Chính sách và kết quả thực hiện chính sách về bảo tồn, phát huy giá trị của văn hóa ẩm thực tiêu biểu ở các dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang
Nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa ẩm thực
trong phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Hà Giang đã xây
dựng một số chính sách và giải pháp quan trọng nhằm bảo tồn
và phát huy loại hình văn hóa này trong bối cảnh mới. Một số kết
quả tích cực rất đáng được ghi nhận từ việc triển khai các chính
sách này như: nâng cao ý thức bảo tồn văn hóa ẩm thực của cộng
đồng; thành lập các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, các hợp
tác xã và cơ sở chế biến thực phẩm; tăng cường hoạt động quảng
bá, xúc tiến thương mại cho các sản phẩm hàng hóa. Bên cạnh
những kết quả trên, bài viết này còn chỉ ra những tồn tại trong
việc bảo tồn và phát huy các giá trị của văn hóa ẩm thực trong bối
cảnh mới như vấn đề thiếu tính “bản sắc” và “chuyên nghiệp”,
vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, vấn đề truyền dạy và
kế thừa.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách và kết quả thực hiện chính sách về bảo tồn, phát huy giá trị của văn hóa ẩm thực tiêu biểu ở các dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang
KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 146 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH CHÍNH SÁCH VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA ẨM THỰC TIÊU BIỂU Ở CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH HÀ GIANG* Bùi Thị Bích Lan Viện Dân tộc học Email: buibichlan@gmail.com Ngày nhận bài: 3/3/2020 Ngày phản biện: 5/3/2020 Ngày tác giả sửa: 16/3/2020 Ngày duyệt đăng: 20/3/2020 Ngày phát hành: 31/3/2020 DOI: https://doi.org/10.25073/0866-773X/398 Nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa ẩm thực trong phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Hà Giang đã xây dựng một số chính sách và giải pháp quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy loại hình văn hóa này trong bối cảnh mới. Một số kết quả tích cực rất đáng được ghi nhận từ việc triển khai các chính sách này như: nâng cao ý thức bảo tồn văn hóa ẩm thực của cộng đồng; thành lập các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, các hợp tác xã và cơ sở chế biến thực phẩm; tăng cường hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại cho các sản phẩm hàng hóa. Bên cạnh những kết quả trên, bài viết này còn chỉ ra những tồn tại trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị của văn hóa ẩm thực trong bối cảnh mới như vấn đề thiếu tính “bản sắc” và “chuyên nghiệp”, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, vấn đề truyền dạy và kế thừa. Từ khóa: Chính sách; Bảo tồn, phát huy giá trị của văn hóa ẩm thực; Dân tộc thiểu số; Tỉnh Hà Giang. 1. Đặt vấn đề Tự nhiên khắc nghiệt đã đặt ra những thách thức không nhỏ cho tỉnh Hà Giang trong phát triển kinh tế - xã hội, nhưng bù lại, chính điều kiện ấy lại tạo nên tính đa dạng, độc đáo và khác biệt trong văn hóa các tộc người thiểu số nơi đây. Văn hóa là động lực cho phát triển, vì thế bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tiêu biểu của các tộc người trên địa bàn đã được chính quyền các cấp ở Hà Giang xem như nhiệm vụ trọng tâm đối với phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện tốt công tác này không chỉ góp phần giữ gìn tính đa dạng của nền văn hóa quốc gia, đảm bảo an ninh chính trị vùng biên giới, mà còn là tiềm năng to lớn trong phát triển kinh tế, nhất là hoạt động du lịch, dịch vụ. Trên thực tế, với kho tàng văn hóa