Chất lượng giấc ngủ và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu: Giấc ngủ đóng vai trò quan trọng đến sức khỏe của mỗi người. Đối với bệnh nhân ung thư
vú, chất lượng giấc ngủ (CLGN) kém làm giảm chất lượng cuộc sống, liên quan đến kết quả điều trị thậm
chí làm tăng nguy cơ tử vong. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên thế giới cho thấy CLGN kém đang trở nên
phổ biến ở bệnh nhân ung thư vú, tỷ lệ này dao động 30 - 66%. Chính vì vậy, nghiên cứu được tiến hành
nhằm xác định tỷ lệ CLGN kém và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện Ung Bướu
TP. HCM với mong muốn cải thiện CLGN cũng như chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 105 bệnh nhân ung thư
vú từ giai đoạn I đến giai đoạn III đang điều trị ở các khoa Nội 4, Ngoại 4, Xạ 4 tại bệnh viện Ung Bướu
Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu chọn mẫu toàn bộ, sử dụng thang đo PSQI để đánh giá CLGN
(điểm PSQI > 5 cho CLGN kém).
Kết quả: Tỷ lệ CLGN kém ở bệnh nhân ung thư vú là 79,1%. Có mối liên quan giữa CLGN với chức
năng gia đình, tình trạng lo âu và trầm cảm.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng giấc ngủ và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 370 CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH DANH NGHĨA THIỀN MÔN1, KIM XUÂN LOAN2 Địa chỉ liên hệ: Danh Nghĩa Thiền Môn Email: thienmon61295@gmail.com Ngày nhận bài: 1/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 Sinh viên Y học dự phòng Đại học Y Dược TP. HCM 2 Giảng viên Bộ môn Dịch tễ Đại học Y Dược TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Giấc ngủ đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sức khỏe đó là khoảng thời gian để hồi phục chức năng các hệ cơ quan đặc biệt là não bộ. Một giấc ngủ có chất lượng kém mang lại nhiều tác động tiêu cực như trạng thái mệt mỏi, giảm khả năng làm việc, suy giảm trí nhớ mà tình trạng kéo dài có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh mãn tính như tim mạch, chuyển hóa, thần kinh[6]. Do đó, đo lường giấc ngủ và các tác động của nó lên sức khỏe luôn được nhiều nhà khoa học quan tâm đặc biệt đối với những bệnh nhân đã và đang mắc các bệnh mãn tính nói chung, trong đó có bệnh nhân ung thư vú. Đối với bệnh nhân ung thư vú chất lượng giấc ngủ kém ảnh hưởng đến kết quả điều trị thậm chí làm tăng nguy cơ tử vong. Một số nghiên cứu trước đây đã chỉ ra chất lượng giấc ngủ kém có liên quan đến sự phát triển của khối u, làm gia tăng gánh nặng một số triệu chứng như tăng nguy cơ trầm trọng của cơn đau, tăng nguy cơ triệu chứng buồn nôn và nôn do hóa trị, góp phần vào triệu chứng mệt mỏi ban ngày trong bệnh ung thư và dẫn đến giảm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân[6,8,11]. Một phân tích tổng hợp còn cho thấy những người có chất lượng giấc ngủ kém có nguy cơ tử vong cao hơn 12% so với những người khác ngủ đủ 7h đến 8h mỗi đêm[4]. