Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19
Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh
suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô
tả cắt ngang, đã được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 10 năm 2020 trên toàn bộ 201 người bệnh. Kết quả:
Nghiên cứu 201 người bệnh cho thấy: Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn ở mức độ trung
bình (mean = 50.2, SD = 15,0). Trong đó, giới hạn vai trò do vấn đề cảm xúc ở mức cao nhất (mean = 80,3,
SD= 37,9); sức khỏe tổng thể ở mức thấp nhất (mean = 39,6, SD = 19,3). Chất lượng cuộc sống của người
bệnh suy thận mạn có mối tương quan với năng lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, sức khỏe
tâm thần, thực hành phòng dịch COVID-19. Kết luận: Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn ở
mức độ trung bình. Có mối tương quan giữa chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn với năng
lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, sức khỏe tâm thần và thực hành phòng dịch COVID-19.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp trong đại dịch Covid - 19
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 142 TCNCYH 142 (6) - 2021 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI BỆNH SUY THẬN MẠN LỌC MÁU CHU KỲ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA NÔNG NGHIỆP TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19 Phan Thị Dung¹, *, Đỗ Thị Ngọc Thục² ¹Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội ²Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp Từ khóa: Dịch bệnh COVID-19; người bệnh suy thận mạn. Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, đã được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 10 năm 2020 trên toàn bộ 201 người bệnh. Kết quả: Nghiên cứu 201 người bệnh cho thấy: Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn ở mức độ trung bình (mean = 50.2, SD = 15,0). Trong đó, giới hạn vai trò do vấn đề cảm xúc ở mức cao nhất (mean = 80,3, SD= 37,9); sức khỏe tổng thể ở mức thấp nhất (mean = 39,6, SD = 19,3). Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn có mối tương quan với năng lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, sức khỏe tâm thần, thực hành phòng dịch COVID-19. Kết luận: Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn ở mức độ trung bình. Có mối tương quan giữa chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn với năng lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, sức khỏe tâm thần và thực hành phòng dịch COVID-19. Tác giả liên hệ: Phan Thị Dung Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Email: phanthidzungvd@gmail.com Ngày nhận: 04/05/2021 Ngày được chấp nhận: 09/06/2021 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh thận mạn giai đoạn cuối (BTMGĐC) là bệnh lý suy giảm dần và không hồi phục chức năng thận do nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo thống kê ở Mỹ năm 2007 có khoảng 26 triệu người mắc bệnh thận mạn chiếm tỷ lệ khoảng 13,1% và khoảng 1400/1 triệu người mắc BTMGĐC.8 Tại Pháp mỗi năm có khoảng 4800 đến 6000 ca mới mắc BTMGĐC,4 ở Nhật Bản và Đài Loan là khoảng gần 2400 ca.1 Người ta dự báo cứ một người bệnh được điều trị thay thế thận thì có tới 100 người đang mắc bệnh thận mạn ở các giai đoạn khác nhau.1 Tại Việt Nam ước tính có khoảng 8 triệu người mắc bệnh thận mạn, chiếm khoảng 10% dân số, trong đó 3,1% đến 3,6% bệnh thận mạn tiến triển từ giai đoạn III đến giai đoạn V6. Sự bùng phát của bệnh viêm đường hô hấp cấp do virus coronavirus mới (COVID-19) được phát hiện lần đầu tiên vào tháng 12 năm 2019 tại Vũ Hán, Trung Quốc.5 COVID-19 đã lan rộng đến nhiều quốc gia đang phát triển và được công nhận là mối quan tâm về sức khỏe toàn cầu, khiến các tổ chức y tế công cộng toàn cầu phải cảnh giác cao.7 Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố tình trạng khẩn cấp COVID-19 là trường hợp khẩn cấp y tế công cộng thứ sáu được quốc tế quan tâm vào ngày 30 tháng 1 năm 202.11 Theo báo cáo vào ngày 24 tháng 3 năm 2020, tổng số người được chẩn đoán mắc COVID-19 là 372.757 trường hợp, với 16.231 trường hợp tử vong ở 170 quốc gia/khu vực; Trong số này, 123 trường hợp đã được báo cáo tại Việt Nam.3 COVID-19 đã chính thức được tuyên bố là đại dịch bởi WHO vào ngày 11 tháng 3 năm 2020.9 Phương pháp điều trị TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 143TCNCYH 142 (6) - 2021 và vắc-xin cho COVID-19 hiện đang được phát triển. Do đó, việc phòng ngừa và chăm sóc hỗ trợ rất được khuyến khích,3 đặc biệt là ở các nước có hệ thống chăm sóc sức khỏe yếu hơn, theo đề xuất của Tổng giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus.12 Năng lực sức khỏe, sức khỏe tâm thần của người bệnh (NB) suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại khoa Thận-Niệu-Lọc máu Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp (BVĐKNN) có thể thay đổi trong thời gian đại dịch bệnh COVID -19 toàn cầu diễn ra. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với 2 mục tiêu: 1) Khảo sát chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ trong đại dịch Covid-19 toàn cầu tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp; 2) Xác định một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Nghiên cứu mô tả cắt ngang, được thực hiện tại Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp. Từ tháng 2 đến ngày 10 năm 2020 trên toàn bộ 201 người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ, tỉnh táo, tiếp xúc tốt và đồng ý tham gia nghiên cứu. 2. Phương pháp Bộ câu hỏi tự điền gồm: 1) Thông tin cơ bản gồm 11 câu:4 tuổi, giới tính, trình trạng hôn nhân, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thu nhập trung bình/hộ gia đình, khả năng chi trả các dịch vụ y tế, địa vị xã hội,đối tượng nghi phơi nhiễm với Covid từ F1 đến F6, triệu chứng nghi nghờ COVID 19; 2) Thực hành phòng chống dịch gồm 3 câu: thực hiện vệ sinh bàn tay, giữ khoảng cách, đeo khẩu trang. Điểm từ 1 đến 3, phạm vi điểm 3-15, với số điểm càng cao, việc tuân thủ các biện pháp phòng chống lây nhiễm với COVID-19 càng tốt; 3) Năng lực sức khỏe điện tử thang đo gồm 8 câu dùng để đánh giá kỹ năng tìm kiếm thông tin.10 bộ câu hỏi hợp lệ và đáng tin cậy dựa trên thanh đo Likert 5 điểm từ 1 = hoàn toàn không đồng ý, đến 5 = hoàn toàn đồng ý. Điểm số dao động từ 8 đến 40, với điểm số cao, khả năng đọc hiểu về sức khỏe tốt hơn; 4) Hiểu biết về sức khỏe gồm 12 câu đã được sử dụng để đánh giá mức hiểu biết về sức khỏe.3,11 Các chỉ số hiểu biết sức khỏe đã được chuẩn hóa thành số đo thống nhất từ 0 đến 50 (0 là giá trị hiểu biết sức khỏe thấp nhất và 50 là cao nhất); 5) Năng lực về dinh dưỡng điện tử gồm 7 câu; 6) Chế độ ăn lành mạnh gồm 6 câu. 7) Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (HRQoL) được đo lường bằng phiếu khảo sát gồm 36 mục (SF-36), được phát triển tại Công ty Cổ phần Nghiên cứu và Phát triển (RAND).5 Độ tin cậy và tính hợp lệ của thang đo này đã được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây.7,16 Phương pháp chấm điểm của RAND-36 