Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML

Bướu cơ mỡ mạch máu là bướu lành tính ở thận. Thuyên tắc động mạch nuôi bướu được tiến hành trên những bệnh nhân có triệu chứng hoặc để phòng ngừa xuất huyết. Mục đích của nghiên cứu là để mô tả và đánh giá một phương pháp can thiệp nút mạch sử dụng keo n-butyl cyanoacrylate (NBCA) và hạt polyphosphazene microspheres.

Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML trang 1

Trang 1

Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML trang 2

Trang 2

Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML trang 3

Trang 3

Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML trang 4

Trang 4

Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML trang 5

Trang 5

Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML trang 6

Trang 6

Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML trang 7

Trang 7

pdf 7 trang Danh Thịnh 15/01/2024 800
Bạn đang xem tài liệu "Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML

Can thiệp nội mạch thuyên tắc trong điều trị bướu thận dạng AML
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 310
CAN THIỆP NỘI MẠCH THUYÊN TẮC 
TRONG ĐIỀU TRỊ BƯỚU THẬN DẠNG AML 
Nguyễn Ngọc Thái**, Đỗ Anh Toàn**, Nguyễn Tuấn Vinh*, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Vũ Lê Chuyên*, 
Đặng Đình Hoan*, Nguyễn Tiến Đệ*, Nguyễn Xuân Huy*, Đỗ Hoàng Dũng*, Phan Thành Thống* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bướu cơ mỡ mạch máu là bướu lành tính ở thận. Thuyên tắc động mạch nuôi bướu được tiến 
hành trên những bệnh nhân có triệu chứng hoặc để phòng ngừa xuất huyết. Mục đích của nghiên cứu là để mô tả 
và đánh giá một phương pháp can thiệp nút mạch sử dụng keo n-butyl cyanoacrylate (NBCA) và hạt 
polyphosphazene microspheres. 
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Từ 07/2015 đến 05/2017 có 18 trường hợp (TH) được thực hiện. 
Thông tin được thu thập qua bệnh án nghiên cứu. Các TH đều được siêu âm và chụp CTscan để đánh giá kích 
thước trước và sau can thiệp. Số liệu được xử lý theo phần mềm SPSS 16.0. 
Kết quả: Trong thời gian từ 07/2015 đến 05/2017, có 18 TH AML có chỉ định can thiệp. Tuổi trung bình 50 
± 4,9 (26-67), bao gồm 02 nam, 16 nữ. Chúng tôi đã điều trị thành công cho 17/18 (TH) (94,4%). Một TH cần 
thuyên tắc lại trong thời gian theo dõi bởi vì bệnh nhân tiểu máu dai dẳng. Kích thước trung bình của bướu AML 
là 7,32 ± 6,2 cm (nhỏ nhất là 4 cm, lớn nhất là 16 cm). Các biến chứng nhẹ (hội chứng sau thuyên tắc). 14 bệnh 
nhân được điều trị bằng biện pháp bảo tồn, có 01 TH tiểu máu kéo dài cần can thiệp lần 2 và 03 TH viêm thận - 
bể thận. Mức giảm kích thước bướu AML trung bình sau 03 tháng là 2,29 ± 2,3 (giảm 31,3%). 
Kết luận: Thuyên tắc mạch trong điều trị AML sử dụng keo NCBA và Embosphere là hiệu quả và an toàn. 
Điều trị dự phòng cũng như trong trường hợp cấp cứu, giảm đáng kể kích thước khối u trong thời gian theo dõi. 