ẩm thực đa dạng, hấp dẫn, không ít quốc gia trên thế giới đã tận dụng tối đa lợi thế này để phát triển du lịch nói chung và du lịch ẩm thực nói riêng, tạo cơ hội lớn để thúc đẩy kinh tế địa phương, gia tăng chuỗi giá trị trong nông nghiệp, sản xuất chế biến thực phẩm, đồng thời giữ gìn và quảng bá văn hóa tộc người, văn hóa quốc gia ra thế giới. Trong bối cảnh đó, tỉnh Hà Giang cũng như chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh đã triển khai một số chính sách, giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa độc đáo của các loại hình ẩm thực tiêu biểu ở các tộc người thiểu số trên địa bàn. Qua thực tế khảo sát tại một số huyện như Hoàng Su Phì, Xín Mần, Đồng Văn, Quản Bạ, Bắc Quang... bài viết góp phần làm rõ các chính sách và kết quả thực hiện các chính sách này của tỉnh Hà Giang trong phát triển kinh tế - xã hội. 2. Tổng quan nghiên cứu Ẩm thực không chỉ đem lại những giá trị về mặt dinh dưỡng, sức khỏe mà còn được phản ánh trong đó những đặc trưng về văn hóa và xã hội, bao gồm phong tục, nếp ứng xử, giá trị đạo đức, lịch sử tộc người... của mỗi cộng đồng, mỗi địa phương và vùng miền. Theo tác giả Vương Xuân Tình, chủ đề ăn uống được xuất hiện trong các nghiên cứu nhân học từ rất sớm. Nhìn lại chặng đường gần một thế kỷ qua thì thấy xuất hiện 3 khuynh hướng chính trong nhân học ăn uống trên thế giới là: Nhân học về tập quán ăn uống, nhân học dinh dưỡng và nhân học an toàn lương thực. Đáng lưu ý là từ những năm 1990 đến nay, nhân học ăn uống ngày càng tham dự tích cực vào đời sống xã hội và có đóng góp đáng kể trong các chương trình phát triển (Tình, 2004). Ở Việt Nam, với rất nhiều giá trị được hàm chứa, văn hóa ẩm thực cũng nhận được sự quan tâm từ khá * Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài cấp tỉnh: “Nghiên cứu xây dựng chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống độc đáo (tiêu biểu) của các dân tộc thiểu số phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Giang” (2018-2020) do PGS.TS. Nguyễn Văn Minh làm Chủ nhiệm. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 147Volume 9, Issue 1 sớm của các nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, nhất là dân tộc học và văn hóa học. Từ trong những chuyên khảo về tộc người cho đến những nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa ẩm thực, các đồ ăn thức uống được khai thác trên nhiều phương diện như nguyên liệu, kỹ thuật chế biến, cách thưởng thức cho đến những giá trị trong đời sống tinh thần, trong quan hệ xã hội. Ở tỉnh Hà Giang, với kho tàng văn hóa ẩm thực của 19 dân tộc thiểu số, các nhà nghiên cứu đã chú ý khai thác trên nhiều phương diện, nhất là trong bối cảnh chính quyền các cấp nơi địa đầu Tổ quốc đang tích cực xây dựng và triển khai rất nhiều chương trình, dự án, đề án, kế hoạch về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Ngoài các nghiên cứu được công bố trong thời gian gần đây trên các Tạp chí, các tham luận tham gia tại hội thảo, hội nghị thì nội dung văn hóa ẩm thực còn được đề cập trong hàng loạt sách chuyên khảo về từng tộc người như “Người Bố Y ở huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang” (Kiên & Trung, 2017), “Văn hóa dân tộc Mông Hà Giang” (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang, 2018), “Người Pà Thẻn ở huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang” (Kiên & Trung, 2015)... Hầu như các nghiên cứu này có xu hướng nặng về mô tả hoặc làm rõ một số giá trị về văn hóa, xã hội của văn hóa ẩm thực. Điều đáng lưu ý là trong khi các chính sách của tỉnh Hà Giang đang góp phần quan trọng