Cách tân nghệ thuật trong đôi bạn của Nhất Linh
Nhất Linh là một trong số những cây bút tiêu biểu trong văn học lãng mạn Việt
m gi i oạn - 45. Ông có óng góp trong việc cách tân nghệ thuật
tiểu thuyết Việt Nam. Các kỹ thuật sáng tác theo phương Tây hiện ại ược sử
dụng nhuần nhuyễn trong tác phẩm của ông. Đôi bạn là tiểu thuyết thể hiện rõ
sự cách tân nghệ thuật củ nhà văn. Với sự phân tích các khía cạnh như kết
cấu, tâm lý nhân vật và ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Đôi bạn bài viết
làm rõ thêm sự cách tân của Nhất Linh trong tác phẩm này
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Cách tân nghệ thuật trong đôi bạn của Nhất Linh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách tân nghệ thuật trong đôi bạn của Nhất Linh
31 CHUYÊN MỤC VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG ĐÔI BẠN CỦA NHẤT LINH NGUYỄN HƯƠNG NGỌC* Nhất Linh là một trong số những cây bút tiêu biểu trong văn học lãng mạn Việt m gi i oạn - 45. Ông có óng góp trong việc cách tân nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam. Các kỹ thuật sáng tác theo phương Tây hiện ại ược sử dụng nhuần nhuyễn trong tác phẩm của ông. Đôi bạn là tiểu thuyết thể hiện rõ sự cách tân nghệ thuật củ nhà văn. Với sự phân tích các khía cạnh như kết cấu, tâm lý nhân vật và ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Đôi bạn bài viết làm rõ thêm sự cách tân của Nhất Linh trong tác phẩm này. Từ khóa: Nhất Linh, tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam 1900 - 1945 Nhận bài ngày: 24/3/2020; ư vào biên tập: 30/3/2020; phản biện: 14/4/2020; duyệt ăng: 10/5/2020 1. DẪN NHẬP Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tƣờng Tam là ngƣời con thứ ba trong gia đình Nguyễn Tƣờng, là anh của Nguyễn Tƣờng Long và Nguyễn Tƣờng Lân. Nhất Linh là ngƣời có vai trò quan trọng bậc nhất trong việc hình thành nên Tự lực văn đoàn, tổ chức văn học có nhiều hoạt động đạt hiệu quả cao nhất trong những năm 1932 - 1945. Năm 1932, Nhất Linh đã mua lại tờ Phong hóa của Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai, huy động Trần Khánh Giƣ (Khái Hƣng), Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ), Nguyễn Tƣờng Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Tƣờng Lân (Thạch Lam) tạo thành một ban biên tập báo mới. Ngay từ những số đầu tiên, Phong hóa đã thổi một luồng gió mới đầy sinh khí vào lòng bạn đọc, đƣợc đông đảo tầng lớp tiểu tƣ sản thành thị và trí thức trung lƣu đón nhận. Từ thành công đó, Nguyễn Tƣờng Tam đã thành lập Tự lực văn đoàn với cơ quan ngôn luận là báo * Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG 32 Phong hóa (năm 1935 là Ngày nay), nhà xuất bản là Đời nay. Ban đầu trụ sở ở góc phố Hàng Cót và Cửa Bắc sau này dời đến 80 Quán Thánh (Hà Nội), Nhất Linh, Khái Hƣng và Hoàng Đạo trở thành ba trụ cột của Tự lực văn đoàn (Phan Cự Đệ, 2013: 529). Nhất Linh là cây bút văn xuôi, sáng tác nhiều tiểu thuyết lãng mạn. Trong thời kỳ đỉnh cao của Tự lực văn đoàn, ông đóng góp một số tác phẩm quan trọng, nêu lên đƣợc tôn chỉ, tuyên ngôn của tổ chức và gây tiếng vang nhƣ Đoạn tuyệt, Nắng thu, Lạnh lùng, Đôi bạn. Một số tác phẩm, Nhất Linh đứng tên chung cùng Khái Hƣng cũng đƣợc đánh giá rất cao nhƣ Anh phải sống, Gánh hàng hoa. Nhất Linh là một trong số những cây bút quyết liệt trong việc thể hiện quan điểm sáng tác của Tự lực văn đoàn. Trong tiểu thuyết, truyện ngắn của mình, ông mạnh mẽ thể hiện tƣ tƣởng bài trừ các hủ tục phong kiến lạc hậu không còn phù hợp với thời đại và cổ súy cho lối sống hiện đại, thức thời. “Nhân vật của Khái Hƣng yêu đời lạc quan, có những ƣớc mơ không tƣởng và thƣờng đạt đến mục đích một cách dễ dàng. Còn những nhân vật của Nhất Linh thƣờng có những cơn khủng hoảng về tinh thần, những giằng xé nội tâm giữa cá nhân và gia đình, tình yêu và bổn phận, chí hƣớng và hoàn cảnh” (Nhất Linh, 1988: 13-14). Nhiều tác phẩm xuất hiện những cặp hình tƣợng hoặc các chi tiết đối lập giữa cũ - mới, giữa lạc hậu - cách tân nhƣ là cách để ông nhấn mạnh quan điểm của mình. Tƣ tƣởng phải thoát ly ra khỏi lối sống