Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối

Đánh giá đặc điểm lâm sàng

và hình ảnh Xquang tổn thương khớp gối.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:

Mô tả cắt ngang 250 người bệnh thoái hoá

khớp gối được chẩn đoán và điều trị tại

phòng khám 204 của bệnh viện và điều trị

tại khoa Nội A bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam

Định từ tháng 1/2020 đến 8/2020. Tiến

hành thu thập số liệu lâm sàng, xét nghiệm

và các dấu hiệu Xquang theo mẫu bệnh

án có sẵn và đưa ra kết quả theo mục tiêu

nghiên cứu. Kết quả: Người bệnh trên 70

tuổi chiếm 59,6% thường gặp ở nữ (68,8%).

Người bệnh bị đau cả hai khớp gối chiếm

75,2%; hạn chế vận dộng khớp gối chiếm

88,4%; phá rỉ khớp: 78,8%, đau khớp khi

đi bộ: 78%, lạo xạo khi cử động: 94%; dấu

hiệu bào gỗ: 65,2%; đau đầu xương khi

khám 52,4%; theo phân loại Lequesne có

72,4% người bệnh tổn thương từ mức độ

nặng trở lên. Tất cả người bệnh đều có gai

xương trên hình ảnh X-quang, trong đó gai

xương mâm chày chiếm 74,4%; gai xương

bánh chè 53,6%; hẹp khe khớp 69.6%;

theo phân loại Kellgren và Laxvrence tổn

thương X-quang giai đoạn III, IV là 69,6%.

Kết luận: Tuổi, chỉ số khối cơ thể có mối

liên quan với hình ảnh tổn thương khớp

trên X-quang theo Kellgren và Lawrence:

Tuổi càng cao, cân nặng càng nhiều, thì

tổn thương khớp gối trên X-quang càng

nặng.

