Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19

Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh

suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô

tả cắt ngang, đã được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 10 năm 2020 trên toàn bộ 201 người bệnh. Kết quả:

Nghiên cứu 201 người bệnh cho thấy: Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn ở mức độ trung

bình (mean = 50.2, SD = 15,0). Trong đó, giới hạn vai trò do vấn đề cảm xúc ở mức cao nhất (mean = 80,3,

SD= 37,9); sức khỏe tổng thể ở mức thấp nhất (mean = 39,6, SD = 19,3). Chất lượng cuộc sống của người

bệnh suy thận mạn có mối tương quan với năng lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, sức khỏe

tâm thần, thực hành phòng dịch COVID-19. Kết luận: Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn ở

mức độ trung bình. Có mối tương quan giữa chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn với năng

lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, sức khỏe tâm thần và thực hành phòng dịch COVID-19.

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19 trang 1

Trang 1

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19 trang 2

Trang 2

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19 trang 3

Trang 3

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19 trang 4

Trang 4

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19 trang 5

Trang 5

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19 trang 6

Trang 6

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19 trang 7

Trang 7

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19 trang 8

Trang 8

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19 trang 9

Trang 9

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19 trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 6580
Bạn đang xem tài liệu "Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19

Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
142 TCNCYH 142 (6) - 2021
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở 
NGƯỜI BỆNH SUY THẬN MẠN LỌC MÁU CHU KỲ TẠI 
BỆNH VIỆN ĐA KHOA NÔNG NGHIỆP TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19
Phan Thị Dung¹, *, Đỗ Thị Ngọc Thục²
 ¹Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội 
²Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp
Từ khóa: Dịch bệnh COVID-19; người bệnh suy thận mạn.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh 
suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô 
tả cắt ngang, đã được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 10 năm 2020 trên toàn bộ 201 người bệnh. Kết quả: 
Nghiên cứu 201 người bệnh cho thấy: Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn ở mức độ trung 
bình (mean = 50.2, SD = 15,0). Trong đó, giới hạn vai trò do vấn đề cảm xúc ở mức cao nhất (mean = 80,3, 
SD= 37,9); sức khỏe tổng thể ở mức thấp nhất (mean = 39,6, SD = 19,3). Chất lượng cuộc sống của người 
bệnh suy thận mạn có mối tương quan với năng lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, sức khỏe 
tâm thần, thực hành phòng dịch COVID-19. Kết luận: Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn ở 
