Chân dung người lính biển trong tiểu thuyết biển xanh màu lá của Nguyễn Xuân Thủy
Nguyễn Xuân Thủy là một trong số những nhà văn trẻ của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Tên
tuổi của anh gắn liền với tiểu thuyết “Biển xanh màu lá”. Tác phẩm này đã nhận được Giải C, giải
thưởng Báo chí - Văn học nghệ thuật của Bộ quốc phòng (2004-2009). Bài viết nhằm phân tích các
giá trị về phương diện nội dung của tác phẩm, đó là bức chân dung hiện thực đời sống sinh động của
người lính biển với những khó khăn, vất vả từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần. Tuy nhiên, họ
vẫn kiên cường vượt lên hoàn cảnh và khẳng định được phẩm chất của người lính kiên trung, mạnh mẽ
và anh hùng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Chân dung người lính biển trong tiểu thuyết biển xanh màu lá của Nguyễn Xuân Thủy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chân dung người lính biển trong tiểu thuyết biển xanh màu lá của Nguyễn Xuân Thủy
64 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 35 (12-2018) CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH BIỂN TRONG TIỂU THUYẾT BIỂN XANH MÀU LÁ CỦA NGUYỄN XUÂN THỦY y Nguyễn Thị Kiều Oanh(*), Huỳnh Thị Mỹ Linh(**) Tóm tắt Nguyễn Xuân Thủy là một trong số những nhà văn trẻ của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Tên tuổi của anh gắn liền với tiểu thuyết “Biển xanh màu lá”. Tác phẩm này đã nhận được Giải C, giải thưởng Báo chí - Văn học nghệ thuật của Bộ quốc phòng (2004-2009). Bài viết nhằm phân tích các giá trị về phương diện nội dung của tác phẩm, đó là bức chân dung hiện thực đời sống sinh động của người lính biển với những khó khăn, vất vả từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần. Tuy nhiên, họ vẫn kiên cường vượt lên hoàn cảnh và khẳng định được phẩm chất của người lính kiên trung, mạnh mẽ và anh hùng. Từ khóa: Biển xanh màu lá, Nguyễn Xuân Thủy, người lính biển, tiểu thuyết. 1. Đặt vấn đề Nguyễn Xuân Thủy là một cây bút trẻ tài năng và bản lĩnh của văn học Việt Nam đương đại. Anh không chỉ hoạt động ở lĩnh vực sáng tác văn chương mà còn hoạt động ở lĩnh vực báo chí. Nguyễn Xuân Thủy viết không nhiều nhưng mỗi tác phẩm đều để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Biển xanh màu lá là tiểu thuyết đầu tay của anh. Tác phẩm được xuất bản và ra mắt bạn đọc năm 2008. Đây là tác phẩm làm nên tên tuổi của nhà văn - chiến sĩ Nguyễn Xuân Thủy. Tác giả đã nhận được Giải C tặng thưởng Báo chí - Văn học nghệ thuật của Bộ Quốc phòng (2004-2009) với tác phẩm này. Dù ra đời đến nay đã mười năm nhưng những gì tác phẩm phản ánh vẫn còn nguyên ý nghĩa đối với độc giả, giới nghiên cứu, phê bình văn học. Tác phẩm đã tái hiện chân thật bức tranh cuộc sống sinh động nhiều màu sắc, nhiều cung bậc của người lính biển, từ những khó khăn vật chất đến những góc khuất tâm hồn. Nhưng trên hết, đó là tấm lòng, ý chí kiên trung, sự dũng cảm của người lính vượt lên trên mọi hoàn cảnh để giữ vẹn hình ảnh người lính can trường của Tổ quốc. 2. Hiện thực cuộc sống của người lính ở đảo Trường Sa lớn 2.1. Cuộc sống thiếu thốn vật chất Đời sống vật chất ở Trường Sa lớn khá hạn chế, những người lính nơi đây phải làm nhiệm vụ trong một môi trường nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trước hết phải nói đến tình trạng thiếu nước ngọt. Những người lính đảo sống giữa đại dương bao la, bốn phía đều là biển. Do vậy, hàng ngày họ phải hết sức chắt chiu từng giọt nước ngọt mà họ đang có. Tuy