Từ khóa: Bướu cơ mỡ mạch máu, thuyên tắc động mạch, n-butyl cyanoacrylate (NBCA). 
ABSTRACT 
ENDOVASCULAR EMBOLIZATION OF SYMPTOMATIC AND ASYMPTOMATIC RENAL 
ANGIOMYOLIPOMAS 
Nguyen Ngoc Thai, Do Anh Toan, Nguyen Tuan Vinh, Nguyen Phuc Cam Hoang, Vu Le Chuyen, 
Dang Dinh Hoan, Nguyen Tien Đe, Nguyen Xuan Huy, Do Hoang Dung, Phan Thanh Thong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 310 - 316 
Introduction Angiomyolipoma (AML) is the most common benign renal tumor. Treatment should be 
considered for symptomatic patients or for those at risk for complications. This study reports our single-center 
experience with the use of selective arterial embolization (SAE) in the management of symptomatic and 
asymptomatic renal AML. The aim of the study was to describe and evaluate a novel method of endovascular 
embolization of varicoceles using n-butyl cyanoacrylate (NBCA) glue and polyphosphazene microspheres. 
Material and Methods: All demographic and imaging data, medical records, angiographic features, 
outpatient charts and follow-up visits of patients who underwent prophylactic or emergency SAE for AML 
between July 2015 and May 2017 were reviewed. Tumor size and treatment outcomes were assessed at baseline 
and after the procedure during follow-up. Computed tomography (CT), magnetic resonance imaging (MRI) or 
ultrasonography was used to evaluate AML shrinkage. Renal function was measured pre- and post-procedure. 
*Bệnh viện Bình Dân, Tp.HCM **Đại học Y Dược Tp.HCM 
Tác giả liên lạc: Ths.Bs. Nguyễn Ngọc Thái ĐT: 0947837378 Email : dr.nguyenngocthai@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 311
Results: 18 cases age averaged 50 ± 4.9 (26-67). We have successfully treated 17/18 cases (TH) (94.4%). 
One case needed re-embolization during follow-up because of persistance hematuria. The median size of AML 
tumor was 7.32 ± 6.2 cm (rage from 4 cm to 16 cm). Minor complications (14 post-embolization syndrome) 
affected 14 patients treated with conservative therapy (n = 14) with persistent hematuria (n = 01) requiring a 
second intervention and pyelo-nephritis (n = 03). The mean reduction in AML tumor size after 3 months was 2.29 
± 2.3 (31.3% reduction) 
Conclusion: SAE is a safe and effective technique to manage renal AML as a preventive treatment as well as 
in emergency setting, with signifcant reduction in tumor size during follow-up. 
Key words: AML, embolization, n-butyl cyanoacrylate (NBCA). 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Angiomyolipoma (AML) là u lành tính 
thường gặp nhất ở thận, chiếm từ 0,3% đến 3% 
các khối u ở thận(5). AML bao gồm mỡ, mạch 
máu và cơ trơn với số lượng thay đổi và thường 
được chia thành nhóm bệnh phát hiện ngẫu 
nhiên (sporadic) và nhóm không ngẫu nhiên 
(non-sporadic)(16). Nhóm bệnh phát hiện ngẫu 
nhiên, chiếm khoảng 80% trường hợp, bao gồm 
tổn thương đơn độc xảy ra chủ yếu ở phụ nữ 