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu gần đây cho thấy rối loạn giấc ngủ đang phổ biến ở bệnh nhân ung thư vú. Thống kê trên thế giới cho thấy tỷ lệ mất ngủ ở bệnh nhân ung thư vú dao động từ 30 - 66%[2,9,10]. Tình trạng mất ngủ xảy ra sau khi chẩn đoán ung thư vú và trở nên trầm trọng hơn khi bước vào điều trị[11]. Trong 61% bệnh nhân ung thư vú có chất lượng giấc ngủ kém thì 59% cho biết họ đã sử dụng thuốc cho giấc ngủ trong tháng qua với TÓM TẮT Mục tiêu: Giấc ngủ đóng vai trò quan trọng đến sức khỏe của mỗi người. Đối với bệnh nhân ung thư vú, chất lượng giấc ngủ (CLGN) kém làm giảm chất lượng cuộc sống, liên quan đến kết quả điều trị thậm chí làm tăng nguy cơ tử vong. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên thế giới cho thấy CLGN kém đang trở nên phổ biến ở bệnh nhân ung thư vú, tỷ lệ này dao động 30 - 66%. Chính vì vậy, nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định tỷ lệ CLGN kém và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM với mong muốn cải thiện CLGN cũng như chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 105 bệnh nhân ung thư vú từ giai đoạn I đến giai đoạn III đang điều trị ở các khoa Nội 4, Ngoại 4, Xạ 4 tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu chọn mẫu toàn bộ, sử dụng thang đo PSQI để đánh giá CLGN (điểm PSQI > 5 cho CLGN kém). Kết quả: Tỷ lệ CLGN kém ở bệnh nhân ung thư vú là 79,1%. Có mối liên quan giữa CLGN với chức năng gia đình, tình trạng lo âu và trầm cảm. Từ khóa: Chất lượng giấc ngủ, ung thư vú, PSQI, Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 371 30% đã sử dụng thuốc ngủ ít nhất ba lần mỗi tuần trong một tháng qua[3]. Nhiều nghiên cứu ở các quốc gia đã tiến hành đánh giá những yếu tố có liên quan đến chất lượng giấc ngủ trên bệnh nhân ung thư vú với mong muốn có thể cải thiện CLGN cũng như chất lượng cuộc sống[3,7,12]. Tại Việt Nam, một nghiên cứu tại tỉnh Hải Dương (2018) cho thấy tỷ lệ bệnh nhân ung thư nói chung bị rối loạn giấc ngủ khá cao tới 83,7%[1], còn trên bệnh nhân ung thư vú chưa tìm thấy nghiên cứu công bố tỷ lệ này. Chính vì vậy, nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định tỷ lệ bệnh nhân ung thư vú có chất lượng giấc ngủ kém và các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ như đặc điểm dân số - kinh tế - xã hội, tình trạng bệnh, chức năng gia đình, lo lâu, trầm cảm bệnh viện. Nghiên cứu sẽ là cơ sở cho các nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này, hướng đến điều trị về rối loạn giấc ngủ, giảm thiểu yếu tố nguy cơ liên quan đến tỷ lệ tử vong. Bệnh viện Ung Bướu T. HCM là một trong những bệnh viện lớn chuyên về điều trị ung thư tại miền nam Việt Nam. Mỗi ngày bệnh viện tiếp nhận một lượng đông bệnh nhân đến khám và điều trị nên phù hợp để tiến hành nghiên cứu. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Bệnh nhân ung thư vú đang điều trị tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM trong thời gian nghiên cứu từ tháng 4/2020 đến tháng 6/2020. Cỡ mẫu: 105 người. Tiêu chuẩn chọn vào Những bệnh nhân được chẩn đoán ung thư và đang điều trị tại bệnh viện Ung Bướu trong thời gian nghiên cứu. Bệnh nhân đủ 18 tuổi. Đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại ra Bệnh nhân mắc ung thư giai đoạn IV. Bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn trầm cảm trong vòng 1 tháng trở lại đây. Bệnh nhân có khó khăn đáng kể trong giao tiếp như khiếm thính, bệnh nhân không thể hợp tác trả lời hoặc không có khả năng tự chăm sóc bản thân sẽ không được mời tham gia nghiên cứu. Phương pháp Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu toàn bộ dựa trên tỷ lệ phân tầng theo mỗi khoa gồm Nội 4, Xạ 4, Ngoại 4. Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt. Xử lý số liệu: Nhập liệu bằng Epidata 3.1 và phân tích bằng Stata 14.2. KẾT QUẢ Bảng 1. Phân loại chất lượng giấc ngủ Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Phân loại chất lượng giấc ngủ Kém 83 79,1 Tốt 22 20,9 Các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ Mối liên quan giữa CLGN và đặc điểm dân số - kinh tế - xã hội. Bảng 2. Mối liên quan giữa CLGN và đăc điểm dân số - kinh tế - xã hội Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị p PR (KTC 95%) Kém (%) (n = 83) Tốt (%) (n = 22) Nhóm tuổi ≤ 50 tuổi 36 (76,6) 11 (23,4) 0,578c 1 > 50 tuổi 47 (81,0) 11 (19,0) 1,06 (0,87 - 1,29) Nơi sống TP. HCM 12 (63,2) 7 (36,8) 0,115f 1 Nơi khác 71 (82,6) 15 (17,4) 1,31 (0,91 - 1,87) Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 372 Tôn giáo Có tôn giáo 67 (78,8) 18 (21,2) 1,000f 1 Không theo tôn giáo 16 (80,0) 4 (20,0) 0,99 (0,77 - 1,26) Trình độ học vấn Từ cấp 2 trở xuống 71 (80,7) 17 (19,3) 0,344f 0,87 (0,63 - 1,21) Từ cấp 3 trở lên 12 (70,6) 5 (29,4) 1 Nghề nghiệp Công việc ổn định 63 (81,8) 14 (18,2) 0,247c 0,87 (0,68 - 1,13) Công việc không ổn định 20 (71,4) 8 (28,6) 1 Kinh tế Đủ sống 48 (77,4) 14 (22,6) 0,623c 1 Không đủ sống 35 (81,4) 8 (18,6) 0,95 (0,78 – 1,16) c: Kiểm định chi khuynh hướng f:Kiểm định chính xác Fisher Bảng 2 (tt). Mối liên quan giữa CLGN và đăc điểm dân số - kinh tế - xã hội Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị p PR (KTC 95%) Kém (%) (n = 83) Tốt (%) (n = 22) Chi trả BHYT Một phần BHYT toàn bộ 66 (79,5) 17 (77,3) 17 (20,5) 5 (22,7) 0,824 0,97 (0,75 – 1,125) 1 Hôn nhân Đã kết hôn Độc thân/ Ly thân/ Ly dị/ Góa 66 (79,5) 17 (77,3) 17 (20,5) 5 (22,7) 0,776f 0,97 (0,76 – 1,25) 1 Tình trạng sống chung Có sống chung Không sống chung 80 (78,4) 3 (100) 22 (21,6) 0 (0,0) 1,000f 1 0,78 (0,71 – 0,87) Mối liên quan giữa CLGN và đặc điểm tình trạng bệnh Bảng 3. Mối liên quan giữa CLGN và đặc điểm tình trạng bệnh Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị p PR (KTC 95%) Kém (%) (n = 83) Tốt (%) (n=22) Hình thức điều trị Ngoại trú Nội trú 80 (78,4) 3 (100) 22 (21,6) 0 (0,0) < 0,001** 1 1,28 (1,15 - 1,41) Mức độ thay đổi cân nặng Giảm cân Không đổi Tăng cân 34 (79,1) 30 (76,9) 19 (82,6) 9 (20,9) 9 (23,1) 4 (17,4) 0,816 1 0,585 1,03 (0,82 - 1,30) 1 1,07 (0,83 - 1,39) Khoảng thời gian mắc bệnh < 1 năm 1 -< 3 năm 47 (78,3) 25 (73,5) 13 (21,7) 9 (26,5) 0,609 1 0,94 (0,74 - 1,20) Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 373 ≥ 3 năm 11 (100) 0 (0,0) < 0,001** 1,28 (1,12 - 1,46) Bảng 3 (tt). Mối liên quan giữa CLGN và đặc điểm tình trạng bệnh Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị p PR (KTC 95%) Kém (%) (n = 83) Tốt (%) (n = 22) Giai đoạn bệnh hiện tại Giai đoạn IA Giai đoạn IB Giai đoạn IIA Giai đoạn IIB Giai đoạn IIIA Giai đoạn IIIB Giai đoạn IIIC Không rõ/chưa xác định 5 (83,3) 0 (0,0) 23 (71,9) 14 (77,8) 15 (88,2) 16 (72,7) 5 (100) 5 (100) 1 (16,7) 0 (0,0) 9 (28,1) 4 (22,2) 2 (11,8) 6 (27,3) 0 (0,0) 0 (0,0) 0,490 0,639 0,150 0,945 0,003* 0,003* 1,16 (0,76 - 1,77) 1 1,08 (0,78 - 1,51) 1,23 (0,93 - 1,62) 1,01 (0,72 - 1,42) 1,39 (1,12 - 1,73) 1,39 (1,12 - 1,73) Tái phát Chưa tái phát Có tái phát 79 (78,2) 4 (100) 22 (21,8) 0 (0,0) 0,577f 1 1,28 (1,15 - 1,42) Phương pháp điều trị Phẫu thuật Có Không 6 (85,7) 77 (78,6) 1 (14,3) 21 (21,4) 0,595 1,09 (0,79 - 1,50) 1 Hóa trị Có Không 21 (75,0) 62 (80,5) 7 (25) 15 (19,5) 0,565 1,07 (0,84 - 1,37) 1 Xạ trị Có Không 21 (72,4) 62 (81,6) 8 (27,6) 14 (18,4) 0,350 0,89 (0,69 - 1,14) 1 Nhắm trúng đích Có Không 5 (100) 78 (78,0) 0 (0,0) 22 (22,0) 0,581f 1,28 (1,16 - 1,42) 1 Bệnh kèm Không Có 44 (77,2) 39 (81,2) 13 (22,8) 9 (18,8) 0,611c 1 1,05 (0,87 - 1,28) *: p < 0,05 **: p < 0,001 f: Kiểm định chính xác Fisher Bảng 3 (tt). Mối liên quan giữa CLGN và đặc điểm tình trạng bệnh Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị p PR (KTC 95%) Kém (%) (n = 83) Tốt (%) (n = 22) Bệnh lý đi kèm Tăng huyết áp Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 374 Không Có 25 (86,2) 14 (73,7) 4 (13,8) 5 (26,3) 0,451f 1 0,85 (0,63 – 1,16) Bệnh gan Không Có 28 (77,8) 11 (91,7) 8 (22,2) 1 (8,3) 0,416f 1 1,18 (0,92 – 1,50) Bệnh đái tháo đường Không Có 32 (84,2) 7 (70,0) 6 (15,8) 3 (30,0) 0,370f 1 0,83 (0,54 – 1,28) Bệnh dạ dày Không Có 30 (76,9) 9 (100) 9 (23,1) 0 (0,0) 0,176f 1 1,3 (1,09 – 1,54) Bệnh tim mạch Không Có 35 (79,6) 4 (100) 9 (20,5) 0 (0,0) 1,000f 1 1,26 (108 – 1,46) Bệnh thận Không Có 38 (80,9) 1 (100) 9 (19,2) 0 (0,0) 1000f 1 1,24 (1,08 – 1,42) Số lượng bệnh đi kèm 1 bệnh 2 bệnh ≥ 3 bệnh 28 (82,4) 8 (72,7) 3 (100) 6 (17,7) 3 (27,3) 0 (0,0) 0,541 0,016* 1 0,88 (0,59 – 1,31) 1,21 (1,04 – 1,42) Mối liên quan giữa CLGN và sự hỗ trợ gia đình Bảng 4. Mối liên quan giữa CLGN và sự hỗ trợ gia đình Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị p PR (KTC 95%) Kém (%) (n = 83) Tốt (%) (n = 22) Phân loại nhóm APGAR Không gắn kết Gắn kết không tốt Gắn kết tốt 9 (100) 20 (87,0) 54 (74,0) 0 (0,0) 3 (13,0) 19 (26,0) < 0,001 1,35 (1,18 - 1,55) 1,18 (0,95 - 1,45) 1 Mối liên quan giữa CLGN và lo âu, trầm cảm Bảng 5. Mối liên quan giữa CLGN và trầm cảm Đặc điểm Chất lượng giấc ngủ Giá trị p PR (KTC 95%) Kém (%) (n = 83) Tốt (%) (n = 22) Trầm cảm bệnh viện Không Có trầm cảm 67 (75,3) 16 (100) 22 (24,7) 0 (0,0) 0,021f 1 1,33 (1,18 - 1,50) Lo âu bệnh viện Không 69 (75,8) 22 (24,2) 0,038f 1 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 375 Có trầm cảm 14 (100) 0 (0,0) 1,32 (1,17 - 1,48) f:Kiểm định chính xác Fisher Các yếu tố liên quan đến CLGN theo mô hình hồi quy Poisson đa biến Bảng 6. Các yếu tố liên quan đến CLGN theo mô hình hồi quy Poisson đa biến (n = 105) Đặc điểm Pthô PRthô (KTC 95%thô) Giá trị Phc PRhc (KTC 95%hc) Phân loại nhóm APGAR Không gắn kết Gắn kết không tốt Gắn kết tốt < 0,001 1,35 (1,18 - 1,55) 1,18 (0,95 - 1,45) 1 0,005 1,23 (1,07 - 1,43) 1,12 (0,91 - 1,38) 1 Trầm cảm Có trầm cảm 0,021 1,33 (1,18 - 1,50) 0,001 1,19 (1,07 - 1,32) Lo âu Có lo âu 0,038 1,32 (1,17 - 1,48) 0,001 1,20 (1,08 - 1,34) Phc: giá trị p hiệu chỉnh PRhc: giá trị PR hiệu chỉnh BÀN LUẬN Nghiên cứu tìm thấy tỷ lệ CLGN kém ở bệnh nhân ung thư vú khá cao là 79,1%. Tỷ lệ này thấp hơn so với ghi nhận tình trạng rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân ung thư nói chung là 83,7%[1]. Hầu