nhiên, ở đảo Trường Sa lớn có giếng nước ngọt được gọi là giếng trời “hết lại có, vơi lại đầy”. Đó là điều may mắn đối với những người lính đảo Trường Sa lớn vì ít ra họ còn có thể thỉnh thoảng tắm táp bằng nước ngọt. Còn những người lính ở đảo chìm phải tiết kiệm hơn nhiều. Họ rất quý những nguồn nước ngọt do những chuyến tàu từ đất liền mang ra: “Hơ hơ ở đây thôi, sang đảo chìm xem? Còn lâu nhé. Khóc thét nhé. Cho tắm hơi nhé”. Trong Đảo chìm của Trần Đăng Khoa, những người lính đảo từng ngày đều phải sống trong cảnh thiếu thốn nước ngọt đến mức: “Ở đây, lính còn phải tắm nước biển, uống nước biển, độn thêm nước biển để nấu cơm. Có chút muối, cơm cứ chuồi chuội còn nguyên cả lõi gạo. Bát cơm rời rông rổng. Chẳng hạt nào dính với hạt nào, ăn sậm sật, chát xít.”[7, tr. 651]. Chính vì vậy mà có nhiều nhà văn, nhà thơ khi sáng tác những tác phẩm về Trường Sa, họ thường viết về hình ảnh những người lính khao khát, đợi chờ những giọt mưa về trên đảo hay được đón lấy những dòng nước ngọt từ đất mẹ. Trần Đăng Khoa miêu tả hình ảnh những người lính đợi mưa rất hiện thực nhưng cũng rất lãng mạn: “Mưa vẫn giăng màn lộng lẫy phía xa khơi Mưa yểu điệu như một nàng công chúa Dù mưa chẳng bao giờ đến nữa Thì cứ hiện lên thăm thẳm phía chân trời Để bao giờ cánh lính chúng tôi Cũng có một niềm vui đón đợi” (Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn - Trần Đăng Khoa) (*) Trường Đại học Cần Thơ. (**) Trung tâm Viettel huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. 65 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 35 (12-2018) Hay nhà thơ Đỗ Thị Hoa Lý cũng viết về người lính Trường Sa đang trong “cơn khát” bằng những cảm xúc chân thực nhất: “Trường Sa ơi bão tố bủa vây Tán bàng vuông nhọc nhằn che chở Ngọn rau xanh oằn mình diệp lục Từng giọt chắt chiu cơn khát Trường Sa!” (Tiếng gọi Trường Sa - Đỗ Thị Hoa Lý) Như vậy, có thể thấy rằng, tình trạng thiếu nước ngọt là một trong những khó khăn nan giải của người lính biển nói chung. Dù ở bất cứ đâu, họ luôn phải chịu đựng và sống chung với sự thiếu thốn ấy. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu rau xanh cũng là một vấn đề bức thiết ở xứ đảo. Vào mùa biển động, thời tiết rất khắc nghiệt, mỗi khi gió muối thổi qua là những luống rau tốt đến mấy cũng héo trụi. Những người lính đã chăm sóc cho những luống rau một cách tỉ mẫn để có được những bữa ăn tươi ngon, nhưng “Từ tuần trước đợt gió muối về, các bộ phận đã phải nhổ rau ăn chạy hết. Ăn mà xót xa như nông dân gặt chạy lúa non vì bão. Ăn để biết rằng từ nay sẽ chia tay món rau”. Ở đảo, đất cũng là một thứ quý giá, nếu không có đất thì không thể trồng rau xanh để phục vụ cho những bữa ăn của người lính đảo. Những đám san hô chết phân hủy dần hình thành nên đảo nên chỉ có cát do san hô phân hủy thành, còn đất thì rất ít: “lúc đầu vườn chỉ có một lớp đất mỏng chủ yếu cho rau sam bò là chính, thỉnh thoảng tàu ra có mang theo một ít, mỗi bộ phận được chia vài bao đất về bổ sung. Dần dần, bộ đội đi lao động trên đảo thu nhặt phân chim mang về bón rau nên đất cứ dày dần lên. Khi đào hầm hào thi thoảng lại gặp một vỉa đất lẫn vào giữa đám san hô rắn đanh, thế là lính ta vét sạch mang về bỏ vào vườn”. Đất khô cằn lại thêm gió muối nên các loài rau không thể sống được lâu. Vả lại những hạt giống cũng phải chờ tàu từ đất liền mang ra nên việc trồng rau cũng không thuận tiện. Vì vậy, đã có công trình nghiên cứu những loài rong biển có thể ăn được để thay thế cho rau xanh, những