mức độ trung bình. Có mối tương quan giữa chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn với năng 
lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, sức khỏe tâm thần và thực hành phòng dịch COVID-19.
Tác giả liên hệ: Phan Thị Dung
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội 
Email: phanthidzungvd@gmail.com
Ngày nhận: 04/05/2021
Ngày được chấp nhận: 09/06/2021
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh thận mạn giai đoạn cuối (BTMGĐC) là 
bệnh lý suy giảm dần và không hồi phục chức 
năng thận do nhiều nguyên nhân khác nhau. 
Theo thống kê ở Mỹ năm 2007 có khoảng 26 
triệu người mắc bệnh thận mạn chiếm tỷ lệ 
khoảng 13,1% và khoảng 1400/1 triệu người 
mắc BTMGĐC.8 Tại Pháp mỗi năm có khoảng 
4800 đến 6000 ca mới mắc BTMGĐC,4 ở Nhật 
Bản và Đài Loan là khoảng gần 2400 ca.1 
Người ta dự báo cứ một người bệnh được điều 
trị thay thế thận thì có tới 100 người đang mắc 
bệnh thận mạn ở các giai đoạn khác nhau.1 
Tại Việt Nam ước tính có khoảng 8 triệu người 
mắc bệnh thận mạn, chiếm khoảng 10% dân 
số, trong đó 3,1% đến 3,6% bệnh thận mạn tiến 
triển từ giai đoạn III đến giai đoạn V6.
Sự bùng phát của bệnh viêm đường hô 
hấp cấp do virus coronavirus mới (COVID-19) 
được phát hiện lần đầu tiên vào tháng 12 năm 
2019 tại Vũ Hán, Trung Quốc.5 COVID-19 đã 
lan rộng đến nhiều quốc gia đang phát triển và 
được công nhận là mối quan tâm về sức khỏe 
toàn cầu, khiến các tổ chức y tế công cộng toàn 
cầu phải cảnh giác cao.7 Tổ chức Y tế Thế giới 
(WHO) tuyên bố tình trạng khẩn cấp COVID-19 
là trường hợp khẩn cấp y tế công cộng thứ sáu 
được quốc tế quan tâm vào ngày 30 tháng 1 
năm 202.11 Theo báo cáo vào ngày 24 tháng 3 
năm 2020, tổng số người được chẩn đoán mắc 
COVID-19 là 372.757 trường hợp, với 16.231 
trường hợp tử vong ở 170 quốc gia/khu vực; 
Trong số này, 123 trường hợp đã được báo 
cáo tại Việt Nam.3 COVID-19 đã chính thức 
được tuyên bố là đại dịch bởi WHO vào ngày 
11 tháng 3 năm 2020.9 Phương pháp điều trị 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
143TCNCYH 142 (6) - 2021
và vắc-xin cho COVID-19 hiện đang được phát 
triển. Do đó, việc phòng ngừa và chăm sóc hỗ 
trợ rất được khuyến khích,3 đặc biệt là ở các 
nước có hệ thống chăm sóc sức khỏe yếu hơn, 
theo đề xuất của Tổng giám đốc WHO Tedros 
Adhanom Ghebreyesus.12
Năng lực sức khỏe, sức khỏe tâm thần của 
người bệnh (NB) suy thận mạn lọc máu chu 
kỳ tại khoa Thận-Niệu-Lọc máu Bệnh viện Đa 
khoa Nông nghiệp (BVĐKNN) có thể thay đổi 
trong thời gian đại dịch bệnh COVID -19 toàn 
cầu diễn ra. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên 
cứu này với 2 mục tiêu: 
1) Khảo sát chất lượng cuộc sống của người 
bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ trong đại 
dịch Covid-19 toàn cầu tại Bệnh viện Đa khoa 
Nông nghiệp; 
2) Xác định một số yếu tố liên quan đến 
chất lượng cuộc sống của người bệnh suy 
thận mạn lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Đa 
khoa Nông nghiệp.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, được thực hiện 
tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp. Từ tháng 2 
đến ngày 10 năm 2020 trên toàn bộ 201 người 
bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ, tỉnh táo, tiếp 