hết các nghiên cứu ở các quốc gia khác cùng trên bệnh nhân ung thư vú có tỷ lệ thấp hơn. Điều này có hiểu rằng trong nghiên cứu, CLGN được đánh giá trong vòng một tháng trước nên có thể xảy ra sai lệch hồi tưởng. Ngoài ra sự khác biệt có thể do sự khác nhau về thang đo sử dụng, thời điểm đánh giá, đối tượng và các đặc điểm kinh tế - xã hội, tình trạng bệnh cũng có thể liên quan đến CLGN. Kết quả phân tích đáng chú ý là có tìm thấy mối liên quan có tính khuynh hướng giữa CLGN và sự gắn kết gia đình. Cụ thể rằng cứ mức độ gắn kết gia đình giảm xuống một mức thì tỷ lệ CLGN kém tăng lên 1,12 lần với Phc=0,005 và KTC 95% là 0,91 – 1,38. Kết quả của nghiên cứu phù hợp với một số nghiên cứu trước đây tìm thấy mối liên quan giữa chức năng gia đình và CLGN trên những đối tượng khác nhau như thanh thiếu niên, người trưởng thành[12-14]. Một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu tại Đan Mạch (2011) cho thấy lo âu, trầm cảm liên quan đến khó ngủ đáng kể, sự gia tăng của một đơn vị trong sự lo lắng, trầm cảm lần lượt tương ứng với sự gia tăng 4,1% và 13,5% về tỷ lệ khó ngủ[5]. Tương tự, kết quả của nghiên cứu cũng tìm thấy có mối liên quan quan giữa trầm cảm, lo âu và CLGN, cụ thể là những đối tượng bị trầm cảm, lo âu lần lượt có CLGN kém cao gấp 1,19 và 1,20 lần so với những đối tượng không bị trầm cảm. KẾT LUẬN Chất lượng giấc ngủ kém khá phổ biến ở bệnh nhân ung thư vú đang điều trị tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh. Những yếu tố liên quan là chức năng gia đình và tình trạng lo âu, trầm cảm. Chính vì vậy, bệnh viện cần phát triển-sàng lọc định kỳ về rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân ung thư vú trong quá trình điều trị, đặc biệt đối với những bệnh nhân có dấu hiệu trầm cảm hoặc lo âu, với mục đích giảm thiểu gánh nặng bệnh tật cho bệnh nhân. Gia đình cũng cần quan tâm, chia sẻ, hỗ trợ về mặt tinh thần cũng như tài chính giúp bệnh nhân có thể giải tỏa những lo âu, căng thẳng vì những yếu tố này có ảnh hưởng đến CLGN. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Múi, Trần Văn Lưu, Phạm Thị Thu Hương, Nguyễn Bá Tâm (2018) "Thực trạng rối loạn giấc ngủ của người bệnh nhân ung thư điều trị nội trú tại Hải Dương năm 2018". Tạp chí khoa học điều dưỡng, 1 (2) 2. J. Savard, S. Simard, J. Blanchet, H. Ivers, C. M. Morin (2001) "Prevalence, clinical characteristics, and risk factors for insomnia in the context of breast cancer". Sleep, 24 (5), 583- 90. 3. B. V. Fortner, E. J. Stepanski, S. C. Wang, S. Kasprowicz, H. H. Durrence (2002) "Sleep and Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 376 quality of life in breast cancer patients". J Pain Symptom Manage, 24 (5), 471-80. 4. F. P. Cappuccio, L. D'Elia, P. Strazzullo, M. A. Miller (2010) "Sleep duration and all-cause mortality: a systematic review and meta-analysis of prospective studies". Sleep, 33 (5), 585-92. 5. S. L. Beck, A. M. Berger, A. M. Barsevick, B. Wong, K. A. Stewart, W. N. Dudley (2010) "Sleep quality after initial chemotherapy for breast cancer". Support Care Cancer, 18 (6), 679-89. 6. O. M. Buxton, S. W. Cain, S. P. O'Connor, J. H. Porter, J. F. Duffy, W. Wang, et al. (2012) "Adverse metabolic consequences in humans of prolonged sleep restriction combined with circadian disruption". Sci Transl Med, 4 (129), 129ra43. 