Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của hội chứng Stevens - Johnson và lyell do dị ứng thuốc
Nghiên cứu được thực hiện trên 102 bệnh nhân có hội chứng Stevens - Johnson và Lyell do thuốc tại Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng, bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2012 đến tháng 6/2013. Kết quả cho thấy tỷ lệ % SJS, TEN là 76,5% và 23,5%: bệnh nhân nam (58,8%) gặp nhiều hơn nữ (41,2%), chủ yếu ở tuổi trung niên 46,6 ± 20,2.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của hội chứng Stevens - Johnson và lyell do dị ứng thuốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của hội chứng Stevens - Johnson và lyell do dị ứng thuốc
TCNCYH 86 (1) - 2014 15 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2014 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG STEVENS - JOHNSON VÀ LYELL DO DỊ ỨNG THUỐC Lương Đức Dũng1, Hoàng Thị Lâm2, Nguyễn Văn Đoàn2 1Tổng cục V, Bộ Công an, 2Trường Đại học Y Hà Nội Nghiên cứu được thực hiện trên 102 bệnh nhân có hội chứng Stevens - Johnson và Lyell do thuốc tại Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng, bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2012 đến tháng 6/2013. Kết quả cho thấy tỷ lệ % SJS, TEN là 76,5% và 23,5%: bệnh nhân nam (58,8%) gặp nhiều hơn nữ (41,2%), chủ yếu ở tuổi trung niên 46,6 ± 20,2. Thuốc gây dị ứng nhiều nhất là Carbamazepine (31,4%). Tỷ lệ bệnh nhân có sốt là 40,2%. Tất cả các bệnh nhân đều có bọng nước, ban xuất huyết và các tổn thương khác, như “ban đỏ hình bia bắn” chiếm 18,6%, mụn nước 87,3% và loét niêm mạc ở các hốc tự nhiên. Tỷ lệ của các bệnh nhân nghiên cứu có thiếu máu, tăng GPT và tăng CRP lần lượt là 16,7%, 55,1% và 88,9%. Bệnh nhân TEN có thiếu máu, tăng GOT, tăng creatinin cao hơn bệnh nhân SIS (p < 0,05). Bệnh nhân TEN có triệu chứng lâm sàng rầm rộ hơn SIS, rõ nhất là tỷ lệ sốt cao, loét trợt da, tổn thương hầu hết các hốc tự nhiên (p < 0,05). Từ khoá: Dị ứng thuốc, hội chứng Stevens-Johnson, Lyell Địa chỉ liên hệ: Lương Đức Dũng, Tổng cục V - Bộ Công an. Email: luongducdungquyet@yahoo.com Ngày nhận: 04/9/2013 Ngày được chấp thuận: 17/2/2014 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hoại tử thượng bì nhiễm độc hay hội chứng Lyell (Toxic Epidermal Necrolysis - TEN) và hội chứng Stevens Johnson (SJS) là tổn thương da, niêm mạc nặng do dị ứng thuốc. Hai hội chứng này rất hiếm gặp với tỷ lệ 1 - 2/106 dân số. Chẩn đoán bệnh hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào tổn thương lâm sàng và khai thác tiền sử dùng thuốc. Các nguyên nhân do thuốc hay gặp nhất là thuốc chống co giật, allopurinol. Yếu tố di truyền cũng đóng vai trò khá quan trọng, đặc biệt ở người châu Á. Người ta quan sát thấy có mối liên quan rõ rệt giữa SJS do dị ứng carbamazepine với những cá nhân có HLA-B*1502 hoặc SJS do dị ứng allopurinol với những cá nhân có HLA- B*5801. TEN và SJS là hai hội chứng nặng nhất, là đích đến của các tổn thương da có bọng nước do thuốc nếu không được điều trị. Tỷ lệ tử vong của hai hội chứng này rất cao, 1 - 5% đối với SJS và 25 - 35% đối với TEN, một cấp cứu y khoa nặng, mối quan tâm hiện nay của các thầy thuốc lâm sàng [1; 9]. Chính vì vậy, đề tài này được thực hiện nhằm mục tiêu: Xác định loại thuốc là nguyên nhân gây ra hội chứng Stevens - Johnson và Lyell. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân dị ứng thuốc có hội chứng Stevens - Johnson và Lyell. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Gồm 102 bệnh nhân được chẩn đoán xác định hội chứng SJS và TEN do dị ứng thuốc, điều trị tại Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng, bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2012 đến tháng 6/2013. 16 TCNCYH 86 (1) - 2014 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 1.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán - Tiền sử dùng thuốc: bệnh nhân có sử dụng thuốc trong vòng 4 tuần trước khi có biểu hiện lâm sàng. - Lâm sàng: có các hội chứng và triệu chứng dị ứng xảy ra sau dùng thuốc, theo phân loại của Bastuji - Garin năm 1993 chia thành 3 hội chứng [10]. SJS: biểu hiện hồng ban đa dạng, ban đỏ, ban xuất huyết trên da; viêm loét niêm mạc 2 hốc tự nhiên trở lên; dấu hiệu Nikolski âm tính; có hoặc không có tổn thương nội tạng; tổng diện tích da có thương tổn bọng nước dưới 10% diện tích cơ thể. - Hội chứng chuyển tiếp giữa hội chứng Stevens-Johnson và Lyell (SJS/TEN - overlap syndrome): thương tổn da là các ban xuất huyết rộng hoặc các thương tổn “hình bia bắn phẳng” và tổng diện tích da có bọng nước từ 10 - 30% diện tích cơ thể. TEN: thương tổn da gồm những bọng nước khổng lồ dễ bị trợt loét rỉ dịch, để lộ nền da đỏ; dấu hiệu Nikolski dương tính; viêm loét hoại tử các hốc tự nhiên; sốt cao và tổn thương nội tạng rất nặng; tổng diện tích da có bọng nước trên 30% diện tích cơ thể. 1.2. Tiêu chuẩn loại trừ - Những bệnh nhân SJS và TEN nhưng không có tiền sử dùng thuốc. - Những bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu. - Bệnh nhân vào viện lần thứ hai trở lên trong thời gian nghiên cứu. 2. Phương pháp: mô tả cắt ngang. * Phương pháp lựa chọn đối tượng nghiên cứu: Các bệnh nhân được lựa chọn theo trình tự thời gian, không phân biệt tuổi tác, giới tính, mức độ nặng nhẹ, giai đoạn của bệnh. Thu thập số liệu: bằng cách sử dụng bệnh án mẫu. Các số liệu nghiên cứu được xử lý bằng phương pháp toán thống kê y học, sử dụng chương trình SPSS 15.0 để tính: trung bình, phương sai, độ lệch chuẩn, khi so sánh dùng test "c2". Ý nghĩa thống kê đạt được khi p < 0,05. Trong nghiên cứu này, có 3 bệnh nhân được chẩn đoán là hội chứng chuyển tiếp SIS - TEN. Tuy nhiên, các bệnh nhân này có tình trạng lâm sàng không khác nhiều bệnh nhân SIS do ít có tổn thương nội tạng nên được xếp vào nhóm SIS để việc xử lý số liệu được thực hiện dễ dàng hơn. 3. Đạo đức nghiên cứu Tất cả các hoạt động tiến hành trong nghiên cứu này đều tuân thủ qui định và nguyên tắc chuẩn mực về đạo đức nghiên cứu y sinh học của Việt Nam và quốc tế. Các hoạt động nghiên cứu hầu như không gây nguy hiểm và các nguy cơ cho đối tượng nghiên cứu. Tất cả các đối tượng nghiên cứu tự nguyện tham gia vào nghiên cứu sau khi được tư vấn đầy đủ. Các số liệu y học mang tính cá nhân trong nghiên cứu được đảm bảo nguyên tắc bí mật. III. KẾT QUẢ Trong 102 bệnh nhân nghiên cứu có 78 bệnh nhân SIS (76,5%) và 24 bệnh nhân TEN (23,5%). Phân bố các nhóm tuổi giữa bệnh nhân SIS và TEN là tương đương (p > 0,05). Tuổi trung bình của các bệnh nhân nghiên cứu là 46,6 ± 20,2 tuổi. Không khác biệt về tuổi và giới giữa các bệnh nhân SIS và TEN (p > 0,05). Tỷ lệ nam bệnh nhân chiếm 58,8% (60/102), nữ chiếm 41,2% (42/102) (bảng 1). TCNCYH 86 (1) - 2014 17 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 20 ... ,7 < 0,05 Đau đầu, chóng mặt 34 43,6 15 62,5 49 48,0 < 0,05 Ho, đau họng 52 66,7 13 54,2 65 63,7 > 0,05 Buồn