xúc tốt và đồng ý tham gia nghiên cứu.
2. Phương pháp
Bộ câu hỏi tự điền gồm: 
1) Thông tin cơ bản gồm 11 câu:4 tuổi, giới 
tính, trình trạng hôn nhân, trình độ văn hóa, 
nghề nghiệp, thu nhập trung bình/hộ gia đình, 
khả năng chi trả các dịch vụ y tế, địa vị xã 
hội,đối tượng nghi phơi nhiễm với Covid từ F1 
đến F6, triệu chứng nghi nghờ COVID 19; 
2) Thực hành phòng chống dịch gồm 3 
câu: thực hiện vệ sinh bàn tay, giữ khoảng 
cách, đeo khẩu trang. Điểm từ 1 đến 3, phạm 
vi điểm 3-15, với số điểm càng cao, việc tuân 
thủ các biện pháp phòng chống lây nhiễm với 
COVID-19 càng tốt; 
3) Năng lực sức khỏe điện tử thang đo gồm 
8 câu dùng để đánh giá kỹ năng tìm kiếm thông 
tin.10 bộ câu hỏi hợp lệ và đáng tin cậy dựa trên 
thanh đo Likert 5 điểm từ 1 = hoàn toàn không 
đồng ý, đến 5 = hoàn toàn đồng ý. Điểm số dao 
động từ 8 đến 40, với điểm số cao, khả năng 
đọc hiểu về sức khỏe tốt hơn; 
4) Hiểu biết về sức khỏe gồm 12 câu đã 
được sử dụng để đánh giá mức hiểu biết về 
sức khỏe.3,11 Các chỉ số hiểu biết sức khỏe đã 
được chuẩn hóa thành số đo thống nhất từ 0 
đến 50 (0 là giá trị hiểu biết sức khỏe thấp nhất 
và 50 là cao nhất); 
5) Năng lực về dinh dưỡng điện tử gồm 7 câu; 
6) Chế độ ăn lành mạnh gồm 6 câu. 
7) Chất lượng cuộc sống liên quan đến 
sức khỏe (HRQoL) được đo lường bằng phiếu 
khảo sát gồm 36 mục (SF-36), được phát triển 
tại Công ty Cổ phần Nghiên cứu và Phát triển 
(RAND).5 Độ tin cậy và tính hợp lệ của thang 
đo này đã được sử dụng trong các nghiên cứu 
trước đây.7,16 Phương pháp chấm điểm của 
RAND-36 do RAND Corporation hướng dẫn.8,14 
khoảng điểm từ 0 đến 100, với điểm số cao hơn 
cho thấy chất lượng cuộc s ...  (10,4) 29,7
Mức độ lo âu (GAD) < 0,001b
Không (GAD < 8) 184 (91,5) 53,8
Có (GAD ≥ 8) 17 (8,5) 27,1
Lo sợ về COVID-19 
(phạm vi điểm từ 7 - 35)
24,8 ± 5,3 50,2 ± 15,0
Thực hành phòng lây nhiễm COVID-19 
(phạm vi điểm từ 3 - 15)
13,1 ± 2,1 50,2 ± 15,0
Lưu ý. HRQoL, chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe; PHQ-9, bộ câu hỏi sức khỏe người 
bệnh 9 tiểu mục; GAD, Rối loạn lo âu chung; COVID-19, dịch bệnh do vi rút corona 2019; n, tần xuất; 
%, phần trăm; SD, độ lệch chuẩn; * p< .05, aSpearman correlation, bMann-Whitney U-test.
Yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần gồm địa vị xã hội và nghi nhiễm COVID-19. Ngoài ra, 
thay đổi hoạt động thể lực so với trước dịch bệnh cũng có ảnh hưởng đến mức độ trầm cảm của 
người bệnh.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
146 TCNCYH 142 (6) - 2021
Bảng 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của người bệnh suy thận mạn (N= 201)
PHQ < 10 
(N = 180)
PHQ ≥ 10
(N = 21)
GAD < 8 
(N = 184)
GAD ≥ 8
(N = 17)
n (%) n (%) p n (%) n (%) p
Tuổi, năm 0.732 0,818
< 20 3 (1,5) 0 (0) 3 (1,5) 0 (0)
20-39 31 (15,4) 2 (1,0) 29 (14,4) 4 (2,0)
40-59 81 (40,3) 10 (5,0) 84 (41,8) 7 (3,5)
≥ 60 65 (32,3) 9 (4,5) 68 (33,8) 6 (3,0)
Giới 0,782 0,479
Nam 100 (49,8) 11 (5,5) 103 (51,2) 8 (4,0)
Nữ 80 (39,8) 10 (5,0) 81 (40,3) 9 (4,5)
Tình trạng hôn nhân NA NA
Chưa kết hôn 3 (1,5) 0 (0) 3 (1,5) 0 (0)
Đã kết hôn 177 (88,1) 21 (10,4) 181 (90,0) 17 (8,5)
Khả năng chi trả y tế NA NA
