất trong môi trường bão hòa có cấp hạt tương đương sạn sỏi. 4. Thảo luận Chiều cao mao dẫn được tính toán lý theo các nguyên lý vật lý thông thường. Chiều cao đó phụ thuộc vào độ đồng nhất của môi trường mao dẫn, hình dạng và kích thước hạt vật liệu trong môi trường (tức là góc thấm ướt, và bán kính mao quản), thành phần hóa học và nồng độ dung dịch mao dẫn (tức là sức căng bề mặt và khối lượng riêng của dung dịch). Do đó, kết quả thí nghiệm thu được có sự phân dị khá rõ ràng giữa các mẫu vật liệu, các cấp hạt, và nồng độ muối của dung dịch. Trong môi trường nhiễm mặn, chiều cao mao dẫn của dung dịch nhỏ hơn khi chưa nhiễm mặn là do nồng độ muối trong dung dịch càng tăng thì khối lượng riêng γ của nước càng cao. Đồng thời, khi nồng độ muối tăng dẫn đến sức căng bề mặt dung dịch δ giảm xuống, điều này dẫn đến góc thấm ướt θ của dung dịch tăng lên, khi đó giá trị cosθ trong công thức (*) giảm xuống. Bên cạnh đó, chiều cao mao dẫn hk còn phụ thuộc vào thành phần hóa học của dung dịch bão hòa. Ví dụ, dung dịch chứa muối ăn natri chlorua NaCl thường làm chiều cao mao dẫn thấp hơn dung dịch nước tinh khiết, trong khi dung dịch chứa N.N. Truc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 17-27 26 kiềm NaOH làm chiều cao mao dẫn cao hơn cả dung dịch nước tinh khiết và natri chlorua NaCl. Trong nghiên cứu này, sự biến đổi chiều cao mao dẫn trong xỉ đáy từ các cấp hạt tương đương sạn sỏi, cát hạt thô, cát hạt trung và cát hạt mịn thể hiện rất rõ ràng, do kích thước hạt liên quan đến bán kính mao quản. Cấp hạt càng lớn, chiều cao mao dẫn càng nhỏ và ngược lại. Ảnh hưởng của nồng độ muối trong dung dịch lên chiều cao mao dẫn ở cùng một cấp kích thước hạt thể hiện khá phức tạp. Giai đoạn độ mặn nghiên cứu ở mức trung gian trung gian, tức là từ 19,8 g/L đến 24,75 g/L, chiều cao mao dẫn tăng lên cao hơn chiều cao ở các độ mặn trước liên trước. Mặc dù sự gia tăng chiều cao mao dẫn khi độ mặn tăng lên chỉ xảy ra với giá trị vừa phải, chưa vượt quá chiều cao ban đầu nhưng đây là điều khá bất thường. Cần có thêm số lượng các thí nghiệm để khẳng định và giải thích điều này. Đường xu thế hay đường giá trị trung bình của chiều cao mao dẫn theo nồng độ muối của các nhóm kích thước hạt xỉ đáy vẫn giảm dần khi nồng độ muối tăng lên. Xỉ đáy nhiệt điện than đã được quan tâm nghiên cứu và ứng dụng nhiều trên thế giới. Chúng được đề xuất sử dụng làm vật liệu xây dựng, san lấp và phụ gia. Mặc dù vậy, hầu như chưa có các ý tưởng nghiên cứu ứng dụng xỉ đáy làm vật liệu chống mao dẫn muối liên quan đến nhiễm mặn cho công trình xây dựng dân dụng, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Vì thế, nghiên cứu này sẽ là cơ sở cho các giải pháp thiết kế móng, công trình chống mao dẫn muối liên quan đến xâm nhập mặn. Cụ thể, trong thiết kế móng công trình, có thể dựa vào tương quan giữa chiều cao mao dẫn với kích thước hạt để bố trí một lớp đá sạn dăm dưới nền và trên mực nước ngầm để ngăn chặn dòng mao dẫn, từ đó sẽ giảm được sự lan truyền muối trong thân công trình. 5. Kết luận Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng, tai biến nhiễm mặn diễn ra ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến các họat động kinh tế - công trình ven biển. Trong bài báo này, các tác giả đề cập đến khả năng ứng dụng của xỉ đáy nhiệt điện than làm vật liệu chống mao dẫn muối cho công trình dân dụng ven biển. Nguồn xỉ đáy được lấy từ nhà máy nhiệt điện Phả Lại, Hải Dương. Chúng được rây để phân chia thành các nhóm cấp hạt tương đương sạn sỏi, cát thô, cát vừa, cát mịn. Dung dịch dùng cho thí nghiệm mao dẫn là nước biển nhân tạo có các nồng độ muối 0,0; 4,75; 9,9; 14,85; 19,8, 24,75; và 33,0 g/L. Thí nghiệm được thực hiện nhằm xác định chiều cao mao dẫn theo thời gian của các nhóm hạt xỉ trong các môi trường nhiễm mặn khác nhau. Kết quả nghiên cứu đã xác định được nhóm kích thước hạt có khả năng ngăn chặn dòng mao dẫn, chống nhiễm mặn và lan truyền muối trong thân công trình. Cụ thể: - Chiều cao mao dẫn tỉ lệ nghịch với kích thước hạt. Hạt càng lớn, chiều cao mao dẫn càng nhỏ và ngược lại. Nhóm hạt xỉ kích thước tương đương sạn sỏi (5-2 mm) có chiều cao mao dẫn trung bình 3,33 cm; với cát hạt thô (2-1 mm) là 7,16 cm; cát hạt trung (1-0,5 mm) là 23,36 cm; cát hạt mịn (0,5-0,1 mm) là 31,26 cm. - Chiều cao mao dẫn tỉ lệ nghịch với nồng độ muối trong dung dịch mao dẫn. Chiều cao mao dẫn lớn nhất khi độ mặn dung dịch mao dẫn là 0,0 g/L; nhỏ nhất khi độ mặn dung dịch mao dẫn là 33,0 g/L. Sự phụ thuộc của chiều cao mao dẫn vào nồng độ muối không quá lớn trong nhóm hạt tương đương sạn sỏi và hạt thô, do đó có thể xem xét sử dụng các nhóm hạt này làm vật liệu chống mao dẫn muối cho công trình dân dụng ven biển. Lời cảm ơn Bài báo được hoàn thành với sự hỗ trợ của đề tài cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số: QG. 18.15 “Nghiên cứu ảnh hưởng và đề xuất các giải pháp kỹ thuật giảm thiểu tác động của xâm nhập mặn đến ổn định nền-móng công trình xây dựng dân dụng trên nền đất yếu ven biển thành phố Hải Phòng”. N.N. Truc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 17-27 27 Tài liệu tham khảo [1] N.N. Truc, A.L. Mihova.“Soft soil in salt-affected media”, Vietnam National University Press 9/2015. [2] A.L. Mihova, N.N. Truc “Bearing capacity analysis of hanoi soft ground improved with a reinforced foundation pad”. [3] A.L. Mihova, N.N. Truc, “Constitutive models for settlement analysis of soft salt-affected ground”, 14th International Scientific Conference VSU'2014, 9/2014. [4] ASTM International, (2014), Active Standard ASTM C1585-13. [5] V.P. Petrukhin, “Construction of structures on saline soils”, A.A. Balkema/Rotterdam.Brookfield, 1993. [6] D.M. Toan, “Formation of the geological characteristics of Holocene sedimentary formations on the Marine – swamp origin in the Northern and the ability to use them for construction purposes”, Candidate of Sciences thesis in Geography - Geology, Ha Noi University of Mining and Geology, 1993. (in Vietnamese). [7] T.V. Lan, "Utilization on the effect of saline environment and salinization on the stability and deformation of construction works' foundation", PhD thesis in Engineering, The Southern Institute of Water Resources Research, Ho Chi Minh city, 2002. (in Vietnamese). [8] N.N. Truc, L. Mihova, Hanoi Cohesive Soil in Salt-Affected Conditions: Soil Properties and 2D Consolidation Analysis. International Journal of Civil Engineering, https://doi.rog/10.1007/s40999 -019-00422-5, 2019. [9] N.N. Truc, L. Mihova, T. Mukunoki, D.M. Duc, Effect of Saline Intrusion on the Properties of Cohesive Soils in the Red River Delta, Vietnam, Marine Georesources & Geotechnology, 2019. [10] N.N. Truc, L.A. Mihova, Soft soil in salt - affected media: geotechnical perspectives. VNU Press, Hanoi, 282p, 2015. [11] L.A. Mihova, N.N. Truc, Bearing capacity analysis of Hanoi soft ground improved with reinforced foundation pad, Engineering Science, Year LIII, Scientific journal of the Bulgarian Academy of Sciences, 2016. [12] L.A. Mihova, N.N. Truc, 2015. Study of deformation of salt-affected soils by FEM, a case study of soft soil in the Red River delta, Vietnam. ECSMGE 17 (12) (2015) 4013-4018. ICE Publishing, https://doi.rog/10.1680/ecsmge.60678.vol7.634. [13] N.N. Truc, “Some geotechnical characteristics of Hanoi soft soil in saline environment”, VNU Journal of science, Natural science and technology 30 (2S) (2014) 12-20. (in Vietnamese). [14] N.N. Truc, B. Kirov, Secondary consolidation of hanoi soft soil in saline saturated media related to climate change induced sealevel rise, 2013. [15] Vietnamese Government, The Approval of Revisions to the National Power Development Plan from 2011 to 2020 with Visions Extended to 2030, Vietnamese Government, Hanoi, Vietnam, 2016. [16] L.N. Hai, N. K, “Fly ash and applications”, Ha Noi: Economic and Technology Information - CNHC Vol 06-2014. (in Vietnamese). [17] ASTM International, (2014), Active Standard ASTM C1585-13. [18] Vietnam Standards TCVN 4315:2007 in Granulated blast furnace slag for cement production. (in Vietnamese).
File đính kèm:
- dac_diem_mao_dan_va_kha_nang_ung_dung_cua_xi_day_nhiet_dien.pdf