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối trang 1

Trang 1

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối trang 2

Trang 2

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối trang 3

Trang 3

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối trang 4

Trang 4

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối trang 5

Trang 5

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối trang 6

Trang 6

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối trang 7

Trang 7

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối trang 8

Trang 8

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 7380
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh x - Quang và một số yếu tố liên quan đến tổn thương khớp gối
109
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
Người chịu trách nhiệm: Trần Thị Vân Anh
Email: vananhdl2015@gmail.com 
Ngày phản biện: 27/5/2021
Ngày duyệt bài: 01/6/2021
Ngày xuất bản: 28/6/2021
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, HÌNH ẢNH X-QUANG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ 
LIÊN QUAN ĐẾN TỔN THƯƠNG KHỚP GỐI
Trần Thị Vân Anh1, Tưởng Thị Huế1, 
Phạm Thị Thu1, Vũ Thị Hồng Nhung1, Nguyễn Thị Thu Hường1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm lâm sàng 
và hình ảnh Xquang tổn thương khớp gối. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 
Mô tả cắt ngang 250 người bệnh thoái hoá 
khớp gối được chẩn đoán và điều trị tại 
phòng khám 204 của bệnh viện và điều trị 
tại khoa Nội A bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam 
Định từ tháng 1/2020 đến 8/2020. Tiến 
hành thu thập số liệu lâm sàng, xét nghiệm 
và các dấu hiệu Xquang theo mẫu bệnh 
án có sẵn và đưa ra kết quả theo mục tiêu 
nghiên cứu. Kết quả: Người bệnh trên 70 
tuổi chiếm 59,6% thường gặp ở nữ (68,8%). 
Người bệnh bị đau cả hai khớp gối chiếm 
75,2%; hạn chế vận dộng khớp gối chiếm 
88,4%; phá rỉ khớp: 78,8%, đau khớp khi 
đi bộ: 78%, lạo xạo khi cử động: 94%; dấu 
hiệu bào gỗ: 65,2%; đau đầu xương khi 
khám 52,4%; theo phân loại Lequesne có 
72,4% người bệnh tổn thương từ mức độ 
nặng trở lên. Tất cả người bệnh đều có gai 
xương trên hình ảnh X-quang, trong đó gai 
xương mâm chày chiếm 74,4%; gai xương 
bánh chè 53,6%; hẹp khe khớp 69.6%; 
theo phân loại Kellgren và Laxvrence tổn 
thương X-quang giai đoạn III, IV là 69,6%. 
Kết luận: Tuổi, chỉ số khối cơ thể có mối 
liên quan với hình ảnh tổn thương khớp 
trên X-quang theo Kellgren và Lawrence: 
Tuổi càng cao, cân nặng càng nhiều, thì 
tổn thương khớp gối trên X-quang càng 
nặng.
Từ khoá: Thoái hoá khớp gối, tổn 
thương khớp gối, X-quang khớp gối
CLINICAL CHARACTERISTICS, XRAY IMAGES AND SOME FACTORS RELATED TO
KNEE INJURY: CROSS-SECTIONAL STUDY
ABSTRACT
Objective: To assess clinical features 
and X-ray imaging of knee joint damage. 
Method: Cross-sectional study of 250 
osteoarthritis patients diagnosed and 
treated at the hospital’s 204 clinic and 
treated at the Nam Dinh General Hospital 
from January 2020 to August 2020. To 
collect clinical data, tests and radiological 
signs according to available medical 
records and give results base on medical 
records Analysis of algorithm data baw 
on statistical software and give results to 
research objectives. Results: Patients 
over 70 years old accounted for 59.6%, 
women (68.8%). Patients with pain in both 
knee joints accounted for 75.2%; limited 
movement of the knee joint accounts for 