Rất hoặc tương đối khó 174 (86,6) 21 (10,4) 178 (88,6) 17 (8,5)
Rất hoặc tương đối dễ 6 (3,0) 0 (0) 6 (3,0) 0 (0)
Địa vị xã hội < 0,001 0,038
Thấp 148 (73,6) 10 (5,0) 148 (73,6) 10 (5,0)
Trung bình hoặc cao 32 (15,9) 11 (5,5) 36 (17,9) 7 (3,5)
Đối tượng nghi nhiễm COVID-19 0,001 0,028
Không 156 (77,6) 12 (6,0) 157 (78,1) 11 (5,5)
Có 24 (11,9) 9 (4,5) 27 (13,4) 6 (3,0)
Dấu hiệu nghi nhiễm COVID-19 0,094 0,112
Không 154 (76,6) 15 (7,5) 157 (78,1) 12 (6,0)
Có 26 (12,9) 6 (3,0) 27 (13,4) 5 (2,5)
Trình độ văn hóa 0,406 0,575
THPT trở xuống 143 (71,1) 19 (9,5) 147 (73,1) 15 (7,5)
Học nghề/Trung cấp/Cao đẳng 28 (13,9) 1 (0,5) 28 (13,9) 1 (0,5)
Đại học/Sau đại học 9 (4,5) 1 (0,5) 9 (4,5) 1 (0,5)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
147TCNCYH 142 (6) - 2021
PHQ < 10 
(N = 180)
PHQ ≥ 10
(N = 21)
GAD < 8 
(N = 184)
GAD ≥ 8
(N = 17)
n (%) n (%) p n (%) n (%) p
Bệnh lý kèm theo NA NA
Một hoặc nhiều 180 (89,6) 21 (10,4) 184 (91,5) 17 (8,5)
Không 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0)
Nghề nghiệp 0,679 0,289
Tư nhân/Nhà nước 5 (2,5) 1 (0,5) 5 (2,5) 1 (0,5)
Kinh doanh tự do 36 (17,9) 2 (1,0) 37 (18,4) 1 (0,5)
Thất nghiệp/Phụ thuộc 123 (61,2) 16 (8,0) 127 (63,2) 12 (6,0)
Khác 16 (8,0) 2 (1,0) 15 (7,5) 3 (1,5)
Hút thuốc so với trước dịch COVID-19 NA NA
Chưa bao giờ, bỏ 
hoặc ít hơn
179 (89,1) 21 (10,4) 183 (91,0) 17 (8,5)
Không thay đổi 
hoặc nhiều hơn 
1 (0,5) 0 (0) 1 (0,5) 0 (0)
Uống rượu, bia so với trước dịch COVID-19 NA NA
Chưa bao giờ, bỏ 
hoặc ít hơn
179 (89,1) 21 (10,4) 183 (91,0) 17 (8,5)
Không thay đổi 
hoặc nhiều hơn
1 (0,5) 0 (0) 1 (0,5) 0 (0)
Hoạt động thể lực so với trước dịch COVID-19 0,034 0,151
Chưa bao giờ, bỏ 
hoặc ít hơn
153 (76,1) 14 (7,0) 155 (77,1) 12 (6,0)
Không thay đổi 
hoặc nhiều hơn
27 (13,4) 7 (3,5) 29 (14,4) 5 (2,5)
Thay đổi chế độ ăn so với trước dịch COVID-19 0,617 0,666
Kém lành mạnh hơn 17 (8,5) 2 (1,0) 17 (8,5) 2 (1,0)
Không thay đổi/lành mạnh 
hơn 
163 (81,1) 19 (9,5) 167 (83,1) 15 (7,5)
Thay đổi sức khỏe tâm thần 
so với trước dịch COVID-19
0,320 0,707
Tệ hơn 26 (12,9) 1 (0,5) 24 (11,9) 3 (1,5)
Không thay đổi hoặc tốt hơn 154 (76,6) 20 (10,0) 160 (79,6) 14 (7,0)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
148 TCNCYH 142 (6) - 2021
PHQ < 10 
(N = 180)
PHQ ≥ 10
(N = 21)
GAD < 8 
(N = 184)
GAD ≥ 8
(N = 17)
n (%) n (%) p n (%) n (%) p
Thay đổi chất lượng cuộc sống 
so với trước dịch COVID-19
0,577 0,162
Tệ hơn 41 (20,4) 3 (1,5) 38 (18,9) 6 (3,0)
Không thay đổi hoặc tốt hơn 139 (89,6) 18 (9,0) 146 (72,6) 11 (5,5)
Lưu ý. PHQ, bộ câu hỏi sức khỏe người bệnh; GAD, rối loạn lo âu chung; COVID-19, dịch bệnh 
do vi rút corona 2019; n, tần xuất; %, phần trăm; Sử dụng Kiểm định Chi-square; p, mức ý nghĩa 
thống kê; NA, Nonaplicable- Không áp dụng được.
IV. BÀN LUẬN
Theo nghiên cứu của chúng tôi, nhóm tuổi 
từ 40 - 59 chiếm tỷ lệ cao nhất 45,3%; nhóm 
tuổi > 60 chiếm 36,8%; nhóm tuổi 20 - 39 
chiếm tỷ lệ 16,4%. Nhóm tuổi < 20 chiếm tỷ 
lệ thấp nhất 1,5%. Người bệnh là nam chiếm 
55,2% người bệnh nữ chiếm 44,8%. Người 
bệnh có trình độ văn hóa dưới THPT chiếm tỷ 
lệ cao nhất 80,6% người bệnh có trình độ học 
nghề, trung cấp/cao đẳng chiếm 14,4% người 
bệnh có trình độ đại học/sau đại học chiếm tỷ 