trong công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người nói chung và văn hóa ẩm thực nói riêng thì việc phân tích những hiệu quả, bất cập, từ đó đưa ra những đề xuất về chính sách trong lĩnh vực này lại hiếm khi đư ... thực tiêu biểu qua một số website của tỉnh, của huyện và các công ty du lịch, việc xây dựng sàn giao dịch điện tử cũng đã được tỉnh Hà Giang quan tâm triển khai. Với địa chỉ dacsanhagiang.net, sàn giao dịch điện tử này đã giúp các sản phẩm địa phương, trong đó có sản phẩm tiêu biểu của văn hóa ẩm thực được giới thiệu, trao đổi, quảng bá rộng rãi. Đây là cầu nối giữa người sản xuất, người kinh doanh và người tiêu dùng. Ở đó, chủ cơ sở sản xuất đăng tải thông tin, quản lý đơn hàng bán, thống kê doanh thu; người tiêu dùng có thể xem thông tin sản phẩm, thông tin về cơ sở sản xuất, phản hồi về chất lượng với cơ quan chức năng; cơ quan quản lý có thể kiểm duyệt nội dung quảng bá sản phẩm, các đánh giá Sàn có hỗ trợ thanh toán điện tử thông qua mã QRcode, Vnpay và tiến tới sẽ tích hợp công nghệ blockchain để truy xuất nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa (Tuấn, 2019). 5. Thảo luận 5.1. Vấn đề “bản sắc” và “chuyên nghiệp” Ẩm thực là dạng tài nguyên du lịch đặc biệt, là thành tố quan trọng tạo nên bản sắc và phong vị mỗi vùng miền. Đây là một phần không thể thiếu và ấn tượng về các món ăn mà du khách được thưởng thức góp phần không nhỏ vào sự thành công của mỗi chuyến đi. Nhiều du khách nghỉ tại homestay hay các khu du lịch không chỉ ăn, uống để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng, mà họ còn mong đợi sẽ được trải nghiệm sự mới mẻ, sự sáng tạo thú vị trong văn hóa ẩm thực của cộng đồng. Tuy nhiên, ở hầu hết các điểm du lịch ở Hà Giang, nhất là trong các mô hình homestay, văn hóa ẩm thực vẫn chưa được khai thác hết tiềm năng vốn có, chưa được quan tâm đúng mức. Ở thị trấn Đồng Văn có những ngôi nhà cổ tồn tại 300 năm của người Dao vẫn còn giữ được gần như nguyên vẹn, nhưng lượng khách đến thăm quan không nhiều và chủ yếu là người Việt. Lý do là du khách nước ngoài đa phần có nhu cầu được thưởng thức văn hóa ẩm thực ngay trong không gian homestay, nhưng chưa đáp ứng được dịch vụ này. Điều đó cho thấy, việc trải nghiệm về văn hóa ẩm thực là một phần không thể thiếu trong các chuyến đi của du khách. Họ sử dụng dịch vụ ẩm thực tại các điểm du lịch không chỉ đơn giản là được thưởng thức một bữa ăn ngon mà hơn thế, là một cách để hòa mình vào một di sản văn hóa của địa phương và tạo ra sự khác biệt trong mỗi chuyến đi. Mặc dù, trong các dự án bảo tồn làng văn hóa truyền thống đều đưa ra mục tiêu “bảo tồn các loại hình văn hóa ẩm thực” nhưng khi triển khai trên thực tế, mục tiêu này chưa đạt được như yêu cầu đặt ra. Khảo sát ở Làng văn hóa du lịch cộng đồng Nậm Đăm, Quảng Hạ, Lô Lô Chải, hay Nhà văn hóa cộng đồng thôn Nậm Lương cho thấy, văn hóa ẩm thực chưa phát huy hết vai trò trong phục vụ du lịch cộng đồng. Mô hình homestay sẽ không thể mang đậm không gian văn hóa tộc người nếu bữa ăn phục vụ du khách không phải là ẩm thực truyền thống. Tuy nhiên, chủ thể văn hóa cũng như chính quyền các cấp chưa thực sự quan tâm đến việc khai thác giá trị của yếu tố văn hóa này để làm tăng sức hấp dẫn cũng như kéo dài thời gian lưu trú của du khách. Ở một số nơi, dịch vụ ăn uống trong các homestay còn đơn điệu, mang tính tự phát, thiếu định hướng. Các món ăn mà chủ nhà có thể phục vụ chưa chú trọng khai thác ẩm thực truyền thống, đa phần là các món mang tính thông dụng, tiện lợi, dễ làm như cơm trắng, gà luộc, thịt lợn nướng, cá nướng, trứng rán, các