88.4%; joint leakage: 78.8%, joint pain 
when walking: 78%, scratching the joints: 
94%; signs of wood shavings: 65.2%; 
bone headache at examination 52.4%; 
according to Lequesne classification, there 
110
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
were 72.4% of patients with severe injury 
or more. All patients had bone spines on 
X-ray images, of which tibial plateau spines 
accounted for 74.4%; kneecap spines 
53.6%; narrow joints 69.6%; according 
to Kellgren and Laxvrence classification, 
X-ray lesions of stage III and IV were 
69.6%. Conclusion: Age, body mass index 
is related to X-ray image of joint damage 
according to Kellgren and Lawrence: The 
older you are, the more weight you weigh, 
the more severe the damage to the knee 
joint on the radiograph is.
Keywords: Osteoarthritis of the knee, 
knee injury, X-ray of the knee
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoái hoá khớp thường gặp ở những 
khớp chịu tải như khớp gối, khớp háng, cột 
sống, trong đó hay gặp nhất là thoái hóa 
khớp gối. Tổn thương cơ bản của bệnh là 
tình trạng thoái hóa gây hủy và rách sụn, 
tiếp theo là những thay đổi của màng hoạt 
dịch và phần xương dưới sụn [1]. Đây 
chính là nguyên nhân gây đau và hạn chế 
chức năng đi lại, sinh hoạt thậm chí mất 
khả năng vận động, có thể gây tàn phế ở 
người cao tuổi [2]. 
Tại Mỹ, điều tra hơn 80% người trên 
55 tuổi có biểu hiện thoái hoá khớp trên 
phim chụp X-quang trong đó có 10-20% số 
người có triệu chứng hạn chế vận động. Và 
người bệnh phải chi phí cho điều trị bằng 
thuốc lên tới 141,98 đô la Mỹ trong vòng 
30 ngày [3]. Tại Pháp, thoái hóa khớp gối 
chiếm 28,6% tổng số các bệnh về xương 
khớp, có đến 3,4 triệu người điều trị thoái 
hóa khớp mỗi năm. Nhiều người bị thoái 
hóa khớp đã rơi vào tình trạng tàn tật vĩnh 
viễn do điều trị quá muộn hoặc không đúng 
hướng.
Thoái hóa khớp gối (THKG) là bệnh 
tiến triển chậm, bệnh có thể diễn biến âm 
thầm nhiều năm trước khi có biểu hiện triệu 
chứng lâm sàng. Cho đến nay có nhiều 
phương tiện kỹ thuật trong chẩn đoán hình 
ảnh đã đáp ứng được phục vụ chẩn đoán 
chính xác thoái hoá khớp gối chẳng hạn 
như: X-quang và siêu âm. Theo ước tính, ở 
Mỹ lệ thoái hoá khớp gối có triệu chứng ở 
người trên 60 tuổi khoảng 12% trong khi tỷ 
lệ thoái hóa khớp gối X-quang là 37% [4]. 
Tại Việt Nam, theo một báo cáo cho thấy 
có tới 10% người bệnh cao tuổi mắc bệnh 
xương khớp có liên quan đến thoái hóa 
khớp gối. Một nghiên cứu tại thành phố Hồ 
Chí Minh tỷ lệ thoái hóa khớp gối X-quang 
ở những người trên 40 tuổi là 34,2% [5].
Mặc dù đã có nhiều nhiều nghiên cứu 
mô tả đặc điểm lâm sàng của nhóm người 
bệnh này tại Việt Nam, tuy nhiên các nghiên 
cứu kết hợp mô tả các đặc điểm lâm sàng, 
hình ảnh X-quang và tìm hiểu mối liên 
quan giữa các yếu tố này với tình trạng tổn 
thương khớp gối cũng như các yếu tố khác 
tác động đến mối liên quan này chưa được 
nhiều nghiên cứu đề cập. Phát hiện sớm 
các tổn thương cấu trúc, cũng như mối liên 
quan với triệu chứng lâm sàng để từ đó có 
các biện pháp can thiệp kịp thời và phù hợp 
với giai đoạn bệnh sẽ hạn chế được tỷ lệ 
tàn phế và nâng cao chất lượng sống cho 
người bệnh. Để làm rõ các vấn đề còn tồn 
tại, nghiên cứu này đã được tiến hành với 
mục tiêu: (i) mô tả đặc điểm lâm sàng, hình 
ảnh X-quang ở người bệnh tổn ... thường chiếm 97,2%.
6,4 
21,2 
32,4 
20,8 
19,2 
0
5
10
15
20
25
30
35
Nhẹ Trung bình Nặng Rất nặng Trầm trọng 
Bảng 2. Hình ảnh X-quang của 