lệ thấp nhất 5%.
Năng lực sức khỏe của đối tượng nghiên 
cứu là 15,2 ± 12,5. Năng lực sức khỏe và chất 
lượng cuộc sống không có tương quan với 
nhau với p > 0,05. Năng lực sức khỏe điện 
tử (eHL) của đối tượng nghiên cứu có giá trị 
trung bình là 24,6 ± 7,5. Năng lực sức khỏe 
của người bệnh và chất lượng cuộc sống của 
người bệnh có tương quan với nhau với p < 
0,001. Năng lực chế độ ăn lành mạnh điện tử 
trung bình là 8,3 ± 3,7. Chất lượng cuộc sống 
của người bệnh suy thận mạn có mối tương 
quan với năng lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế 
độ ăn lành mạnh, sức khỏe tâm thần, thực 
hành phòng dịch COVID-19. Theo đó, người 
bệnh có năng lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế 
độ ăn lành mạnh, sức khỏe tâm thần và thực 
hành phòng dịch càng cao thì chất lượng cuộc 
sống càng cao.
Sức khỏe tâm thần có 91,5% người bệnh 
có điểm số GAD < 8; chỉ có 8,5% người bệnh 
có điểm số GAD > 8 là có rối loạn lo âu về 
bệnh tật và dịch bệnh COVID 19. Điểm trung 
bình chất lượng cuộc sống của nhóm người 
bệnh có điểm GAD < 8 lớn hơn so với điểm 
trung bình chất lượng cuộc sống của nhóm 
GAD > 8 có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. 
Khi sử dụng bộ câu hỏi PHQ - 9 có 89,6% 
người bệnh suy thận mạn không có rối loạn 
trầm cảm, 10,4% người bệnh suy thận mạn có 
rối loạn trầm cảm với thang điểm PHQ - 9 dưới 
≥ 10. Điểm trung bình chất lượng cuộc sống 
của người bệnh không có rối loạn trầm cảm là 
54,2 cao hơn điểm trung bình chất lượng cuốc 
sống của người bệnh có rối loạn trầm cảm là 
29,7 có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rối loạn 
trầm cảm có ảnh hưởng tới chất lượng cuộc 
sống của người bệnh suy thận mạn. 
Chất lượng cuộc sống là yếu tố tiên đoán 
cho sức khỏe của người bệnh suy thận mạn 
và là yếu tố quan trọng trong đánh giá chất 
lượng chăm sóc. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
149TCNCYH 142 (6) - 2021
Theo nghiên cứu của chúng tôi, đánh giá 
chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận 
mạn lọc máu chu kỳ sử dụng bộ câu hỏi SF - 
36, kết quả cho thấy, điểm trung bình hoạt động 
thể chất là 42,4 ± 24,7; Giới hạn vai trò do sức 
khỏe thể chất 56,3 ± 48,9; Giới hạn vai trò do 
vấn đề cảm xúc 80,3 ± 37,9; Năng lượng/mệt 
mỏi 49,6 ± 9,3; Tình cảm tốt đẹp 53,5 ± 7,6; 
Hoạt động xã hội 56,6 ± 15,8; Đau 53,5 ± 22,8; 
Sức khỏe tổng thể 39,6 ± 19,3. Tổng điểm chất 
lượng cuộc sống của nhóm người bệnh nghiên 
cứu ở mức trung bình 50,2 ± 15,0. 
Các yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm 
thần của người bệnh suy thận mạn: Về tuổi tỷ 
lệ trầm cảm và lo âu ở nhóm tuổi từ 40 - ≥ 60 
là cao nhất tuy nhiên sự khác biệt so với các 
nhóm tuổi khác không có ý nghĩa thống kê với 
p > 0,05; Địa vị xã hội: tỷ lệ trầm cảm ở nhóm 
người bệnh có địa vị xã hội thấp cao hơn so 
với tỷ lệ trầm cảm ở nhóm người bệnh có địa 
vị xã hội cao với p < 0,05. Tỷ lệ lo âu ở nhóm 
người bệnh có địa vị xã hội cao tương đương 
với tỷ lệ lo âu ở nhóm người bệnh có địa vị xã 
hội thấp, với p > 0,05; Nghi nhiễm COVID - 19: 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ 
lệ trầm cảm và lo âu của nhóm người bệnh có 