loại rong biển này như là “nguồn rau xanh ... ỉ có mỗi chiếc ti vi là phương tiện giải trí vào mỗi buổi tối. Tuy vậy, cánh lính đảo vẫn tự biết tạo niềm vui cho mình. Niềm vui của họ rất giản dị nhưng lại chân thực, đó là niềm vui từ trong những hoạt động hằng ngày. Ngày Chủ Nhật là một ngày quan trọng đối với cánh lính đảo, là ngày có nhiều hoạt động vui chơi nhất. Hằng ngày những người lính đảo chìm trong sự bận rộn với những nhiệm vụ căng thẳng, đến ngày Chủ Nhật họ có thể được nghỉ ngơi và thư giãn. Niềm vui của cánh lính đảo đơn giản là những trò nghịch ngợm, chọc phá đồng đội hoặc viết thư cho người yêu, vẽ tranh, tập đàn, bơi lội: “Thế là mỗi đứa một việc. Người vẽ cứ vẽ, người đàn cứ đàn. Người viết thư cứ viết thư. Riêng Hoàn đơ dường như vô can, mặc mọi người huyên náo nó vô tư lăn ra ngủ tì tì như người bị đánh thuốc 70 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 35 (12-2018) mê, không biết trời đất là gì. dù có không trực thì nó cũng vẫn cứ ngủ như là một việc làm thích thú nhất trong những ngày nghỉ”. Bên cạnh đó, những câu chuyện mỗi tối dưới nóc lô cốt hay gốc cây bàng vuông cũng mang đến cho họ nhiều niềm vui. Họ có thể quây quần để chuyện vãn đủ điều, cùng nhau thưởng thức những món quà từ đất liền như kẹo, chè, thuốc lá và chia sẻ với nhau những buồn vui từ những bức thư. Ngoài ra, thỉnh thoảng cánh lính đảo cùng nhau tổ chức những buổi văn nghệ để tạo một bầu không khí thoải mái. Mặc dù các phương tiện để phục vụ việc ca hát không được đầy đủ vẫn không thể làm khó được những chàng lính trẻ có đầu óc sáng tạo, những buổi văn nghệ như thế luôn tràn ngập tiếng cười. Qua đó, có thể thấy các chiến sĩ hải quân luôn lạc quan, luôn tìm được niềm vui từ trong những khó khăn gian khổ chứ không hề bi quan, chán nản vì cuộc sống còn nhiều thiếu thốn. Niềm vui của cánh lính đảo còn là khi được tự tay chuẩn bị những gì cần thiết cho một cái tết. Vào những ngày cận tết, khắp cả đảo hào hứng chuẩn bị đón tết, cánh lính đảo phân công công việc cho nhau, ai cũng làm một cách vui vẻ và tự nguyện: “Cái tết đã đến trên đảo một cách bình tĩnh nhưng cũng không kém phần hồi hộp. Khắp các bộ phận xúng xính không khí chuẩn bị”. Những công việc như bày biện bàn thờ, chưng mâm ngũ quả hay gói bánh chưng là những công việc thường làm của những người phụ nữ. Khi đến đảo, nó đã trở thành công việc tạo không khí của một năm mới cho các anh lính đảo. Qua suy nghĩ của Phương độc giả sẽ thấy rõ điều này: “Hai anh em khênh hẳn tấm ghi nhôm ra bể rải lá dong ra cọ từng tàu một, tàu nào thối cuống thì cắt bỏ phần thối. Phương làm mà cảm thấy vui vui. Chỉ đến khi đi lính cậu mới được hưởng cái không khí tết nhất chứ ngày còn ở nhà tất cả đã có mẹ lo”. Không có niềm vui nào bằng khi nhìn thấy thành quả do mình dành bao tâm huyết bỏ ra mới có được. Bên cạnh đó, những buổi càn cá cũng mang đến nhiều niềm vui cho cánh lính đảo. Sống ở môi trường biển đảo mênh mông, đuổi cá đã trở thành một công việc quen thuộc đối với cuộc sống trên đảo Trường Sa lớn, nhất là vào những ngày biển hiền hòa, dịu êm. Vào những giờ rảnh rỗi, họ thường tổ chức đuổi cá để góp phần làm nên sự phong phú cho thực đơn hằng ngày, và đó cũng như là một hoạt động giải trí hay một việc làm giết thời gian của cánh lính đảo. Họ cảm thấy được thư giãn khi ngâm mình dưới làn nước trong vắt. Có thể thấy, cuộc sống tuy thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần nhưng những người lính biển luôn biết tạo dựng một cuộc sống hài