bệnh nhân thoái hoá khớp gối
Triệu chứng SL TL %
Mọc gai xương 250 100
Gai xương mâm chày 186 74,4
Gai xương bánh chè 134 53,6
Lồi cầu xương chày 79 31,6
Lồi cầu xương đùi 23 9,2
Đặc xương dưới sụn 145 58,0
Hẹp khe khớp 174 69,6 
Hẹp khe khớp đùi - bánh 
chè 139 55,6
Hẹp khe khớp đùi – chày 158 63,2
Các triệu chứng thực thể của người bị 
THKG thường gặp nhất là lạo xạo xương 
khi khám (chiếm 94%), đau khi cử động 
khớp (90,8%), đau đầu xương khi khám 
(52,4%) và triệu chứng âm tính có giá trị 
chẩn đoán phân biệt là nhiệt độ da vùng 
khớp bình thường chiếm 97,2%.
3.2. Một số yếu tố liên quan với hình 
ảnh tổn thương khớp gối trên Xquang
Bảng 3. Mối liên quan giữa nhóm tuổi 
và tổn thương khớp gối trên X-quang
Hình ảnh 
X-quang
Nhóm tuổi Tổng
SL 
(%)
Dưới 
60 SL 
(%)
60 – 
69 SL 
(%)
Trên 
70 SL 
(%)
Có gai 
xương
21 
(60,0)
25 
(37,9)
30 
(20,1)
76 
(30,4)
Hẹp khe 
khớp
14 
(40,0)
41 
(62,1)
119 
(79,9)
174 
(69,6)
p <0,05
Nhóm dưới 60 tuổi có hình ảnh X-quang 
khớp gối tổn thương ở giai đoạn I và II (có 
gai xương) chiếm tỷ lệ cao nhất (60%). 
Hình ảnh X-quang ở giai đoạn III và IV (có 
hẹp khe khớp) thì nhóm tuổi trên 70 tuổi lại 
chiếm tỷ lệ cao nhất là 79,9%. Sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
114
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
Bảng 4. Mối liên quan giữa BMI và tổn thương khớp gối trên X-quang
Hình ảnh X-quang
BMI
Tổng
SL (%)Gầy 
SL (%)
Bình thường
SL (%)
Thừa cân
SL (%)
Có gai xương 12 (57,1) 33 (32,0) 31 (24,6) 76 (30,4)
Hẹp khe khớp 9 (42,9) 70 (68,0) 95 (75,4) 174 (69,6)
p < 0,05
Có 57,1% người bệnh có chỉ số BMI gầy có tổn thương X-quang khớp ở giai đoạn I và 
II( có gai xương), chỉ có 24,6% người bệnh thừa cân có hình ảnh này. Ngược lại, có đến 
75,4% người bệnh thừa cân có hình ảnh hẹp khe khớp trên X-quang. Sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p < 0,05.
Bảng 5. Mối liên quan giữa mức độ đau và hình ảnh 
tổn thương KG trên X-quang
Hình ảnh X-quang
Mức độ đau
Nhẹ
SL (%)
TB
SL (%)
Nặng
SL (%)
Rất nặng
SL (%)
Trầm trọng
SL (%)
Có gai xương 13 (81,2) 25 (47,2) 21 (25,9) 11 (21,2) 6 (12,5)
Hẹp khe khớp 3 (18,8) 28 (52,8) 60 (74,1) 41 (78,8) 42 (87,5)
p < 0,05
Những người bệnh có mức độ đau khớp nhẹ và trung bình theo chỉ số Lesquesne thì 
hình ảnh X-quang khớp gối hầu hết đều tổn thương ở giai đoạn I và II (có gai xương) 
chiếm lần lượt là 81,2% và 47,2%. Những người bệnh có mức độ đau từ nặng đến trầm 
trọng thì đa số đều tổn thương khớp ở mức độ nặng tương ứng với giai đoạn III và IV trên 
X-quang (hẹp khe khớp) lần lượt chiếm tỷ lệ là 74,1%, 78,8% và 87,5%. Sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê giữa các nhóm với p < 0,05. 
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh 
X-quang của bệnh thoái hoá khớp gối
Đặc điểm lâm sàng chính của THKG là 
đau khớp và hạn chế vận động khớp. Theo 
nghiên cứu này, có 75,2% bị đau khớp gối 
2 bên điều đó chứng tỏ THK có mức độ tiến 
triển đáng kể. Nguyên nhân do người bệnh 
có thói quen tự mua thuốc uống, không tới 
cơ sở y tế khám và điều trị. Trong nghiên 
cứu, tỷ lệ người bệnh thoái hóa khớp gối 
gây hạn chế vận động khớp chiếm tỷ lệ cao 
nhất là 88,4%, đau khớp khi đi bộ (78%), 
đau khớp tăng khi đứng lâu trên 30 phút 
(68,4%), đau khớp khi lên, xuống cầu thang 
(66,8%) và đau khớp ban đêm (73,2%). Kết 
quả này cũng tương tự như kết quả nghiên 
cứu của nhiều tác giả [6]. Điểm khác biệt cơ 
bản về tính chất đau khớp giữa người bệnh 
THK và người bệnh mắc các bệnh khớp 