trung niên với tỉ lệ hiện mắc từ 0,22% đến 0,29% 
ở phụ nữ và 0,02% đến 0,1% ở nam giới(17). 
Nhóm không ngẫu nhiên có đặc điểm liên quan 
đến phức hợp xơ củ (tuberous clerosis – TSC) di 
truyền trội nhiễm sắc thể thường, dẫn đến sự 
hình thành khối u lành tính với sự hoạt hóa đích 
của con đường rapamycin ở động vật có vú 
(mTOR), và cũng thường gặp ở phụ nữ. Trong 
nhóm này, AML phát triển trong 50% bệnh nhân 
trong suốt cuộc đời họ, và thường to hơn, số 
lượng nhiều, hai bên, có triệu chứng và tổn 
thương có khả năng lan rộng. TSC cũng có thể 
liên quan đến u cơ trơn bạch mạch 
(lymphangioleiomyomatosis), một bệnh lý tiến 
triển liên quan đến lao, thường ảnh hưởng đến 
phổi của phụ nữ trẻ. Mặc dù phần lớn AML với 
thành phần dạng biểu mô trung tâm là lành tính, 
AML thận dạng biểu mô thuần túy (EAML), 
phân nhóm nhỏ hiếm gặp, đặc trưng bởi những 
tế bào biểu mô bắt màu với marker liên quan 
đến melanoma, có thể xâm lấn tại chỗ và lan 
rộng vào tĩnh mạch thận và tĩnh mạch chủ dưới. 
Những biến thể dạng biểu mô “giống 
carcinoma” này chứa nhiều tế bào, với rất ít hay 
không có mỡ, có xu hướng lớn lên và gâ ... crospheres 100-400 
μm (Embosphere® / EmboGold®, Biosphere 
Medical Inc.-Merit Medical Inc.,Rockland, MA, 
Hoa Kỳ; keo acrylic (N-butyl 2-cyanoacrylate, 
Glubran 2®, GEM Srl, Viareggio, Ý) trộn với dầu 
ethiod (Lipiodol® Ultra-Fluid, Guerbet, Aulnay-
sous-Bois, Pháp) theo tỷ lệ 1: 3. Các chất thuyên 
tắc được bơm dưới hướng dẫn của tia X. Các 
nhánh phụ bàng hệ được thuyên tắc có chọn lọc 
đến khi tắc mạch hoàn toàn. Thành công về mặt 
kỹ thuật được xác định có sự ngưng trệ của dòng 
chảy trong các mạch nuôi bướu trên hình ảnh 
chụp mạch sau TTĐMCL. 
Sau thủ thuật, nhóm bệnh nhân được thuyên 
tắc với mục đích dự phòng được chuyển về đơn 
vị can thiệp mạch tiết niệu sinh dục theo dõi và 
thường xuất viện vào ngày hôm sau. Theo dõi 
dấu hiệu sinh tồn và hội chứng sau thuyên tắc 
(Sốt nhẹ, đau và nôn/ buồn nôn 3-7 ngày sau khi 
TTĐMCL), nếu có sẽ được điều trị nội khoa. 
Theo dõi 
Hồ sơ bệnh án, sổ khám bệnh ngoại trú, các 
lần tái khám tiếp theo và hình ảnh học đều được 
xem xét. CT hoặc MRI được theo dõi sau 03 
tháng sau can thiệp và hàng năm nếu không có 
thay đổi hoặc giảm kích thước. Để đo lường, 
chúng tôi dựa trên hình ảnh cuối cùng có sẵn 
(CT, MRI hoặc Siêu âm). 
Phân tích số liệu thống kê 
Phần mềm SPSS 16.0 
KẾT QUẢ 
Trong 2 năm nghiên cứu, 18 bệnh nhân đã 
được điều trị TTĐMCL trong trường hợp khẩn 
cấp vì AML xuất huyết (Hình 1) hoặc điều trị dự 
phòng bướu AML có nguy cơ cao (kích cỡ khối 
bướu > 4 cm). 
Chúng tôi đã điều trị thành công cho 17/18 
trường hợp (TH) (94,4%), và 01 TH cần thuyên 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 313
tắc lại trong thời gian theo dõi bởi vì thuyên tắc 
không đầy đủ do túi giả phình và AML xuất 
huyết lần 2. Tổn thương giả phình được tìm thấy 
trong 05 TH. 
Hình 1. Bệnh nhân nữ 62 tuổi được điều trị 