nôn, nôn 17 21,8 7 29,2 24 23,5 > 0,05 Ngứa 76 97,4 23 95,8 99 97,1 > 0,05 Đau, rát da 64 82,1 24 100,0 88 86,3 < 0,05 Số hốc tự nhiên tổn thương trung bình 2,6 ± 0,6 3,5 ± 0,9 2,7 ± 0,8 < 0,001 Các bệnh nhân TEN có sốt, choáng váng, khó chịu, đau đầu, chóng mặt và đau, rát da nhiều hơn bệnh nhân SIS (p < 0,05). Không khác biệt về tỷ lệ xuất hiện ho, đau họng, buồn nôn, nôn và ngứa giữa bệnh nhân SIS và TEN (p > 0,05). Số hốc tự nhiên tổn thương của bệnh nhân TEN cao hơn SIS (p < 0,001). Bảng 4. Tổn thương da và các hốc tự nhiên trên bệnh nhân SJS - TEN Triệu chứng SIS TEN Tổng p n = 78 % n = 24 % n = 102 % “Hình bia bắn” 15 19,2 4 16,7 19 18,6 > 0,05 Mụn nước 67 85,9 22 91,9 89 87,3 > 0,05 Bọng nước 78 100,0 24 100,0 102 100,0 > 0,05 Ban xuất huyết 78 100,0 24 100,0 102 100,0 > 0,05 Loét trợt da 43 55,1 24 100,0 67 65,7 < 0,001 Nikolsky (+) 11 14,1 20 83,3 31 30,4 < 0,001 Tổn thương mắt 70 89,7 24 100,0 94 92,2 < 0,05 Loét miệng, họng 78 100,0 24 100,0 102 100,0 > 0,05 Loét sinh dục 48 61,5 24 100,0 72 70,6 < 0,001 Loét mũi 3 3,8 15 62,5 18 17,6 < 0,001 Loét tai 1 1,3 11 45,8 12 11,8 < 0,001 Loét hậu môn 1 1,3 9 37,5 10 9,8 < 0,001 TCNCYH 86 (1) - 2014 19 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2014 Không khác biệt về tỷ lệ xuất hiện thương tổn da hình bia bắn, mụn nước, bọng nước, dát xuất huyết và loét miệng, họng giữa các bệnh nhân SIS và TEN (p > 0,05). Các bệnh nhân TEN có tỷ lệ bị loét trợt da, dấu hiệu Nikolsy (+), tổn thương niêm mạc mắt, bộ phận sinh dục, mũi, tai và hậu môn cao hơn so với các bệnh nhân SIS, (p < 0,001). Bảng 5. Kết quả xét nghiệm của bệnh nhân SJS - TEN (n = 102) Triệu chứng SIS TEN Tổng p n = 78 % n = 24 % n = 102 % Hồng cầu < 3,9 x 102/l 10 12,8 7 29,2 17 16,7 > 0,05 Hemoglobin < 110 g/l 13 16,7 4 16,7 17 16,7 > 0,05 GOT > 40 UI/l 22 28,6 15 65,2 37 37,0 < 0,01 GPT > 41 UI/l 40 53,3 14 60,9 54 55,1 > 0,05 Urê máu > 8,3 mmol/l 19 25,3 8 33,3 27 27,3 > 0,05 Creatinin > 110 µmol/l 5 6,6 6 26,1 11 11,1 < 0,05 CRP > 5 mg/l 60 87,0 20 95,2 80 88,9 > 0,05 Biến động nhiều nhất về xét nghiệm là chỉ số CRP tăng trên 88,9% các bệnh nhân, sau đó đến tăng men gan GPT 55,1%, GOT 37%. Tỷ lệ tăng men gan GOT và creatinin ở bệnh nhân TEN cao hơn SIS, (p < 0,05). IV. BÀN LUẬN Trong số 102 bệnh nhân nghiên cứu, hội chứng SJS chiếm 76,5%, Lyell chiếm 23,5%. Nam giới chiếm 58,8%, nữ chiếm 41,2%, tỷ lệ nam/nữ = 1,4/1. Nghiên cứu của Phạm Thị Hoàng Bích Dịu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân dị ứng thuốc có bọng nước gặp ở nữ giới là 59,4% cao hơn ở nam giới là 40,6% [9]. Tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu là 46,6 ± 20,2. Cao nhất là 90 tuổi, thấp nhất là 10 tuổi (bảng 1). Không khác biệt về tuổi và giới giữa các bệnh nhân SIS và TEN (p > 0,05). Trong nghiên cứu này, chúng tôi chia bệnh nhân nghiên cứu thành 6 nhóm tuổi, chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm trên 60 tuổi (25,5%), các nhóm tuổi 20 - 59 tuổi phân bố khá đồng đều, thấp nhất là nhóm từ 19 tuổi trở xuống (6,9%). Loại thuốc gây dị ứng trong nghiên cứu của chúng tôi nhiều nhất là thuốc chống động kinh Carbamazepine (31,4%), sau đó đến thuốc giảm acid uric trong máu allopurinol và thuốc nam với tỷ lệ 19,6% và 9,8% (bảng 2). Khác với kết quả của chúng tôi, kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Hoàng Bích Dịu nhận thấy thuốc gây dị ứng nhiều nhất là kháng sinh (31,3%), sau đó đến thuốc chống động kinh (25%), thuốc nam (18,8%) [9]. Một 20 TCNCYH 86 (1) - 2014 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC số nghiên cứu nước ngoài xác định được tác nhân gây dị ứng là kháng sinh hoặc allopurinol [3; 4; 10]. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân bị dị ứng Carbamazepine và Allopurinol có hội chứng chứng SIS cao hơn bệnh nhân TEN (p < 0,05). Mặt khác, tỷ lệ bệnh nhân bị dị ứng thuốc nam có hội chứng TEN cao hơn hội chứng SIS (p < 0,05). Các triệu chứng toàn thân: triệu chứng toàn thân của bệnh có hội chứng SIS và TEN rất nặng nề với sốt cao (40,2%), nhiệt độ sốt trung bình 38,0 ± 5,80C (cao nhất là 400C), kèm theo mệt mỏi, choáng váng, đau đầu, chóng mặt và đau rát họng (bảng 3). Sốt cao có thể là do thuốc hoặc do hoại tử thượng bì làm giải phóng các chất gây sốt hoặc cả hai lý do trên. Sốt cao thường xuất hiện trong vòng 1 tuần đầu, nhưng số lượng bạch cầu không tăng. Ngoài ra không thể chứng minh rằng triệu chứng sốt lúc khởi phát bệnh có liên quan đến nhiễm khuẩn. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Đoàn [7]. Cảm giác đau, nóng rát ở trên da xuất hiện ở 82,1% bệnh nhân SIS và 100% bệnh nhân TEN. Điều đáng nói ở đây là cảm giác này rất nặng nề ở bệnh nhân TEN do diện tích các bọng nước rất lớn, sự bóc tách lớp thượng bì gây cho bệnh nhân cảm giác đau đớn và nóng rát trên da như đang bị bỏng diện rộng. Ngoài ra, trên 50% bệnh nhân SIS và TEN có cảm giác đau họng trước khi xuất hiện các tổn thương niêm mạc từ 2 đến 3 ngày. Các tổn thương da: các bệnh nhân SIS và TEN có thương tổn “hình bia bắn” chiếm 18,6% (bảng 4). Tuy nhiên, đây là những “hình bia bắn không điển hình” với trung tâm là bọng nước hoặc xuất huyết hoại tử sẫm màu và được bao xung quanh bởi một dát đỏ nhạt màu hơn trung tâm. Chúng tôi không thấy có khác biệt về tỷ lệ tổn thương hình bia bắn giữa các bệnh nhân SIS và TEN (p > 0,05). Mụn nước gặp ở 87,3% và bọng nước, dát xuất huyết gặp ở tất cả các bệnh nhân SIS - TEN. Các mụn nước và bọng nước lúc đầu trong, sau đó có biểu hiện xuất huyết. Phần lớn các bệnh nhân SIS có tổn thương bọng nước căng, hình tròn hoặc bầu dục, kích thước thường nhỏ (từ 1 - 5 cm), cũng có khi bọng nước lớn chiếm cả 2 bàn tay bàn chân. Các mụn nước, bọng nước nằm rải rác hiện trên nền các dát xuất huyết hoại tử màu đỏ sẫm, tập trung chủ yếu vùng đầu mặt, hai tay, nửa trên người, không có ở vùng da đầu. Có 65,7% số bệnh nhân SIS - TEN có hình ảnh loét trợt da do vỡ các bọng nước. Ở các bệnh nhân SIS tổn thương bọng nước thường căng, một số trường hợp bùng nhùng, dấu hiệu Nikolsky dương tính trong 14,1%. Các bệnh nhân TEN, tổn thương bọng nước lớn, lùng nhùng, tập trung ở vùng da thân mình, bọng nước rất dễ vỡ, dấu hiệu Nikolsky dương tính trong 83,3%. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu của Nguyễn Văn Đoàn, Phạm Thị Hoàng Bích Dịu và một số tác giả nước ngoài khác [1; 3; 6; 8]. Các tổn thương niêm mạc các hốc tự nhiên: hình ảnh nổi bật trên lâm sàng ở các bệnh nhân SIS trong nghiên cứu của chúng tôi là biểu hiện viêm loét niêm mạc môi, đóng vảy tiết dày màu đỏ sẫm (gồm vảy da, huyết thanh và hồng cầu) kèm theo xung huyết đỏ hai mắt, có dịch gỉ do viêm kết mạc mắt. Còn ở các bệnh nhân TEN, hầu như niêm mạc các hốc tự nhiên đều bị viêm loét hoại tử gây ra cảm giác đau đớn khi nuốt, khi tiểu tiện, đau rát, chảy nước mắt, nước mũi, nếu nặng đầy dịch gỉ mắt, thậm chí còn gây dính chặt mi mắt. Kết quả cho thấy có 92,2% bệnh nhân tổn thương niêm mạc mắt, 100% tổn thương niêm mạc miệng, họng; 70,6% có tổn thương niêm TCNCYH 86 (1) - 2014 21 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2014 mạc bộ phận sinh dục. Các bệnh nhân TEN có tỷ lệ tổn thương niêm mạc mắt (viêm, loét giác mạc, kết mạc), loét bộ phận sinh dục, loét mũi, tai và hậu môn cao hơn rõ rệt so với các bệnh nhân SIS với p < 0,001 (bảng 4). Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả của Nguyễn Văn Đoàn, Phạm Thị Hoàng Bích Dịu và một số tác giả nước ngoài khác [2; 4; 7; 9]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở bảng 5 thấy 16,7% bệnh nhân SIS - TEN có dấu hiệu thiếu máu (giảm hồng cầu hoặc giảm hemoglobin). Bệnh nhân thiếu máu kèm theo có hiện tượng đông máu nội mạch lan tỏa và giảm bạch cầu trung tính sẽ mang đến tiên lượng xấu cho bệnh nhân. Mặc dù phần lớn các tổn thương tế bào gan ở các bệnh nhân dị ứng thuốc có hội chứng Lyell chỉ ở mức độ nhẹ nhưng cũng có những bệnh nhân bị hoại tử tế bào gan nặng (với các biểu hiện GPT tăng hơn 10 lần bình thường). Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng xuất huyết ồ ạt đường tiêu hoá do gan giảm tổng hợp các yếu tố đông máu, tiên lượng rất nặng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi không tìm thấy bệnh nhân nào có chỉ số GPT tăng trên 10 lần giá trị bình thường. Trong nghiên cứu này, chỉ số GPT tăng gặp trong 55,1%, tăng GOT trong 37%. Tỷ lệ bệnh nhân tăng ure máu 27,3%, tăng creatinin 11,1%, tuy nhiên chỉ số CRP gặp ở phần lớn các bệnh nhân 88,9%. Kết quả này này cũng phù hợp với một số nghiên cứu trong và ngoài nước [2; 4; 7; 9]. V. KẾT LUẬN Trong các thuốc hay gặp gây hội chứng SIS và TEN thì Carbamazepine chiếm 31,4%, Allopurinol 19,6%, thuốc nam 9,8%, còn lại là các thuốc kháng sinh 6,9%, thuốc hỗn hợp thần kinh 1%, colchicin 1%. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của hội chứng SIS và TEN: - Đặc điểm lâm sàng hay gặp là tổn thương da và các hốc tự nhiên trong đó bọng nước trên da 100%, ban xuất huyết 100%, loét miệng họng 100%, tổn thương mắt 92,2%, ngoài ra còn thấy mụn nước 87,3%, loét trợt da 65,7%, loét bộ phận sinh dục 70,6% và các hốc tự nhiên khác với tỷ lệ thấp hơn,... - Đặc điểm cận lâm sàng gồm có tăng CRP 88,9%, thiếu máu 16,7%, tăng GPT 55,1%, tăng GOT 37%, tăng ure máu 27,3%, tăng creatinin 11,1%. Bệnh nhân TEN có triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng rầm rộ hơn SIS, rõ nhất là tỷ lệ sốt cao, loét trợt da, tổn thương hầu hết các hốc tự nhiên, thiếu máu, suy thận, tăng GOT (p < 0,05). Lời cám ơn Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Văn Đoàn, Giám đốc Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng, bệnh viện Bạch Mai đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Xin trân trọng cảm ơn các thầy, các cô giáo Bộ môn Dị ứng, toàn thể cán bộ nhân viên Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng, bệnh viện Bạch Mai đã ủng hộ, giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Đoàn, N.N.P (2000). Bước đầu nghiên cứu dị ứng thuốc tại khoa Dị ứng- Miễn dịch lâm sàng, bệnh viện Bạch Mai (1991- 1998). Tạp chí Y học thực hành, 3, 17 - 21. 22 TCNCYH 86 (1) - 2014 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2. Ariane Auquier - Dunant, M.M., Luigi Naldi, Osvaldo Correia et al (2002). Correlations Between Clinical Patterns and Causes of Erythema Multiforme Majus, Stevens - Johnson Syndrome, and Toxic Epidermal Necrolysis. Arch Dermatol, (138), 1019 - 1024. 