loại rau xanh,... Ghi nhận từ một số du khách ở thôn Nậm Đăm, thôn Lô Lô Chải cho thấy, thực đơn nghèo nàn và thiếu tính bản sắc trong dịch vụ ăn uống ở các homestay nơi đây là một trong những nguyên nhân khiến cho thời gian lưu trú của du khách không nhiều, thường chỉ trong ngày hoặc sang ngày thứ hai. Vấn đề xem nhẹ vai trò của văn hóa ẩm thực của chính quyền và người dân trong việc tạo sức hút của điểm đến cũng thể hiện rõ ở nhà văn hóa cộng đồng thôn Nậm Lương khi nhà văn hóa này được xây dựng từ “Dự án bảo tồn thôn truyền thống dân tộc Bố Y”, nhưng người được giao quản lý và kinh doanh dịch vụ lưu trú lại là một phụ nữ người Dao (lấy chồng là người Bố Y). Và thực tế đang diễn ra là, du khách được trải nghiệm văn hóa trong một ngôi nhà cộng đồng của người Bố Y, nhưng việc phục vụ lưu trú, giới thiệu văn hóa truyền thống của người Bố Y lại là người dân tộc Dao và ẩm thực mà du khách được phục vụ cũng đa phần là món ăn của người Dao. Bên cạnh những món ăn thiếu bản sắc thì kỹ năng phục vụ thiếu chuyên nghiệp cũng cần được bàn tới. Việc mặc trang phục truyền thống khi giới thiệu món ăn cho du khách là cần thiết nhưng chủ nhà ở một số homestay ở thôn Quảng Hạ, Lô Lô Chải hay những người bán hàng tại hội chợ giới thiệu ẩm thực chưa lưu tâm đến vấn đề này. Để cho tiện lợi, họ mặc trang phục phổ thông khi phục vụ ăn uống và giới thiệu văn hóa ẩm thực; từ đó, tạo ra một không gian văn hóa chưa thực sự ấn tượng trong cảm nhận của du khách. Chính sự thiếu tính “bản sắc”, tính “chuyên nghiệp” trong khai thác, phát huy những giá trị tích cực của văn hóa ẩm thực trong các mô hình du lịch cộng đồng đã khiến cho đa phần du khách, nhất là khách nước ngoài chỉ thăm, không nghỉ dưỡng; nếu có lưu trú tại các homestay thì chỉ trong thời gian ngắn và với những đoàn khách có thời gian lưu trú từ 2 đến 3 ngày trở lên thì họ chủ động trang bị đồ ăn nhanh mang theo. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 151Volume 9, Issue 1 Như vậy, việc giới thiệu văn hóa ẩm thực của các tộc người ở các cơ sở dịch vụ ăn uống hay trong các mô hình du lịch cộng đồng một cách có chiều sâu và hệ thống chưa được tính đến, nhất là chưa có chiến lược phát triển lâu dài cũng như sự quan tâm, sâu sát của các ban, ngành liên quan. 5.2. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm Bảo đảm vệ sinh, an toàn trong lựa chọn, chế biến, cung cấp thực phẩm là yếu tố rất quan trọng để mở rộng thị trường tiêu thụ cũng như phát triển du lịch. Tuy nhiên, ở một số nhà hàng, quán ăn, các điểm du lịch hay tại bếp nấu trong các homestay vẫn còn tồn tại những vấn đề cần được khắc phục như quy trình chế biến các món ăn còn thô sơ, nguồn thực phẩm sử dụng chưa rõ nguồn gốc hay việc lạm dụng quá mức các loại gia vị công nghiệp (như mỳ chính, bột ngọt). Các dụng cụ chế biến như rổ, rá, bát đĩa,... thay vì làm từ nguyên liệu tự nhiên như gỗ, tre, nứa như truyền thống trước đây đã được thay thế bởi những vật dụng xanh, đỏ làm từ nhựa công nghiệp kém chất lượng. Điều đó không chỉ làm mất đi tính thẩm mỹ của một không gian sinh hoạt truyền thống, mà còn gây mất an toàn cho sức khỏe của người sử dụng. Kết quả khảo sát tại một số homestay cho thấy, những vấn đề trên đã gây tâm lý e ngại và ảnh hưởng không nhỏ đến việc quyết định thời gian lưu trú của du khách. Đó là chưa kể trong một số homestay ở các Làng văn hóa du lịch tiêu biểu, bếp nấu ăn phục vụ du khách được đặt ngay sát một dãy chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm; cho dù Đề án xây dựng Làng văn hóa du lịch tiêu biểu gắn với xây dựng Nông thôn mới ở các huyện đã