TTĐMCL nhánh nuôi bướu (trước và sau can thiệp) 
Kết quả chung, thời gian theo dõi và thay đổi 
kích cỡ khối bướu được trình bày trong Bảng 2. 
Kích thước trung bình của bướu AML là 7,32 ± 
6,2 cm (nhỏ nhất là 4 cm, lớn nhất là 16 cm). Các 
biến chứng nhẹ (hội chứng sau thuyên tắc) đã 
ảnh hưởng tới 14 bệnh nhân được điều trị bằng 
biện pháp bảo tồn (n = 14) có tiểu máu dai dẳng 
(n = 1) cần can thiệp lần 2 và viêm thận - bể thận 
(n = 03). Kích thước khối bướu sau TTĐMCL 
được đo bằng chụp CT scan. Mức giảm kích 
thước bướu AML trung bình sau 3 tháng là 2,29 
± 2,3 (giảm 31,3%) (Bảng 2). 
Bảng 1. Dịch tễ nhóm nghiên cứu và lâm sàng 
 Giá trị 
Số TH 18 
Giới 
Nam 
Nữ 
3 (16,7%) 
15(83,3%) 
Tuổi trung bình 50 ± 4,9 (26-67) 
Thuyên tắc 
Không cấp cưu (> 4 cm) 
Cấp cứu 
14 
4 
Triệu chứng 
Không (> 4 cm) 
Đau 
Xuất huyết 
8 
6 
4 
Bướu 1 bên 
Bướu 2 bên 
15 
3 
Bảng 2. Kết quả và theo dõi sau 3 tháng 
 Giá trị 
Kích thước AML trước TTĐMCL 7,32 ± 6,2 (4,3 – 15,4) cm 
Kích thước AML nhóm có triệu 
chứng (bao gồm TH cấp cứu) 
11,3 ± 3 (7,4 -16) cm 
Kích thước AML giảm 2,29 ± 2,3 (2,3 – 4,5) cm 
Can thiệp lần 2 1 
Biến chứng nhẹ 
Hội chứng sau thuyên tắc (đau lưng, sốt) 
Tiểu máu dai dẳn 
Viêm thận – bể thận 
14 
1 
3 
BÀN LUẬN 
Trước năm 1976, hơn 90% trường hợp AML 
điều trị bằng phương pháp cắt thận toàn phần vì 
chưa loại trừ được tổn thương ác tính(3). Với sự 
tiến bộ của điện toán cắt lớp, thậm chí những 
trường hợp ít mỡ, AML được chẩn đoán với 
MRI với độ đặc hiệu lên đến 99%(15). Từ báo cáo 
đầu tiên của Adler năm 1984(1), thuyên tác động 
mạch ngày càng phát triển và trở thành phương 
pháp chuẩn mới để ngăn ngừa và điều trị cấp 
cứu AML với can thiệp tối thiểu mạch máu nuôi 
chọn lọc(4). Y văn so sánh cắt thận hay cắt thận 
bán phần với TTĐMCL trong diều trị AML vẫn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 314
còn giới hạn về phân tích hiệu quả y học, kinh tế 
so với thuyên tắc mạch trong bệnh thận AML 
hoặc nguy cơ biến chứng AML. Can thiệp nội 
mạch trong điều trị AML ít tử vong sau mổ 
(6,9%) so với cắt thận bán phần (12%) với can 
thiệp tối thiểu và thời gian nằm viện ngắn hơn(1). 
Điều này cho phép can thiệp nhanh chóng ở 
những trường hợp chảy máu cấp cứu với bảo 
tồn tối đa nhu mô thận và chức năng thận. Phẫu 
thuật cho phép lấy trọn u và làm giải phẫu bệnh 
để xác định chẩn đoán nhưng vẫn còn khó đối 
với AML trong một vài ca phức tạp mạch máu, 
vị trí rốn hoặc TSC kết hợp AML bởi vì đa dạng 
sang thương. Trong những trường hợp thất bại 
nguyên phát hoặc tái TTĐMCL, phẫu thuật thận 
được chỉ định. 
Ở mỗi trường hợp, thảo luận giữa bác sĩ chẩn 
đoán hình ảnh và ngoại niệu để đưa ra phương 
pháp điều trị tối ưu. Trong nhiều năm, ngưỡng 
kích thước cho điều trị phòng ngừa là 4 cm vì 
Osesterling et al(10) cho thấy nếu lớn hơn 4 cm, 
82-94% có triệu chứng và 50-60% chảy máu tự 
nhiên. Hocquelet et al(7) xác định tỉ lệ phần trăm 
mỡ trước TTĐMCL được xem là yếu tố tiên 