3. Julie Gueudry, J.-C.R., Michel Binaghi, Gisèle Soubrane et al (2009). Risk Factors for the Development of Ocular Complications of Stevens-Johnson Syndrome and Toxic Epidermal Necrolysis. Arch Dermatol, 2(145), 157 - 162. 4. Jean - Paul Fagot, M.M., Jan - Nico Bouwes - Bavinckb, Luigi Naldic et al (2001). Nevirapine and the risk of Stevens- Johnson syndrome or toxic epidermal necrolysis. AIDS, (15), 1843 - 1848. 5. Ignacio Garcia - Doval, L.L., Helene Bocquet, Xose-Luis Otero et al (2000). Toxic Epidermal Necrolysis and Stevens-Johnson Syndrome. Arch Dermatol, (136), 323 - 327. 6. Mirjana Ziemer, C.L.W., Robert Vetter, Johannes Weiss et al (2007). Cut aneous Adverse Reactions to Valdecoxib Distinct From Stevens - Johnson Syndrome and Toxic Epidermal Necrolysis. Arch Dermatol, (143), 711 - 716. 7. Nguyễn Văn Đoàn (2005). Nghiên cứu hội chứng Stevens - Johnson và Lyell do dị ứng thuốc tại Khoa Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Bạch Mai từ năm 1997- 2002. Tạp chí Nghiên cứu Y học, 33(1), 57 - 63. 8. Vân, N.T (2004). Đánh giá tình trạng tổn thương tế bào gan trên bệnh nhân dị ứng thuốc điều trị tại khoa Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Bạch Mai năm 2000 - 2003. Tạp chí Y học Việt Nam, 305(12), 12 - 17. 9. Dịu, P.T.H.B (2005). Đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học của một số thể dị ứng thuốc có bọng nước tại khoa Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Bạch Mai (2004 - 2005). Luận văn Thạc sỹ Y học chuyên ngành Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng, trường Đại học Y Hà Nội. 10. Guegan S (2006). Performance of the SCORTEN during the first five days of hospitalization to predict the prognosis of epidermal necrolysis. J Invest Dermatol, 126 (2), 272 - 276. Summary CLINICAL AND PARACLINICAL CHARACTERISTICS OF THE STEVENS - JOHNSON AND LYELL SYNDROME CAUSED BY MEDICINE ALLERGY The study was conducted over 102 patients having Stevens - Johnson and Lyell syndrome caused by allergic reaction to prescribed medicine treated at Center of Allergology and clinical immunology, Bachmai hospital, from Jan - 2012 to June - 2013. The results show that SJS and TEN ratios are 76.5% and 23.5%, respectively. More specifically, more male patients (58.8%) are being treated than female (41.2%) and most of the patients are at the median age of 46.6 ± 20.2. Carbamazepine caused most allergic reaction at 31.4%. 40.3% of all patients have fever. All the patients have vesicle, hemorrhagic rash and other damages, namely target-shaped red rash 18.6%, pimple 87.3% and mucosal ulceration at natural cavities. The ratio of the studied patients experiencing anemia, GPT increase and CRP increase is 16.7%, 55.1% and 88.9%, respectively. TCNCYH 86 (1) - 2014 23 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2014 The number of the TEN patients having anemia, increase of GOT and creatinin level is higher than that of the SIS patients (p < 0.05). The clinical symptoms of TEN patients are superior to those of the SIS patients, which is most obviously illustrated by ratios of the patients having serious fever, ulcers and peeling of skin lesions at most natural cavities (p < 0.05). Keywords: Medicine Allergy, Stevens-Johnson syndrome, Lyell
File đính kèm:
- dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_cua_hoi_chung_stevens_johnson.pdf