đưa ra 1 trong 10 tiêu chí cần thực hiện trong việc tạo môi trường cảnh quan sạch đẹp là “100% số hộ di dời chuồng trại gia súc, gia cầm ra xa nhà”. Thật khó để giữ chân và thuyết phục khách trở lại trải nghiệm trong một không gian sống như vậy. 5.3. Vấn đề truyền dạy và kế thừa Chương trình số 62-CTr/TU ngày 29/3/2013 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về phát triển văn hóa gắn với du lịch, giai đoạn 2013-2020 đã đề ra nhiệm vụ bảo tồn văn hóa ẩm thực nhằm phục vụ du lịch với một trong số những giải pháp được đưa ra là “có chính sách thu hút các nghệ nhân dân gian mở các lớp truyền dạy văn hóa ẩm thực”. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, tỉnh Hà Giang chưa có danh hiệu “nghệ nhân dân gian” thuộc lĩnh vực văn hóa ẩm thực và các lớp truyền dạy cũng chưa được triển khai trên thực tế. Tương tự, trong nội dung của đề án “Giáo dục kỹ năng sống và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số cho học sinh phổ thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2016 - 2020” (được ban hành theo Quyết định số 597/QĐ-UBND ngày 7/4/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang), các lĩnh vực văn hóa truyền thống được truyền dạy đối với học sinh tiểu học là “hình thành, phát triển, rèn luyện, biểu diễn một số nhạc cụ dân tộc như: khèn, sáo..; các làn điệu dân ca bằng ngôn ngữ tiếng dân tộc” và “Kĩ năng thêu - dệt và làm các sản phẩm truyền thống của địa phương như: làm khèn Mông; thêu đan váy, áo, túi sách, khăn, mũ... để phục vụ khách du lịch và giữ gìn bản sắc dân tộc. Còn đối với học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông và Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên, nội dung được truyền dạy cũng chỉ là “tập trung kĩ năng sử dụng các kiến thức, thực hành văn hóa truyền thống, phong tục, tập quán của địa phương như: hiểu biết và biểu diễn các làn điệu dân ca, nhạc cụ dân tộc; kĩ năng thêu dệt và làm các sản phẩm truyền thống địa phương”. Như vậy, mặc dù mục tiêu chung của đề án là đưa các lĩnh vực văn hóa truyền thống vào trường học, nhưng chỉ mới tập trung vào việc truyền dạy về lĩnh vực “văn hóa dân gian” và “nghề thủ công”. Yếu tố văn hóa ẩm thực đã chưa được chú trọng trong Đề án này và điều đó đã ảnh hưởng nhất định đến nhận thức của thế hệ trẻ về vai trò, giá trị tích cực cũng ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn, phát huy của loại hình văn hóa này trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương. 6. Kết luận Sự đa dạng về thành phần tộc người, cộng thêm đặc điểm chia cắt mạnh về địa hình với nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau đã khiến cho tỉnh Hà Giang hình thành những văn hóa vùng, văn hóa tộc người giàu bản sắc. Mỗi dân tộc lại có những loại hình văn hóa ẩm thực đặc trưng, tạo nên tính đa dạng và sự hấp dẫn đặc biệt đối với du khách. Nhận thức được tiềm năng, trong những năm qua, các loại hình văn hóa ẩm thực đa dạng, độc đáo của các tộc người thiểu số đã được tỉnh Hà Giang chú trọng bảo tồn và phát huy, nhằm tăng sức hút của điểm đến, khuyến khích và đẩy mạnh phát triển ngành du lịch, góp phần giảm nghèo bền vững và phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Tuy nhiên, với nhiều nguyên nhân, kiến thức ẩm thực và kỹ năng phục vụ của người làm du lịch còn hạn chế; những sản phẩm và trải nghiệm về văn hóa ẩm thực chưa thật sự hấp dẫn và phát huy hết giá trị, tiềm năng vốn có; công tác truyền dạy và kế thừa các giá trị văn hóa ẩm thực cho thế hệ trẻ chưa được quan tâm đúng mức. Thêm vào đó, trong bối cảnh giao thoa, biến đổi văn hóa mạnh mẽ như hiện nay, nhiều loại hình văn hóa ẩm thực độc đáo có xu hướng bị mai một và bị thay thế bởi các món ăn phổ thông, tiện lợi. Xu hướng này diễn ra không chỉ trong đời sống hàng ngày, mà còn ở ngay các điểm phục vụ du lịch, nơi các giá trị văn hóa truyền thống cần khai thác. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc nâng cao ý thức tự bảo tồn giá trị ẩm thực truyền thống của các chủ thể văn hóa, đào tạo kỹ năng phục vụ ẩm thực trong hoạt động du lịch, nâng cao chất lượng sản phẩm ẩm thực, xây dựng các chương trình truyền dạy văn hóa ẩm thực cho thế hệ trẻ trong các trường học trên địa bàn KINH NGHIỆM THỰC TIỄN 152 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH Tài liệu tham khảo Anh, P. (2019). Hiệu quả Chương trình CPRP ở Hoàng Su Phì. truy cập ngày 22/9/2019 Dung, M. N. (2007). Văn hóa ẩm thực của người Tày ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. Hiếu, T. Đ. (2007). Một số giải pháp góp phần xây dựng và phát triển du lịch bền vững ở Tây Bắc Việt Nam. Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học, Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Huyền, N. T. (2012). Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc. Đại học Khoa học, Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Kiên, H. V., & Trung, V. D. (2015). Người Pà Thẻn ở huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang. Hà Nội: Nxb. Lao động. Kiên, H. V., & Trung, V. D. (2017). Người Bố Y ở huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang. Hà Nội: Nxb. Lao động. Long, V. (2019). Phát triển thương hiệu mật ong thảo quả ở Nấm Dẩn. truy cập ngày 12/9/2019 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang (2018). Văn hóa dân tộc Mông Hà Giang. Công ty cổ phần in Hà Giang. Tâm, M. (2019). Hà Giang nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới gắn với thế mạnh địa phương. truy cập ngày 15/9/2019. Thao, V., & Yến, H. (2015). Giảm nghèo dựa trên phát triển hàng hóa tại Hà Giang. Tình, V. X. (2004). Tập quán ăn uống của người Việt vùng Kinh Bắc. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. Tuấn, D. (2019). Khai mạc hội chợ cam và các sản phẩm tiêu biểu tỉnh Hà Giang. truy cập ngày 24/9/2019. POLICY AND RESULT OF POLICY IMPLEMENTATION ON PRESERVING, PROMOTING THE VALUES OF TYPICAL CULINARY CULTURE IN ETHNIC MINORITIES IN HA GIANG PROVINCE Bui Thi Bich Lan Institute of Anthropology Email: buibichlan@gmail.com Received: 3/3/2020 Reviewed: 5/3/2020 Revised: 16/3/2020 Accepted: 20/3/2020 Released: 31/3/2020 DOI: https://doi.org/10.25073/0866-773X/398 Abtract Recognizing the important role of culinary culture in socio- economic development, Ha Giang province has developed some important policies and solutions to preserve and promote this cultural type in the new context. Some positive results are highhly appeciated from the implementation of these policies such as raising the awareness of prserving the culinary culture of the community; establishing food service facilities, cooperatives and food processing facilities; enhancing the activities of advertising and trade promotion for commodity products. In addition to the above results, this article only presents limitations in preserving and promoting culinary cultural values in the new context such as the lack of identity and profession, the issue of protecting food safety, teaching transmission and inheritance. Keywords Policy; Prserving,promoting culinary cultural value; The ethnic minority; Ha Giang province
File đính kèm:
- chinh_sach_va_ket_qua_thuc_hien_chinh_sach_ve_bao_ton_phat_h.pdf