lượng giảm thể tích, việc giảm thể tích này có ý 
nghĩa quan trọng ở bệnh nhân AML ít hơn 50% 
mỡ so với những bệnh nhân có nhiều hơn 50% 
mỡ (84% so với 50%, p<0,00001). Ở nhiều nghiên 
cứu phân tích, giá trị của tiên lượng giảm thể tích 
là tỉ lệ phần trăm mỡ (R2 = 0,62, p<0,0001). Chúng 
tôi tin tưởng rằng kích thước của AML giữ vai 
trò quan trọng trong chỉ định và hiệu quả của 
thuyên tác mạch bởi vì thành phần mạch máu cơ 
(angiomyogenic) là nguyên nhân chính dẫn đến 
biến chứng mạch máu và là vị trí để thuyên tắc 
mạch. Planché et al(12) quan sát thấy rằng cấu trúc 
của angiomyo biến mất nhanh hơn sau khi 
thuyên tắc (AML nhiều mỡ cho thấy giảm thể 
tích nhiều hơn so với AML ít mỡ). 
Nghiên cứu gần dây gợi ý rằng kích thước u 
quan trọng, kích thước liên quan đến phình 
mạch. Yamakodo et al(19) cho thấy sử dụng điểm 
cắt ở 4 cm có độ đặc hiệu thấp (38%) so với túi 
phình >= 5mm (86%) và kích thước túi chỉ có liên 
quan đến nguy cơ vở túi. Phình mạch đánh giá 
qua siêu âm tuy nhiên những túi phình kích 
thước nhỏ đánh giá dễ dàng qua động mạch đồ. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phình mạch 
liên quan nhiều đến tình trạng chảy máu của 
bệnh nhân (p=0,0086) điều này xác định tầm 
quan trọng của cấu tạo của u. 
Không có bệnh nhân có creatinine huyết 
thanh thay đổi trước và sau thuyên tắc. 
Trong các trường hợp của chúng tôi, có 2 
bệnh nhân có biểu hiện AML lớn với sự can 
thiệp chỉ TTĐMCL. Ở 16 bệnh nhân được 
thuyên tắc mạch AML, William et al(18) tìm thấy 
không có ý nghĩa thống kê về sự thay đổi GFR 
sau khi thuyên tác mạch, giá trị đo được sau 23 
tháng trung bình 95,75 ml/phút. Nghiên cứu của 
họ thể hiện sự an toàn và hiệu quả của TTĐMCL 
trong điều trị AML ở bệnh nhân TSC bằng việc 
bảo vệ chức năng thận, còn tình trạng tăng GFR 
vẫn chưa được làm rõ điều này đã được bắt đầu 
tìm hiểu. Chúng tôi quan sát thấy giảm kích 
thước có ý nghĩa ở bệnh nhân không TSC sau 
TTĐMCL (p = 0,022) so với bệnh nhân kèm TSC, 
điều này cho thấy rằng mức độ quan trọng giữa 
việc kiết hợp các phhương pháp điều trị cho 
cùng một kết quả ở bệnh nhân có TSC. 
Chúng tôi mô tả tỉ lệ biến chứng thấp ở 
những trường hợp trên (bảng 2). 1 TH tiểu máu 
dai dẳn sau thuyên tắc do tồn tại túi giả phình. 
Như mong muốn, hội chứng đáp ứng viêm là 
một tình trạng đáp ứng viêm kéo dài nhiều ngày 
sau TTĐMCL là biến chứng nhỏ chính. Mỗi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 315
bệnh nhân đau hoặc sốt dễ dàng điều trị với 
thuốc hạ sốt. Bissler và cộng sự(2) mô tả dùng tiều 
ngắn prednisone trong vòng 2 tuần sau 
TTĐMCL của AML thay vì acetaminophen và 
làm giảm biểu hiện của hội chứng đáp ứng viêm, 
cải thiện tình trạng nhân. 
Han(6), Lee và cộng sự(9) sử dụng dầu iod trộn 
với dung dịch ethanol ở 90 bệnh nhận của họ. 
Nhiều tác giả đã từ bỏ phương pháp này cho đến 
khi Rimon và cộng sự(14) đạt 94% thành công sau 
khi thêm Polyvinyl alcohol (PVA). Nhiều nghiên 