khác là đau trong THK thường xuất hiện và 
115
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
tăng lên khi vận động nhưng khi nghỉ ngơi 
thì đỡ đau. Hơn nữa, người bệnh THK ít khi 
đau khớp về đêm, những trường hợp đau 
khớp về ban đêm thường liên quan đến 
viêm màng hoạt dịch hoặc có tổn thương 
sụn nặng.
Các triệu chứng thường gặp khi thăm 
khám khớp gối là lạo xạo xương (94%), 
dấu hiệu bào gỗ dương tính (65,2%), và có 
đến 97,2% người bệnh không có thay đổi 
nhiệt độ da vùng khớp. Kết quả này tương 
tự như kết quả của tác giả Nguyễn Thị 
Thanh Phượng [7]. Lạo xạo xương không 
chỉ phát hiện được ở người bệnh THKG 
mà còn phát hiện thấy ở cả những người 
bình thường nhưng với tỷ lệ ít hơn. Nguyên 
nhân gây ra lạo xạo xương là do sụn khớp 
bị tổn thương, bề mặt sụn không còn trơn 
nhẵn mà sần sùi gồ ghề kèm theo dịch 
khớp giảm độ nhớt nên khi cử động khớp 
gối, các sụn bọc đầu xương, thậm chí một 
số người bệnh mất sụn từng ổ chỉ còn lại 
đầu xương cọ sát vào nhau gây ra tiếng lạo 
xạo. Như vậy lạo xạo xương có liên quan 
đến mức độ tổn thương sụn khớp. Đây là 
dấu hiệu phản ánh tình trạng THKG mà 
trong các tiêu chuẩn chẩn đoán của ACR 
và EULAR đều có mặt. Thoái hóa khớp 
gối có ảnh hưởng nhiều nhất đến chức 
năng vận động. Tỷ lệ khớp có hạn chế cử 
động gấp duỗi trong nghiên cứu này chiếm 
31,2%, trong đó chủ yếu hạn chế động tác 
gấp gối. Hạn chế cử động khớp có thể gây 
ra do đau, do tràn dịch làm kéo căng bao 
khớp, gai xương ở vùng rìa, co cơ, yếu cơ 
hoặc kén khoeo. Đây cũng chính là nguyên 
nhân chủ yếu dẫn đến tàn phế. Vì vậy phát 
hiện bệnh và điều trị sớm, quản lý tốt các 
người bệnh THKG hạn chế được các biến 
chứng này sẽ giảm bớt gánh nặng cho gia 
đình và xã hội. 
Thêm vào đó, 100% người bệnh đều 
có gai xương trên X-quang, gai xương ở 
xương bánh chè, xương chày, xương đùi. 
Sau đó là dấu hiệu hẹp khe khớp chiếm 
69,6%, đặc xương dưới sụn chiếm 58%. 
Trong khi nghiên cứu của Nguyễn Thị Ái, 
100% người bệnh THKG có gai xương 
nhưng chỉ có 73,3% có hẹp khe khớp [6]. 
Theo tác giả Đặng Hồng Hoa nghiên cứu 
trên 42 người bệnh THKG được chẩn đoán 
theo tiêu chuẩn ACR-1986, tỷ lệ gai xương là 
85,7%, hẹp khe khớp 83,3% và đặc xương 
78,6% [8]. Như vậy gai xương là dấu hiệu 
đặc trưng thường gặp nhất ở người bệnh 
THKG. Gai xương hình thành là kết quả 
sự đáp ứng của sụn khớp và xương dưới 
sụn với lực cơ học bất thường. Chính vì 
vậy, tiêu chuẩn chẩn đoán THKG của Hiệp 
hội Thấp khớp học Mỹ chủ yếu dựa vào sự 
có mặt của gai xương, còn hẹp khe khớp 
được dùng để đánh giá mức độ tiến triển 
của bệnh. Theo kết quả nghiên cứu tổn 
thương gai xương có thể thấy ở nhiều vị trí 
nhưng hay gặp nhất là ở mâm chày chiếm 
74,4%, tiếp đó là đến gai xương bánh chè 
53,6%, gai xương chày chiếm 31,6% và và 
chỉ có 9,2% người bệnh có gai xương đùi. 
Hẹp khe khớp thường xảy ra ở khớp đùi 
chày chiếm 63,2% và khớp đùi chè chiếm 
55,6%. Như vậy, có 69,6% người bệnh tổn 
thương ở giai đoạn III, IV theo phân loại 
Kellgren và Lavvrence. Kết quả của chúng 
tôi thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả 
Nguyễn Thị Ái và Đặng Hồng Hoa là do 
các các tác giả trên tiến hành nghiên cứu 
tại bệnh viện Bạch Mai là bệnh viện tuyến 
cao nhất ở các tính phía Bắc, hầu như các 
người bệnh nặng đều được các tuyến y tế 
cơ sở phía Bắc chuyển đến đây điều trị, 
còn người bệnh trong nghiên cứu của tôi là 
người bệnh của tuyến tỉnh nên tổn thương 
khớp ở giai đoạn nặng chiếm tỷ lệ thấp hơn. 
Tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu của của Đinh 
Thị Diệu Hằng [9] và Marc [10] do các tác 
giả này tiến hành nghiên cứu người bệnh 
tại cộng đồng.
116
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
4.2. Một số yếu tố liên quan với hình 
ảnh tổn thương khớp gối
Trong nghiên cứu này ta thấy rằng những 
người dưới 60 tuổi có hình ảnh tổn thương 
khớp gối giai đoạn nhẹ (có gai xương) 
chiếm 60% cao hơn hẳn so với tổn thương 
giai đoạn nặng (hẹp khe khớp). Ngược lại, 
những người bệnh trên 70 tuổi thì tỷ lệ hẹp 
khe khớp lại rất cao chiếm 79,9%. Nhiều 
nghiên cứu cho rằng, thoái hóa khớp là quá 
trình lão hóa mang tính quy luật của tổ chức 
sụn, các tế bào, tổ chức ở khớp và quanh 
khớp. Thoái hoá khớp được coi là bệnh 
của người cao tuổi dẫn tới mất chức năng 
của khớp ngày càng tiến triển, nghĩa là tuổi 
càng cao tổn thương thoái hóa càng nặng. 
Bệnh gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe 
cũng như chất lượng cuộc sống của người 
cao tuổi, gây tổn hại đến kinh tế gia đình 
người bệnh và tạo gánh nặng cho chi phí 
y tế. Tuy nhiên, mối liên quan giữa sự gia 
tăng THK cùng với tuổi có vẻ phức tạp, liên 
quan đến cấu trúc của toàn bộ khớp. Đặc 
biệt là những thay đổi của tế bào sụn khớp 
và chất cơ bản. Tuổi càng cao lớp sụn khớp 
tổn thương càng nặng, sụn dần mất đi. Khi 
mất sụn nhiều thì biểu hiện trên X-quang là 
hẹp khe khớp. Như vậy, tuổi càng cao thì 
tỷ lệ hẹp khe khớp trên X-quang càng lớn.
Có mối liên quan chặt chẽ giữa chỉ số 
khối của cơ thể và hình ảnh tổn thương 
khớp gối trên phim X-quang. Có 57,1% 
người bệnh có chỉ số BMI gầy có tổn 
thương X-quang khớp ở giai đoạn I và II 
(có gai xương), nhưng có đến 75,4% người 
bệnh thừa cân có hình ảnh hẹp khe khớp 
trên X-quang. Ở người béo phì (BMI >27kg/
m2), nếu chỉ số khối tăng 1 đơn vị sẽ làm 
tăng 15% nguy cơ mắc THKG [11]. Liên 
quan giữa béo phì và THKG biểu hiện rõ 
nhất ở nữ giới, đặc biệt ở những người có 
dị dạng khớp [12]. Việc tăng cân quá mức tỷ 
lệ thuận với sự gia tăng các triệu chứng của 
bệnh, làm tăng sức nặng đè lên bề mặt sụn 
khớp. Sokoloff cho rằng sự béo phì gây nên 
những thay đổi về tư thế và dáng đi, cũng 
như các hoạt động khác của bộ máy vận 
động. Điều này góp phần đáng kể làm thay 
đổi hoạt động cơ học của khớp, làm tăng 
nguy cơ THK [13]. Các nghiên cứu gần đây 
đã chứng minh rằng, tăng khối mỡ đặc biệt 
ở vùng trung tâm sẽ hoạt hóa các yếu tố 
sinh hóa tạo ra các chất như leptin hoặc 
adiponectin. Leptin kích thích tăng sinh tế 
bào, tăng hoạt động chuyển hoá của các 
tế bào sụn, đồng thời leptin cũng kích thích 
tạo ra các cytokine như IL-6 gây phá huỷ tế 
bào sụn khớp.
Có mối liên quan giữa mức độ tổn thương 
khớp gối theo chỉ số Lequesne và giai đoạn 
tổn thương gối trên X-quang theo Kellgren và 
Lawrence. Nhận xét này tương tự với nhận 
xét của một số tác giả khác: Nguyễn Thị Ái 
[6], Đặng Hồng Hoa [8]: Mức độ nặng nhẹ 
của đau có mối tương quan với các dấu hiệu 
hẹp khe khớp, đặc xương dưới sụn, nhất là 
với mọc gai xương.. Theo Jolanda [13] gai 
xương tiên lượng về đau tốt hơn hẹp khe 
khớp trong một số nghiên cứu nhưng không 
phải tất cả. Cicuttini và cộng sự nghiên cứu 
250 người bệnh THKG đã kết luận có mối 
liên quan chặt chẽ giữa mức độ đau với dấu 
hiệu mọc gai xương trên phim X-quang, họ 
thông báo gai xương trước, sau, bên...có độ 
nhạy 64%, độ đặc hiệu 76% để tiên lượng 
đau. Theo họ có thể dựa vào sự có mặt của 