do RAND Corporation hướng dẫn.8,14 khoảng điểm từ 0 đến 100, với điểm số cao hơn cho thấy chất lượng cuộc s ... (10,4) 29,7 Mức độ lo âu (GAD) < 0,001b Không (GAD < 8) 184 (91,5) 53,8 Có (GAD ≥ 8) 17 (8,5) 27,1 Lo sợ về COVID-19 (phạm vi điểm từ 7 - 35) 24,8 ± 5,3 50,2 ± 15,0 Thực hành phòng lây nhiễm COVID-19 (phạm vi điểm từ 3 - 15) 13,1 ± 2,1 50,2 ± 15,0 Lưu ý. HRQoL, chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe; PHQ-9, bộ câu hỏi sức khỏe người bệnh 9 tiểu mục; GAD, Rối loạn lo âu chung; COVID-19, dịch bệnh do vi rút corona 2019; n, tần xuất; %, phần trăm; SD, độ lệch chuẩn; * p< .05, aSpearman correlation, bMann-Whitney U-test. Yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần gồm địa vị xã hội và nghi nhiễm COVID-19. Ngoài ra, thay đổi hoạt động thể lực so với trước dịch bệnh cũng có ảnh hưởng đến mức độ trầm cảm của người bệnh. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 146 TCNCYH 142 (6) - 2021 Bảng 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của người bệnh suy thận mạn (N= 201) PHQ < 10 (N = 180) PHQ ≥ 10 (N = 21) GAD < 8 (N = 184) GAD ≥ 8 (N = 17) n (%) n (%) p n (%) n (%) p Tuổi, năm 0.732 0,818 < 20 3 (1,5) 0 (0) 3 (1,5) 0 (0) 20-39 31 (15,4) 2 (1,0) 29 (14,4) 4 (2,0) 40-59 81 (40,3) 10 (5,0) 84 (41,8) 7 (3,5) ≥ 60 65 (32,3) 9 (4,5) 68 (33,8) 6 (3,0) Giới 0,782 0,479 Nam 100 (49,8) 11 (5,5) 103 (51,2) 8 (4,0) Nữ 80 (39,8) 10 (5,0) 81 (40,3) 9 (4,5) Tình trạng hôn nhân NA NA Chưa kết hôn 3 (1,5) 0 (0) 3 (1,5) 0 (0) Đã kết hôn 177 (88,1) 21 (10,4) 181 (90,0) 17 (8,5) Khả năng chi trả y tế NA NA Rất hoặc tương đối khó 174 (86,6) 21 (10,4) 178 (88,6) 17 (8,5) Rất hoặc tương đối dễ 6 (3,0) 0 (0) 6 (3,0) 0 (0) Địa vị xã hội < 0,001 0,038 Thấp 148 (73,6) 10 (5,0) 148 (73,6) 10 (5,0) Trung bình hoặc cao 32 (15,9) 11 (5,5) 36 (17,9) 7 (3,5) Đối tượng nghi nhiễm COVID-19 0,001 0,028 Không 156 (77,6) 12 (6,0) 157 (78,1) 11 (5,5) Có 24 (11,9) 9 (4,5) 27 (13,4) 6 (3,0) Dấu hiệu nghi nhiễm COVID-19 0,094 0,112 Không 154 (76,6) 15 (7,5) 157 (78,1) 12 (6,0) Có 26 (12,9) 6 (3,0) 27 (13,4) 5 (2,5) Trình độ văn hóa 0,406 0,575 THPT trở xuống 143 (71,1) 19 (9,5) 147 (73,1) 15 (7,5) Học nghề/Trung cấp/Cao đẳng 28 (13,9) 1 (0,5) 28 (13,9) 1 (0,5) Đại học/Sau đại học 9 (4,5) 1 (0,5) 9 (4,5) 1 (0,5) TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 147TCNCYH 142 (6) - 2021 PHQ < 10 (N = 180) PHQ ≥ 10 (N = 21) GAD < 8 (N = 184) GAD ≥ 8 (N = 17) n (%) n (%) p n (%) n (%) p Bệnh lý kèm theo NA NA Một hoặc nhiều 180 (89,6) 21 (10,4) 184 (91,5) 17 (8,5) Không 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) Nghề nghiệp 0,679 0,289 Tư nhân/Nhà nước 5 (2,5) 1 (0,5) 5 (2,5) 1 (0,5) Kinh doanh tự do 36 (17,9) 2 (1,0) 37 (18,4) 1 (0,5) Thất nghiệp/Phụ thuộc 123 (61,2) 16 (8,0) 127 (63,2) 12 (6,0) Khác 16 (8,0) 2 (1,0) 15 (7,5) 3 (1,5) Hút thuốc so với trước dịch COVID-19 NA NA Chưa bao giờ, bỏ hoặc ít hơn 179 (89,1) 21 (10,4) 183 (91,0) 17 (8,5) Không thay đổi hoặc nhiều hơn 1 (0,5) 0 (0) 1 (0,5) 0 (0) Uống rượu, bia so với trước dịch COVID-19 NA NA Chưa bao giờ, bỏ hoặc ít hơn 179 (89,1) 21 (10,4) 183 (91,0) 17 (8,5) Không thay đổi hoặc nhiều hơn 1 (0,5) 0 (0) 1 (0,5) 0 (0) Hoạt động thể lực so với trước dịch COVID-19 0,034 0,151 Chưa bao giờ, bỏ hoặc ít hơn 153 (76,1) 14 (7,0) 155 (77,1) 12 (6,0) Không thay đổi hoặc nhiều hơn 27 (13,4) 7 (3,5) 29 (14,4) 5 (2,5) Thay đổi chế độ ăn so với trước dịch COVID-19 0,617 0,666 Kém lành mạnh hơn 17 (8,5) 2 (1,0) 17 (8,5) 2 (1,0) Không thay đổi/lành mạnh hơn 163 (81,1) 19 (9,5) 167 (83,1) 15 (7,5) Thay đổi sức khỏe tâm thần so với trước dịch COVID-19 0,320 0,707 Tệ hơn 26 (12,9) 1 (0,5) 24 (11,9) 3 (1,5) Không thay đổi hoặc tốt hơn 154 (76,6) 20 (10,0) 160 (79,6) 14 (7,0) TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 148 TCNCYH 142 (6) - 2021 PHQ < 10 (N = 180) PHQ ≥ 10 (N = 21) GAD < 8 (N = 184) GAD ≥ 8 (N = 17) n (%) n (%) p n (%) n (%) p Thay đổi chất lượng cuộc sống so với trước dịch COVID-19 0,577 0,162 Tệ hơn 41 (20,4) 3 (1,5) 38 (18,9) 6 (3,0) Không thay đổi hoặc tốt hơn 139 (89,6) 18 (9,0) 146 (72,6) 11 (5,5) Lưu ý. PHQ, bộ câu hỏi sức khỏe người bệnh; GAD, rối loạn lo âu chung; COVID-19, dịch bệnh do vi rút corona 2019; n, tần xuất; %, phần trăm; Sử dụng Kiểm định Chi-square; p, mức ý nghĩa thống kê; NA, Nonaplicable- Không áp dụng được. IV. BÀN LUẬN Theo nghiên cứu của chúng tôi, nhóm tuổi từ 40 - 59 chiếm tỷ lệ cao nhất 45,3%; nhóm tuổi > 60 chiếm 36,8%; nhóm tuổi 20 - 39 chiếm tỷ lệ 16,4%. Nhóm tuổi < 20 chiếm tỷ lệ thấp nhất 1,5%. Người bệnh là nam chiếm 55,2% người bệnh nữ chiếm 44,8%. Người bệnh có trình độ văn hóa dưới THPT chiếm tỷ lệ cao nhất 80,6% người bệnh có trình độ học nghề, trung cấp/cao đẳng chiếm 14,4% người bệnh có trình độ đại học/sau đại học chiếm tỷ lệ thấp nhất 5%. Năng lực sức khỏe của đối tượng nghiên cứu là 15,2 ± 12,5. Năng lực sức khỏe và chất lượng cuộc sống không có tương quan với nhau với p > 0,05. Năng lực sức khỏe điện tử (eHL) của đối tượng nghiên cứu có giá trị trung bình là 24,6 ± 7,5. Năng lực sức khỏe của người bệnh và chất lượng cuộc sống của người bệnh có tương quan với nhau với p < 0,001. Năng lực chế độ ăn lành mạnh điện tử trung bình là 8,3 ± 3,7. Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn có mối tương quan với năng lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, sức khỏe tâm thần, thực hành phòng dịch COVID-19. Theo đó, người bệnh có năng lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, sức khỏe tâm thần và thực hành phòng dịch càng cao thì chất lượng cuộc sống càng cao. Sức khỏe tâm thần có 91,5% người bệnh có điểm số GAD < 8; chỉ có 8,5% người bệnh có điểm số GAD > 8 là có rối loạn lo âu về bệnh tật và dịch bệnh COVID 19. Điểm trung bình chất lượng cuộc sống của nhóm người bệnh có điểm GAD < 8 lớn hơn so với điểm trung bình chất lượng cuộc sống của nhóm GAD > 8 có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Khi sử dụng bộ câu hỏi PHQ - 9 có 89,6% người bệnh suy thận mạn không có rối loạn trầm cảm, 10,4% người bệnh suy thận mạn có rối loạn trầm cảm với thang điểm PHQ - 9 dưới ≥ 10. Điểm trung bình chất lượng cuộc sống của người bệnh không có rối loạn trầm cảm là 54,2 cao hơn điểm trung bình chất lượng cuốc sống của người bệnh có rối loạn trầm cảm là 29,7 có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rối loạn trầm cảm có ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn. Chất lượng cuộc sống là yếu tố tiên đoán cho sức khỏe của người bệnh suy thận mạn và là yếu tố quan trọng trong đánh giá chất lượng chăm sóc. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 149TCNCYH 142 (6) - 2021 Theo nghiên cứu của chúng tôi, đánh giá chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ sử dụng bộ câu hỏi SF - 36, kết quả cho thấy, điểm trung bình hoạt động thể chất là 42,4 ± 24,7; Giới hạn vai trò do sức khỏe thể chất 56,3 ± 48,9; Giới hạn vai trò do vấn đề cảm xúc 80,3 ± 37,9; Năng lượng/mệt mỏi 49,6 ± 9,3; Tình cảm tốt đẹp 53,5 ± 7,6; Hoạt động xã hội 56,6 ± 15,8; Đau 53,5 ± 22,8; Sức khỏe tổng thể 39,6 ± 19,3. Tổng điểm chất lượng cuộc sống của nhóm người bệnh nghiên cứu ở mức trung bình 50,2 ± 15,0. Các yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần của người bệnh suy thận mạn: Về tuổi tỷ lệ trầm cảm và lo âu ở nhóm tuổi từ 40 - ≥ 60 là cao nhất tuy nhiên sự khác biệt so với các nhóm tuổi khác không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05; Địa vị xã hội: tỷ lệ trầm cảm ở nhóm người bệnh có địa vị xã hội thấp cao hơn so với tỷ lệ trầm cảm ở nhóm người bệnh có địa vị xã hội cao với p < 0,05. Tỷ lệ lo âu ở nhóm người bệnh có địa vị xã hội cao tương đương với tỷ lệ lo âu ở nhóm người bệnh có địa vị xã hội thấp, với p > 0,05; Nghi nhiễm COVID - 19: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ trầm cảm và lo âu của nhóm người bệnh có nghi ngờ nhiễm COVID - 19 là cao hơn so với nhóm người bệnh không có nghi nhiễm COVID - 19 có ý nghĩa thống kê với p < 0,05; Nghề nghiệp: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ người bệnh lo âu và trầm cảm ở các nhóm nghề nghiệp là tương đương nhau với p > 0,05. Điều này cho thấy nghề nghiệp không ảnh hưởng tới mức độ lo âu và trầm cảm của người bệnh suy thận mạn; Hoạt động thể lực so với trước dịch bệnh COVID-19: Theo nghiên cứu của chúng tôi nhóm người bệnh có mức hoạt động thể lực là chưa bao giờ, bỏ hoặc ít hơn và nhóm người bệnh có mức hoạt động thể lực không thay đổi hoặc nhiều hơn có mức độ lo âu trầm cảm tương đương nhau với p > 0,05. Điều này cho thấy mức độ hoạt động thể lực không ảnh hưởng tới mức độ lo âu và trầm cảm của người bệnh suy thận mạn; Thay đổi chế độ ăn so với trước dịch bệnh COVID-19: Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ lo âu và trầm cảm ở nhóm người bệnh có chế độ ăn kém lành mạnh hơn và nhóm người bệnh có chế độ ăn không thay đổi/ lành mạnh hơn là tương đương nhau với p > 0,05. Điều này cho thấy chế độ ăn không ảnh hưởng tới mức độ lo âu và trầm cảm của người bệnh suy thận mạn. V. KẾT LUẬN Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn ở mức độ trung bình 50,2 ± 15,0. Trong đó, giới hạn vai trò do vấn đề cảm xúc ở mức cao nhất 80,3 ± 37,9; sức khỏe tổng thể ở mức thấp nhất 39,6 ± 19,3. Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn có mối tương quan với năng lực sức khỏe, dinh dưỡng, chế độ ăn lành mạnh, sức khỏe tâm thần, thực hành phòng dịch COVID-19. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Ngọc và cộng sự (2018). Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân đang lọc máu định kỳ. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh phụ bản 22(5) : 125 - 131. 2. Ngô Huy Hoàng Lê Thị Huyền (2016). Chất lượng cuộc sống của người bệnh suy thận mạn điều trị tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới năm 2016. Khoa Học Điều Dưỡng 1(2) : 58 - 65. 3. Duong TV, Nguyen TTP, Pham KM, Nguyen KT, Giap MH, Tran TDX, et al. Validation of the Short-Form Health Literacy Questionnaire (HLS-SF12) and Its Determinants among People Living in Rural Areas in Vietnam. Int J Environ Res Public Health 2019 16(18):3346. 4. Gallagher, T.H. (2020). Schleyer, A.M. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 150 TCNCYH 142 (6) - 2021 “We Signed Up for this!” - Student and Trainee Responses to the Covid-19 Pandemic. N.Engl. J. Med. 2020. 5. Hays RD, Kallich J, Mapes D, et al. Kidney Disease Quality of Life Short Form (KDQOL- SF), Version 1.3: a manual for use and scoring. Santa Monica, CA: Rand. 1997;39. 