hòa, vui vẻ, lạc quan với những điều giản dị nhất. 3.3. Những góc khuất trong tâm hồn người lính biển Khi làm nhiệm vụ thì những người lính Trường Sa lớn luôn gan góc, dũng cảm, sẵn sàng đối đầu với những mối nguy hiểm. Trong cuộc sống đời thường thì họ luôn tươi cười, vui vẻ. Tuy nhiên, ẩn sâu trong tâm hồn của mỗi người lính đều chất chứa những nỗi niềm riêng day dứt. Trước hết, đó là nỗi ám ảnh về cuộc hôn nhân đổ vỡ của người lính biển. Khi đứng trước mọi người, trạm trưởng Tiến luôn tỏ ra là một người chỉ huy mạnh mẽ, cứng rắn nhưng khi ở một mình anh lại suy nghĩ rất nhiều về câu chuyện của cuộc đời mình. Mười lăm năm trước anh đã từng có một gia đình hạnh phúc với người vợ xinh đẹp. Chuyện lấy vợ của anh thường được cánh lính lấy làm chủ đề bàn tán bởi nó có quá nhiều tình tiết li kì đến mức khó tin. Nhưng đó không phải điều đáng nói, quan trọng hơn là cuộc hôn nhân của anh dần rạn nứt và cuối cùng là tan vỡ vì Tiến luôn kém hơn Đào trong chuyện vợ chồng, và hơn thế nữa Tiến không thể cho Đào một đứa con. Tiến là một người đàn ông rất yêu thương vợ mình nên khi biết được vợ ngoại tình đã đau đớn đến tột cùng. Trong phút nóng giận anh đã từng nghĩ sẽ giết chết người phụ nữ đó đi nhưng rồi anh lại tha thứ và chỉ mong giữ được sự êm ấm cho gia đình. Những hình ảnh, âm thanh mà Tiến nghe được và nhìn thấy trong cái đêm vợ anh ngoại tình đã ám ảnh những suy nghĩ của anh suốt mười lăm năm trời. Nỗi ám ảnh đó cứ giày xéo anh mãi không thôi. Nhất là mỗi khi anh nghe thấy tiếng nước chảy thì dường như tiếng nước trong cái đêm định mệnh ấy cứ vang vọng trong tâm trí của anh. Anh đã phải mang theo những âm thanh ấy suốt cả một đời: “Anh vẫn gặm nhấm nó trong đau đớn giày vò. Tiếng nước chảy trong ký ức vọng về như khơi dậy những nỗi đau của mười lăm năm về trước”. Tiến khao khát được làm cha, khao khát được 71 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 35 (12-2018) nghe tiếng trẻ thơ cười nói rộn ràng mỗi khi anh về quê thăm gia đình, nhưng điều đó với anh là quá xa vời. Khi Tiến biết tin vợ mình có thai anh vui mừng khôn xiết, nhưng trớ trêu vợ anh lại có thai với người khác. Cái tin này đã kéo anh từ tột cùng của hạnh phúc xuống tận cùng của những nỗi đau. Khi nghe cánh lính bàn tán vui vẻ về tên đứa con gái mới chào đời của trung đội trưởng Linh mà anh thấy xót xa cho mình. Ngày trước anh cũng từng vui mừng vì sắp được làm cha, rồi chuẩn bị cho nó một cái tên thật hay: “Thực ra thì anh đã chuẩn bị một cái tên cho đứa con của mình rồi đấy chứ. Chỉ có điều nó đã không được sử dụng, để anh bây giờ vẫn không thể là cha. Nghe Vũ đặt tên cho con Linh mà anh lại nghĩ đến chuyện của mình mười lăm năm về trước. Ngày ấy anh có lẽ cũng chỉ là người đi đặt tên hộ mà thôi”. Là một người đàn ông mà Tiến lại không thể đặt tên cho con của mình như là một người cha đúng nghĩa. Dù phải hứng chịu nhiều đau khổ nhưng trạm trưởng Tiến vẫn không thôi hi vọng, không thôi khát khao được làm cha của những đứa trẻ mang dòng máu của mình: “Từ khi ra đây, không hiểu sao nhìn cách thức sinh sản của loài vích này tự nhiên anh lại liên hệ với mình. Phải chi vợ anh cũng có thể đẻ ra những đứa con dễ dàng như thế?”