nghi ngờ nhiễm COVID - 19 là cao hơn so với 
nhóm người bệnh không có nghi nhiễm COVID 
- 19 có ý nghĩa thống kê với p < 0,05; Nghề 
nghiệp: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy tỷ lệ người bệnh lo âu và trầm cảm ở các 
nhóm nghề nghiệp là tương đương nhau với p 
> 0,05. Điều này cho thấy nghề nghiệp không 
ảnh hưởng tới mức độ lo âu và trầm cảm của 
người bệnh suy thận mạn; Hoạt động thể lực 
so với trước dịch bệnh COVID-19: Theo nghiên 
cứu của chúng tôi nhóm người bệnh có mức 
hoạt động thể lực là chưa bao giờ, bỏ hoặc ít 
hơn và nhóm người bệnh có mức hoạt động thể 
lực không thay đổi hoặc nhiều hơn có mức độ 
lo âu trầm cảm tương đương nhau với p > 0,05. 
Điều này cho thấy mức độ hoạt động thể lực 
không ảnh hưởng tới mức độ lo âu và trầm cảm 
của người bệnh suy thận mạn; Thay đổi chế 
độ ăn so với trước dịch bệnh COVID-19: Kết 
quả nghiên cứu cho thấy mức độ lo âu và trầm 
cảm ở nhóm người bệnh có chế độ ăn kém lành 
mạnh hơn và nhóm người bệnh có chế độ ăn 
không thay đổi/ lành mạnh hơn là tương đương 
nhau với p > 0,05. Điều này cho thấy chế độ ăn 
không ảnh hưởng tới mức độ lo âu và trầm cảm 
của người bệnh suy thận mạn. 
V. KẾT LUẬN
Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy 
thận mạn ở mức độ trung bình 50,2 ± 15,0. 
Trong đó, giới hạn vai trò do vấn đề cảm xúc ở 
mức cao nhất 80,3 ± 37,9; sức khỏe tổng thể ở 
mức thấp nhất 39,6 ± 19,3.
Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy 
thận mạn có mối tương quan với năng lực 
sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, 
sức khỏe tâm thần, thực hành phòng dịch 
COVID-19.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Ngọc và cộng sự (2018). 
Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân đang lọc 
máu định kỳ. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh 
phụ bản 22(5) : 125 - 131.
2. Ngô Huy Hoàng Lê Thị Huyền (2016). 
Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận 
mạn điều trị tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam 
- Cu Ba Đồng Hới năm 2016. Khoa Học Điều 
Dưỡng 1(2) : 58 - 65.
3. Duong TV, Nguyen TTP, Pham KM, 
Nguyen KT, Giap MH, Tran TDX, et al. Validation 
of the Short-Form Health Literacy Questionnaire 
(HLS-SF12) and Its Determinants among 
People Living in Rural Areas in Vietnam. Int J 
Environ Res Public Health 2019 16(18):3346. 
4. Gallagher, T.H. (2020). Schleyer, A.M. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
150 TCNCYH 142 (6) - 2021
“We Signed Up for this!” - Student and Trainee 
Responses to the Covid-19 Pandemic. N.Engl. 
J. Med. 2020.
5. Hays RD, Kallich J, Mapes D, et al. Kidney 
Disease Quality of Life Short Form (KDQOL-
SF), Version 1.3: a manual for use and scoring. 
Santa Monica, CA: Rand. 1997;39.
6. Hoang C.Minh. Minh H.Nguyen, Binh 
N.Do, Cuong Q.Tran, Thao TP Nguyen et al 
(2020). People with Suspected COVID-19 
Symptoms Were More Likely Depressed and 
Had Lower Health-Related Quality of Life: The 
Potential Benefit of Health Literacy https://www.
mdpi.com/2077-0383/9/4/965/htm.
7. Jin W, Yu H. A study of the reliability and 
validity of SF-36 scale on evaluating health of 
population. Chin Health Resour. 2012;15:265-
267.