7. S. Ancoli-Israel, L. Liu, M. Rissling, L. Natarajan, A. B. Neikrug, B. W. Palmer, et al. (2014) "Sleep, fatigue, depression, and circadian activity rhythms in women with breast cancer before and after treatment: a 1-year longitudinal study". Support Care Cancer, 22 (9), 2535-45. 8. D. Jung, K. M. Lee, W. H. Kim, J. Y. Lee, T. Y. Kim, S. A. Im, et al. (2016) "Longitudinal Association of Poor Sleep Quality With Chemotherapy-Induced Nausea and Vomiting in Patients With Breast Cancer". Psychosom Med, 78 (8), 959-965. 9. T. C. Mansano-Schlosser, M. F. Ceolim (2017) "Association between poor clinical prognosis and sleep duration among breast cancer patients". Rev Lat Am Enfermagem, 25, e2899. 10. T. C. Mansano-Schlosser, M. F. Ceolim, T. D. Valerio (2017) "Poor sleep quality, depression and hope before breast cancer surgery". Appl Nurs Res, 34, 7-11. 11. R. Fakih, M. Rahal, L. Hilal, L. Hamieh, M. Dany, S. Karam, et al. (2018) "Prevalence and Severity of Sleep Disturbances among Patients with Early Breast Cancer". Indian J Palliat Care, 24 (1), 35- 38. 12. Arthur Mesas, Paul Peppard, Lauren Hale, Elliot Friedman, F. Nieto, Erika Hagen (2019) "Individuals' perceptions of social support from family and friends are associated with lower risk of sleep complaints and short sleep duration". Sleep Health, 6 13. L. Y. Chang, C. C. Wu, L. L. Yen, H. Y. Chang (2019) "The effects of family dysfunction trajectories during childhood and early adolescence on sleep quality during late adolescence: Resilience as a mediator". Soc Sci Med, 222, 162-170. 14. K. Liu, T. Yin, Q. Shen (2020) "Relationships between sleep quality, mindfulness and work- family conflict in Chinese nurses: A cross- sectional study". Appl Nurs Res, 151250. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 377 SUMMARY Objective: Sleep plays an important role in everyone's health. For breast cancer patients, poor sleep quality of life reduces the quality of life, is associated with treatment outcomes, and even increases the risk of death. However, studies around the world show that poor sleep quality is becoming more common in breast cancer patients, this rate ranges from 30 - 66%. Therefore, the studies were conducted to determine the poor sleep quality rate and related factors in breast cancer patients at Chi Minh City Oncology nospital. with the desire to improve sleep quality as well as the quality of life of cancer patients Method: Cross-sectional study describes over 105 breast cancer patients from stage I to stage III who are being treated in the departments of Internal 4, Surgery 4, Radiation 4 at Ho Chi Minh Ccity Oncology hospital. Overall sampling study, using the PSQI scale to assess sleep quality (PSQI score>5 mean poor quality). Results: The rate of poor quality control in breast cancer patients is 79.1%. There is a relationship between the sleep quality and family function, anxiety and depression. Keyword: Sleep Quality, Breast Cancer, PSQI, Ho Chi Minh city Oncology hospital.
File đính kèm:
- chat_luong_giac_ngu_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_benh_nhan_ung.pdf