. Từ trong câu nói đã toát lên ước muốn chân thành của một người đàn ông tuổi tứ tuần vẫn đơn độc một mình. Bên cạnh đó, những người lính đảo còn mang theo bên mình những ước mơ vẫn chưa thực hiện được. Ca sĩ Khánh Châu đã gọi Trường Sa lớn là “Xứ sở của những ước mơ”. Đúng vậy, mỗi người lính đảo đều có ước mơ, đều có những dự định về tương lai của riêng mình. Mạnh là một chàng lính trẻ có niềm đam mê thực sự với âm nhạc. Ngày còn ở đất liền anh đã từng thi trượt nhưng niềm đam mê âm nhạc trong Mạnh rất lớn nên lần thi trượt ấy không thể khiến anh nản lòng: “Trước khi nhập ngũ, Mạnh đã dự thi vào Nhạc viện Hà Nội nhưng bị trượt. Nhưng nó vẫn không từ bỏ ý định theo đuổi con đường âm nhạc”. Những ngày trong quân ngũ là thời gian Mạnh không ngừng nghỉ luyện tập với chiếc đàn bầu để khi trở về anh sẽ tiếp tục đi thi, tiếp tục thực hiện ước mơ còn dang dở của mình. Mạnh rất quý chiếc đàn bầu, đó là bạn đồng hành của Mạnh trong suốt quãng thời gian làm nhiệm vụ trong quân ngũ. Đến khi ra đảo nhận nhiệm vụ Mạnh “vẫn kiên quyết mang theo đồ nghề để luyện tập mặc dù ai cũng can ngăn, mấy anh huyện đội bắt để lại, không biết nó giấu thế nào vẫn lén mang lên được”. Đàn bầu không chỉ là bạn đồng hành với Mạnh mà nó sẽ còn giúp ích rất nhiều cho anh trong quá trình thực hiện niềm đam mê với âm nhạc. Ngoài Mạnh, Quang cũng là một chàng lính trẻ có tài và có niềm đam mê cháy bổng với hội họa, nhưng tiếc thay niềm đam mê chưa kịp thực hiện thì anh đã ra đi mãi mãi. Ngày còn sống, Quang rất thích vẽ, vào những giờ rảnh rỗi Quang hay vẽ một ai đó từ những bức ảnh mẫu. Quang cũng từng tâm sự với Phương rằng: “Quang bảo Quang sẽ theo nghề vẽ. Trình độ như anh chắc khó để vào đại học Kiến trúc nhưng anh sẽ thi Mỹ thuật công nghiệp. Học trường này đòi hỏi năng khiếu nhẹ hơn và cũng thực tế hơn”. Quang biết năng khiếu của mình đến đâu và đi con đường nào là phù hợp nhất. Không chỉ là Mạnh, là Quang mà hầu hết những người lính đảo đều ấp ủ những ước mơ, những hoài bão cho riêng mình, đến khi hoàn thành nhiệm vụ ở nơi đảo xa họ sẽ về đất liền và thực hiện ước mơ của mình. Mặt khác, Nguyễn Xuân Thủy cũng khá tinh tế khi thấu hiểu cả những ước muốn thầm kín bản năng của người lính. Hầu hết những người lính đảo đều ở độ tuổi hai mươi, trong con người họ đã có những nhu cầu của một chàng trai tuổi mới lớn. Như Hoàn thì bị “đau bụng kinh niên”, còn Tuân lại có những hành động quá đà hơn: “hai tay cứ ôm ghì lấy chân Tùng “toác”, bàn tay nó cứ xoa xoa vào bắp đùi Tùng “toác” ngay chỗ lông rậm nhất làm Tùng “toác” nhột muốn chết ”, “thằng Tuân được thể càng quá đà hơn, cứ ôm rịt lấy khúc chân của Tùng “toác” vào lòng. Nó co hai quắp chân chặp chặt lấy khúc chuối mà xoa xuýt, lại còn ấn cả cái của nợ vào đấy nữa. Tùng “toác” cảm nhận thấy một sự tiếp xúc nóng hổi nơi bắp vế”, “Giường bên, Mạnh cũng đang ngủ mê ú ớ”. Đó là nỗi khổ của những chàng trai đang tuổi xuân thì nhưng phải chấp nhận một cuộc sống “đi biển mồ côi một mình”. Mỗi người lính đảo khi bước lên tàu ra nơi đảo xa làm nhiệm vụ đều mang theo lòng mình một nỗi niềm riêng. Những góc khuất trong mỗi người lính có thể là nỗi nhớ quê hương, nỗi đau mất người thân hay những ước mơ, hoài bão, những khát khao cháy bổng, sự băn khoăn, trăn trở, day 72 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 35 (12-2018) dứt. Qua đó, Nguyễn Xuân Thủy đã thể hiện sự thấu hiểu và cảm thông của mình trước những nỗi niềm riêng của những người lính đảo. Họ vì nhiệm vụ chung của đất nước mà phải tạm gác lại những ước mơ về tương lai, phải chấp nhận những mất mát, đau thương. 