8. Hays RD, Morales LS. The RAND-36 
measure of health-related quality of life. Annals 
of medicine. 2001;33(5):350-357.
9. Mackert, M. (2015). Introduction to a 
Colloquium: Challenges and Opportunities in 
Advancing Health Literacy Research. Health 
Commun. 30 : 1159-1160. 
10. Norman CD, Skinner HA. eHEALS: The 
eHealth Literacy Scale. J Med Internet Res 
2006 8(4):e27. 
11. Nguyen HT, Do BN, Pham KM, Kim GB, 
Dam HTB, Nguyen TT, et al (2020). Fear of 
COVID-19 Scale-Associations of Its Scores with 
Health Literacy and Health-Related Behaviors 
among Medical Students. Int J Environ Res 
Public Health 2020 17(11):4164. 
12. Plummer, F.; Manea, L.; Trepel, D.; 
McMillan, D. (2016). Screening for anxiety 
disorders with the GAD-7 and GAD-2: a 
systematic review and diagnostic metaanalysis. 
Gen. Hosp. Psychiatry, 39 : 24-31.
13. Raynor, D.K. (2012). Health litera-
cy. BMJ, 344, e2188. 
14. RAND Medical Outcomes Study. 36-
Item Short Form Survey (SF-36) Scoring 
Instructions. https://www.rand.org/health care/
surveys_tools/mos/36-item-short-form/scoring.
html. Accessed March, 2021.
15. Sørensen, K et al (2012). Health literacy 
and public health: a systematic review and 
integration of definitions and models. BMC Public 
Health, 12, 80. 
16. Vander Zee KI, Sanderman R, Heyink 
JW, de Haes H. Psychometric qualities of 
the RAND 36-Item Health Survey 1.0: a 
multidimensional measure of general health 
status. International journal of behavioral 
medicine.1996;3(2):104-122.
17. Vivekanand Jha (2009). Current status 
of chronic kidney disease care in Southest Asia, 
Seminars in Nephrology, 29(5), 487-496.
18. Wang, C.; Horby, P.W.; Hayden, F.G.; 
Gao, G.F. (2020). A novel coronavirus outbreak 
of global health concern. Lancet, 395, 470-473. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
151TCNCYH 142 (6) - 2021
Summary
QUALITY OF LIFE OF CHRONIC KIDNEY DISEASE PATIENTS 
UNDERGOING ROUTINE HEMODIALYSIS THERAPY AT THE 
AGRICULTURE GENERAL HOSPITAL DURING THE COVID-19 
PANDEMIC AND ASSOCIATED FACTORS 
Objectives: This study investigates the quality of life (QoL) and associated factors in patients with 
chronic kidney disease (CKD) who require routine hemodialysis at the Agriculture General Hospital. 
Methods: This descriptive cross-sectional study was conducted on a convenient sample of 201 
patients from February 2020 to October 2020. Results: The patients’ QoL was at the average level 
(mean = 50.2, SD= 15.0). The mean score for role limitations caused by emotional problems was 
found highest (mean= 80.3, SD= 37.9), while the figure for general health was the lowest (mean= 
39.6, SD= 19.3). The QoL of CKD patients is associated with their health literacy, nutrition, healthy 
diets, mental health, and practice of COVID-19 prevention. Conclusion: The CKD patients’ QoL was 
at the average level. There were associations of factors such as health literacy, nutrition, healthy 
diets, mental health, and practice of COVID-19 with the QoL of CKD patients.
Keywords: COVID-19 pandemic, patients with chronic kidney disease.

File đính kèm:

  • pdfchat_luong_cuoc_song_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_benh.pdf