cứu cho thấy không có sự khác biệt kích thước 
chất gây tắc mạch làm giảm thiểu kích thước u 
hoặc làm lại tắc mạch. Tuy nhiên, chúng tôi sử 
dụng nhiều N butyl 2 cyanoacrylate glue và hạt 
embosphere. Đặc tính hạt cho tắc động mạch 
thường là đến điểm cuối của mạch máu, hậu quả 
là nhu mô u hoặc sang thương mạch máu ở đầu 
tận như là AML sẽ được gắn kết với hạt, làm xơ 
cứng u và làm thiếu máu toàn bộ u. Ưu điểm của 
keo là hiệu quả tắc thì nhanh, tắc nghẽn hoàn toàn 
mạch máu và lâu dài. Rẻ tiền dễ thấy tác dụng của 
keo ở mạch máu nuôi và quan sát thấy dòng trào 
ngược dọc theo microcatheter, điều này giảm 
nguy cơ keo dính vào đầu của microcatheter và 
tiêm keo vào nhu mô thận bình thường. 
Nghiên cứu này có vài giới hạn. Thứ nhất là 
nghiên cứu hồi cứu kích thước nhỏ do đó hiếm 
AML có triệu chứng hoặc lớn. Dân số của chúng 
tôi không đồng nhất với vài trường hợp (n=18) 
(tắc mạch phòng ngừa và cấp cứu). 
Thứ 2, những nghiên cứu khác, chúng tôi có 
nhiều khó khăn trong đo chính xác kích thước 
AML và sự liên hệ với xuất huyết sau phúc mạc, 
đặc biệt có nhiều phương tiện sử dụng (siêu âm, 
CT, MRI). Khó khăn trong việc đo AML vỡ trong 
cấp cứu. Thêm vào đó, theo dõi hình ảnh ở những 
bệnh viện khác với phương tiện khác so với 
chúng tôi. Tuy nhiên không có bệnh nhân nào bị 
mất theo dõi. Thời gian theo dõi là 01 năm vì thời 
gian giảm kích thước AML diễn ra trong năm đầu 
sau TTĐMCL. Trong lần báo này chúng tôi báo 
cáo sớm vào thời điểm theo dõi sau 03 tháng. Mức 
giảm kích thước bướu AML trung bình sau 03 
tháng là 2,29 ± 2,3 (giảm 31,3%). 
KẾT LUẬN 
Thuyên tắc động mạch thận chọn lọc điều trị 
bướu AML là kĩ thuật an toàn và hiệu quả trong 
xử trí chảy máu và phòng ngừa xảy ra biến 
chúng với những trường hợp bướu có kính 
thước lớn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adler J, Greweldinger J, Litzky G (1984). “Macro” aneurism in 
renal angiomyolipoma: two cases, with therapeutic 
embolization in one patient. Urol Radiol;6:201-3. 
2. Bissler JJ, Racadio J, Donnelly LF, Johnson ND (2002). 
Reduction of postembolization syndrome after ablation of 
renal angiomyolipoma. Am J Kidney Dis;39:966-71. 
3. Castle SM, Gorbatiy V, Ekwenna O, Young E, Leveillee RJ 
(2012). Radiofrequency ablation (RFA) therapy for renal 
angiomyolipoma (AML): an alternative to angioembolization 
and nephron-sparing surgery. BJU Int;109:384-7. 
4. Chick CM, Tan BS, Cheng C, Taneja M, Lo R, Tan YH (2010). 
Long-term follow-up of the treatment of renal 
angiomyolipomas after selective arterial embolization with 
alcohol. BJU Int;105:390-4. 
5. Hajdu SI, Foote FW (1969). Angiomyolipoma of the kidney: 
report of 27 cases and review of the literature. J Urol;102:396-
401. 
6. Han YM, Kim JK, Roh BS, Song HY, Lee JM, Lee YH, Chung 
GH, Kim CS, Sohn MH, Choi KC (1997). Renal 
angiomyolipoma: selective arterial embolization--
effectiveness and changes in angiomyogenic components in 