4. Kết luận Thông qua những nét đặc sắc về nội dung của tiểu thuyết Biển xanh màu lá của Nguyễn Xuân Thủy, chúng ta đã có được cái nhìn bao quát về bức tranh hiện thực đời sống của những người lính đảo Trường Sa lớn nói riêng và người lính biển đảo nói chung. Các chiến sĩ hải quân phải rời xa gia đình đến một nơi xa xôi để hoàn thành nhiệm vụ của một người lính yêu nước. Nơi đó quanh năm chỉ có sóng gió khốc liệt, mưa bão triền miên, cơ sở vật chất nghèo nàn, cũ kỹ. Mặc dù vậy, họ vẫn giữ ý chí kiên cường bám trụ ở nơi đầu sóng ngọn gió này vì có khó khăn cách mấy thì nơi đây vẫn là quê hương, là Tổ quốc thân yêu. Nguyễn Xuân Thủy đã vận dụng vốn kinh nghiệm của mình để miêu tả cuộc sống hằng ngày trên đảo một cách chân thực nhất. Bên cạnh đó, tác giả đã để cho các nhân vật nói lên tiếng lòng của mình. Đó có thể là những suy tư, trăn trở về cuộc đời, hay đó cũng có thể là những hồi ức đau buồn trong quá khứ và những khao khát vươn lên đi tìm hạnh phúc trong hiện tại và tương lai. Tác giả không miêu tả những người lính trong những trận chiến khốc liệt mà đưa họ trở về với cuộc sống đời thường làm nhiệm vụ của những người lính trong thời kỳ đất nước đã hòa bình thống nhất. Đây cũng là một nét đặc trưng của thể loại tiểu thuyết đương đại. Qua những trang văn của Nguyễn Xuân Thủy, độc giả cảm nhận được sự tự hào của tác giả về những người anh hùng của đất nước trong thời bình. Đồng thời, tác giả còn bày tỏ sự thương cảm, chia sẻ với những nỗi niềm, những góc khuất trong tâm hồn của người lính đảo. Điều đó góp phần hình thành nét đặc trưng trong sáng tác của một nhà văn - người lính Nguyễn Xuân Thủy./. Tài liệu tham khảo [1]. Nguyễn Thái Anh, Quốc Dũng (Tuyển chọn, biên soạn) (2014), Hải chiến Gạc Ma Trường Sa 1988 - Khúc tráng ca bất tử, NXB Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh. [2]. Hà Đạo, Đức Quang (2015), “Để được nhìn Tổ quốc từ biển khơi”, doi-song/de-duoc-nhin-to-quoc-tu-bien-khoi/617232.antd [3]. Phan Cự Đệ (1978), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 2, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. [4]. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2014), Lý luận văn học, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. [5]. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng Chủ biên) (2009), Văn học Việt Nam sau 1975: những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội. [6]. Lê Hoài Nam (2014), Đi qua Gạc Ma đến đảo Sinh Tồn, NXB Thanh niên, Thành phố Hồ Chí Minh. [7]. Nhiều tác giả (2013), Biển đảo Tổ quốc tôi, NXB Văn học, Hà Nội. [8]. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2011), Lí luận văn học - tập 2, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. [9]. Nguyễn Xuân Thủy (2014), Biển xanh màu lá, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. THE NAVAL SOLDIER’S PORTRAIT IN BIEN XANH MAU LA NOVEL BY NGUYEN XUAN THUY Summary Nguyen Xuan Thuy is one of the young writers of the early 21st century. He is well-known for the novel Bien xanh mau la (The Green Sea). This work was awarded C Prize for Journalism - Literature Arts by the Ministry of Defense (2004-2009). This article aims to analyze content values found in this novel picturing a lively realistic portrayal of the naval soldier’s life fi lled with diffi culties, both materially and spiritually. However, the soldiers steadfastly surpassed the situations and affi rmed his qualities of strength, loyalty and heroism. Keywords: Bien xanh mau la, Nguyen Xuan Thuy, naval soldier, novel. Ngày nhận bài: 27/11/2018; Ngày nhận lại: 13/12/2018; Ngày duyệt đăng: 27/12/2018.
File đính kèm:
- chan_dung_nguoi_linh_bien_trong_tieu_thuyet_bien_xanh_mau_la.pdf