6. Hoang C.Minh. Minh H.Nguyen, Binh N.Do, Cuong Q.Tran, Thao TP Nguyen et al (2020). People with Suspected COVID-19 Symptoms Were More Likely Depressed and Had Lower Health-Related Quality of Life: The Potential Benefit of Health Literacy https://www. mdpi.com/2077-0383/9/4/965/htm. 7. Jin W, Yu H. A study of the reliability and validity of SF-36 scale on evaluating health of population. Chin Health Resour. 2012;15:265- 267. 8. Hays RD, Morales LS. The RAND-36 measure of health-related quality of life. Annals of medicine. 2001;33(5):350-357. 9. Mackert, M. (2015). Introduction to a Colloquium: Challenges and Opportunities in Advancing Health Literacy Research. Health Commun. 30 : 1159-1160. 10. Norman CD, Skinner HA. eHEALS: The eHealth Literacy Scale. J Med Internet Res 2006 8(4):e27. 11. Nguyen HT, Do BN, Pham KM, Kim GB, Dam HTB, Nguyen TT, et al (2020). Fear of COVID-19 Scale-Associations of Its Scores with Health Literacy and Health-Related Behaviors among Medical Students. Int J Environ Res Public Health 2020 17(11):4164. 12. Plummer, F.; Manea, L.; Trepel, D.; McMillan, D. (2016). Screening for anxiety disorders with the GAD-7 and GAD-2: a systematic review and diagnostic metaanalysis. Gen. Hosp. Psychiatry, 39 : 24-31. 13. Raynor, D.K. (2012). Health litera- cy. BMJ, 344, e2188. 14. RAND Medical Outcomes Study. 36- Item Short Form Survey (SF-36) Scoring Instructions. https://www.rand.org/health care/ surveys_tools/mos/36-item-short-form/scoring. html. Accessed March, 2021. 15. Sørensen, K et al (2012). Health literacy and public health: a systematic review and integration of definitions and models. BMC Public Health, 12, 80. 16. Vander Zee KI, Sanderman R, Heyink JW, de Haes H. Psychometric qualities of the RAND 36-Item Health Survey 1.0: a multidimensional measure of general health status. International journal of behavioral medicine.1996;3(2):104-122. 17. Vivekanand Jha (2009). Current status of chronic kidney disease care in Southest Asia, Seminars in Nephrology, 29(5), 487-496. 18. Wang, C.; Horby, P.W.; Hayden, F.G.; Gao, G.F. (2020). A novel coronavirus outbreak of global health concern. Lancet, 395, 470-473. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 151TCNCYH 142 (6) - 2021 Summary QUALITY OF LIFE OF CHRONIC KIDNEY DISEASE PATIENTS UNDERGOING ROUTINE HEMODIALYSIS THERAPY AT THE AGRICULTURE GENERAL HOSPITAL DURING THE COVID-19 PANDEMIC AND ASSOCIATED FACTORS Objectives: This study investigates the quality of life (QoL) and associated factors in patients with chronic kidney disease (CKD) who require routine hemodialysis at the Agriculture General Hospital. Methods: This descriptive cross-sectional study was conducted on a convenient sample of 201 patients from February 2020 to October 2020. Results: The patients’ QoL was at the average level (mean = 50.2, SD= 15.0). The mean score for role limitations caused by emotional problems was found highest (mean= 80.3, SD= 37.9), while the figure for general health was the lowest (mean= 39.6, SD= 19.3). The QoL of CKD patients is associated with their health literacy, nutrition, healthy diets, mental health, and practice of COVID-19 prevention. Conclusion: The CKD patients’ QoL was at the average level. There were associations of factors such as health literacy, nutrition, healthy diets, mental health, and practice of COVID-19 with the QoL of CKD patients. Keywords: COVID-19 pandemic, patients with chronic kidney disease.
File đính kèm:
- chat_luong_cuoc_song_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_benh.pdf