dấu hiệu mọc gai xương trên các khoang 
khớp gối để dự đoán đau khớp gối trong tiền 
sử. Theo John gai xương kéo căng các đầu 
dây thần kinh ở màng xương, làm co kéo các 
dây chằng trong khớp gây nên sự đau đớn 
cho người bệnh. Vì vậy X-quang thường quy 
vẫn giữ vai trò quan trọng trong chẩn đoán 
THK gối, mặc dù X-quang còn một vài yếu 
điểm như: Chẩn đoán muộn, X-quang không 
phản ánh được vùng sụn bị loét.
117
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu ở 250 đối tượng cho thấy 
tỷ lệ THKG trên 70 tuổi ở nữ giới chủ yếu. 
Hầu hết đều xuất hiện các triệu chứng: đau 
cả hai khớp gối, hạn chế vận động khớp 
gối, phá rỉ khớp Toàn bộ người bệnh đều 
có gai xương trên hình ảnh Xquang. Tuổi, 
chỉ số khối cơ thể và mức độ đau đều có 
mối liên quan có ý nghĩa thống kê so với 
hình ảnh tổn thương khớp. Tuổi càng cao, 
cân nặng càng nhiều, lao động càng nặng 
nhọc thì tổn thương khớp gối trên X-quang 
càng nặng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc Ân (1995). Hư khớp và 
hư cột sống. Bệnh thấp khớp, 193 - 209.
2. J. Bedson and P. R. Croft (2008). 
The discordance between clinical and 
radiographic knee osteoarthritis: a 
systematic search and summary of the 
literature. BMC Musculoskelet Disord, 9, 
116.
3. Murphy L and Helmik C.G (2012). 
The impact of osteoarthritis in The United 
State: A population-Health perspective. 
American journal of Nursing, 112(3), 13 -19.
4. Dillon C.F, Rasch E.K and Gu Q 
(2006). Arthritis data from the third national 
health and nutrition examination survey 
Prevalence of knee osteoarthritis in the 
United states, 33, 2271-2279.
5. L. T. Ho-Pham, T. Q. Lai, L. D. Mai 
et al (2014). Prevalence of radiographic 
osteoarthritis of the knee and its relationship 
to self-reported pain. PLoS One, 9(4), 
e94563.
6. Nguyễn Thị Ái (2006). Nghiên cứu đặc 
điểm lâm sàng, cận lâm sàng và áp dụng 
các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh thoái hoá 
khớp gối. Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Y 
khoa Trường Đại học Y Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Thanh Phượng (2015). 
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng, siêu âm và cộng hưởng từ khớp gối 
ở bệnh nhân thoái hóa khớp gối. Luận án 
tiến sĩ y học
8. Đặng Hồng Hoa (1997). Nhận xét 
một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 
của bệnh hư khớp gối. Luận văn Thạc sỹ y 
học, Trường Đại học Y Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Diệu Hằng (2008). 
Nghiên cứu thực trạng bệnh thoái hoá 
khớp gối và hiệu quả nâng cao năng lực 
chẩn đoán, xử trí của cán bộ y tế xã tại Hải 
Dương Luận án tiến sĩ y học.
10. M. C. Hochberg, R. D. Altman, K. 
D. Brandt et al (1995). Guidelines for the 
medical management of osteoarthritis. Part 
II. Osteoarthritis of the knee. American 
College of Rheumatology. Arthritis Rheum, 
38(11), 1541-6.
11. F. Berenbaum and J. Sellam (2008). 
Obesity and osteoarthritis: what are the 
links? Joint Bone Spine, 75(6), 667-8.
12. G. M. Brouwer, A. W. van Tol, 
A. P. Bergink et al (2007). Association 
between valgus and varus alignment 
and the development and progression of 
radiographic osteoarthritis of the knee. 
Arthritis Rheum, 56(4), 1204-11.
13. Sokoloff L (1969). The pathology of 
degenerative joint disease. The biology of 
degenerative joint disease. The university 
of chicago press, 1-2.

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_lam_sang_hinh_anh_x_quang_va_mot_so_yeu_to_lien_qua.pdf