long-term follow-up. Radiology;204:65-70. 
7. Hocquelet A, Cornelis F, Le Bras Y, Meyer M, Tricaud E, 
Lasserre AS, Ferrière JM, Robert G, Grenier N (2014). Long-
term results of preventive embolization of renal 
angiomyolipomas: evaluation of predictive factors of volume 
decrease. Eur Radiol;24:1785-93. 
8. Kothary N, Soulen MC, Clark TW, Wein AJ, 
ShlanskyGoldberg RD, Stavropoulos SW (2005). Renal 
angiomyolipoma: long-term results after arterial 
embolization. J Vasc Interv Radiol;16:45-50. 
9. Lee W, Kim TS, Chung JW, Han JK, Kim SH, Park JH (1998). 
Renal angiomyolipoma: embolotherapy with a mixture of 
alcohol and iodized oil. J Vasc Interv Radiol;9:255-61. 
10. Oesterling JE, Fishman EK, Goldman SM, Marshall FF (1986). 
The management of renal angiomyolipoma. J Urol;135:1121-4. 
11. Omary RA, Bettmann MA, Cardella JF, Bakal CW, 
Schwartzberg MS, Sacks D, Rholl KS, Meranze SG, Lewis CA 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 316
(2003). Society of Interventional Radiology Standards of 
Practice Committee. Quality improvement guidelines for the 
reporting and archiving of interventional radiology 
procedures. J Vasc Interv Radiol;14:S293-5. 
12. Planché O, Correas JM, Mader B, Joly D, Méjean A (2011). 
Prophylactic embolization of renal angiomyolipomas: 
evaluation of therapeutic response using CT 3D volume 
calculation and density histograms. J Vasc Interv 
Radiol;22:1388-95. 
13. Preece P, Mees B, Norris B, Christie M, Wagner T, Dundee P 
(2015). Surgical management of haemorrhaging renal 
angiomyolipoma in pregnancy. Int J Surg Case Rep;7C:89-92. 
14. Rimon U, Duvdevani M, Garniek A, Golan G, Bensaid P, 
Ramon J, Morag B (2006). Large renal angiomyolipomas: 
digital subtraction angiographic grading and presentation 
with bleeding. Clin Radiol; 61:520-6. 
15. Sasiwimonphan K, Takahashi N, Leibovich BC, Carter RE, 
Atwell TD, Kawashima A (2012). Small (<4 cm) renal mass: 
differentiation of angiomyolipoma without visible fat from 
renal cell carcinoma utilizing MR imaging. Radiology; 263:160-
8. 
16. Sherman JL, Hartman DS, Friedman AC, Madewell JE, Davis 
CJ, Goldman SM (1981). Angiomyolipoma: computed 
tomographic-pathologic correlation of 17 cases. AJR Am J 
Roentgenol;137:1221-6. 
17. Steiner MS, Goldman SM, Fishman EK, Marshall FF (1993). 
The natural history of renal angiomyolipoma. J Urol;150:1782-
6. 
18. Williams JM, Racadio JM, Johnson ND, Donnelly LF, Bissler JJ 
(2006). Embolization of renal angiomyolipomata in patients 
with tuberous sclerosis complex. Am J Kidney Dis;47:95-102. 
19. Yamakado K, Tanaka N, Nakagawa T, Kobayashi S, 
Yanagawa M, Takeda K (2002). Renal angiomyolipoma: 
relationships between tumor size, aneurism formation, and 
rupture. Radiology; 225:78-82. 
Ngày nhận bài báo: 22/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018 

File đính kèm:

  • pdfcan_thiep_noi_mach_thuyen_tac_trong_dieu_tri_buou_than_dang.pdf