cũ, “cõi đời cũ” xuất hiện khá nhiều trong sáng tác của ông và Khái Hƣng. Nhân vật của ông sẵn sàng đứng lên, thể hiện cái tôi cá nhân, chống lại các lề thói bất công của xã hội phong kiến trƣởng giả. Đôi bạn chính là một trong số những sáng tác nhƣ thế. Tiểu thuyết Đôi bạn đƣợc đăng trên Ngày nay năm 1938 và đƣợc xuất bản thành sách năm 1939. Tiểu thuyết đã thể hiện rõ quan điểm nghệ thuật của Nhất Linh cũng nhƣ phong cách viết của ông, một cây bút có khả năng khai thác đời sống nội tâm của con ngƣời vô cùng phong phú và sâu sắc. Đây là một trong số những tiểu thuyết thể hiện đƣợc sự cách tân nghệ thuật của tác giả nói riêng và của Tự lực văn đoàn nói chung. Bài viết phân tích các yếu tố nhƣ kết cấu, nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật và ngôn ngữ trần thuật để làm sáng tỏ luận điểm trên. 2. NHỮNG ĐÓNG GÓP TRONG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT HIỆN ĐẠI CỦA NHẤT LINH QUA TÁC PHẨM ĐÔI BẠN 2.1. Kết cấu Kết cấu là đơn vị góp phần tạo nên hình thức bề ngoài của văn bản nghệ thuật và đồng thời cũng là sợi dây liên kết mạch truyện nội hàm của tiểu thuyết. Trong văn học trung đại, tiểu thuyết chủ yếu đƣợc tổ chức theo kết cấu chƣơng hồi. Các chƣơng có dung lƣợng gần tƣơng đƣơng nhau trong TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (261) 2020 33 đó tiêu đề chƣơng luôn tóm tắt đƣợc nội dung nòng cốt của chƣơng đó và cuối mỗi chƣơng thƣờng là các bình luận diễn giải. Câu chuyện trong tiểu thuyết chƣơng hồi thƣờng đƣợc kể theo dòng thời gian tuyến tính. Sự kiện gì đến trƣớc sẽ đƣợc kể trƣớc. Sự kiện sau là hệ quả của một hoặc nhiều sự kiện trƣớc đó. Kết cấu tiểu thuyết trung đại về cơ bản có những quy định chặt chẽ, nghiêm ngặt. Đây cũng là một đặc điểm chung của văn chƣơng nho gia. Mọi sáng tác đều phải dựa trên một khung quy chuẩn. Ngƣời viết có thể sáng tạo nhƣng không đƣợc phép đi qua những đƣờng biên niêm luật chặt chẽ đã đƣợc quy định. Bƣớc sang thế kỷ XX, khi nhu cầu cách tân văn học trở nên bức thiết, kết cấu của văn xuôi buộc phải vận động theo tiến trình thay đổi đó. Nhất Linh cùng các nhà văn trong Tự lực văn đoàn là những ngƣời đã thực hiện triệt để điều đó. Tiểu thuyết Đôi bạn cũng đƣợc chia thành các chƣơng nhƣng cách chia hết sức sáng tạo, hiện đại. Mở đầu tiểu thuyết là một chƣơng với sự xuất hiện của một bức thƣ do Dũng viết cho một ngƣời bạn xƣng tôi. Từ bức thƣ đó, câu chuyện về Dũng, về Loan, về Trúc và những ngƣời bạn đƣợc tái hiện. Cốt truyện có sự hồi cố, từ điểm đứng hiện tại nhìn về quá khứ. Câu chuyện đã không bắt đầu theo dòng thời gian tịnh tiến thôn ... à nóng cả ngƣời” (Nhất Linh, 1988: 60). Ngay cả đến lúc muốn tỏ tình mà Dũng cũng cứ loay hoay suy nghĩ không biết nên nói hay không rồi cuối cùng không nói khiến cho câu chuyện của họ mãi là chuyện của đôi bạn. Nhà văn nhìn ra những biểu hiện tâm lý tinh vi, duyên dáng của những ngƣời có cảm tình đặc biệt với nhau nhƣ có thể đoán đƣợc ý nhau rất nhanh dù chỉ bằng ánh mắt, thậm chí chỉ là linh cảm: “Không nhìn hẳn vào chỗ Loan ngồi, nhƣng Dũng biết rằng từ lúc vào Loan vẫn chăm chú nhìn mình. Loan ngồi khuất sau Hiền để không ai chú ý đến. Nàng không nói, không mỉm cƣời chỉ yên lặng nhìn Dũng. Dũng đặt mũ xuống bàn và đứng dựa vào thành ghế, hơi nghiêng ngƣời để lẩn mặt vào trong bóng tối. Loan biết rằng Dũng muốn đƣợc tự do nhìn lại mình; hai con mắt nàng bỗng tƣơi hẳn lên dƣới ánh đèn và hai hàng lông mi nàng hơi rung động. Nhìn Loan, Dũng thấy rõ ý nàng muốn bằng hai con mắt lặng lẽ diễn cho chàng biết nỗi vui sƣớng âm thầm đƣợc trông thấy mặt chàng” (Nhất Linh, 1988: 75). Hay nhƣ khi hai ngƣời muốn đƣợc tách ra khỏi vợ chồng anh chị giáo Lâm Thảo: “Loan đƣa mắt nhìn Dũng thật nhanh. Hai ngƣời cùng đi về phía mấy cây thông, tìm đƣờng xuống. Sợ có vẻ là định tâm rủ nhau chỉ đi riêng có hai ngƣời nên Dũng nói to: - Ai nhƣ anh Trúc đƣơng đứng đợi ở dƣới kia? Loan nói : - Không là anh Trúc thì là ai nữa. NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG 38 Thật ra cả Dũng và Loan không ngƣời nào nhìn thấy Trúc đâu cả. - Đi về phía này cô Loan ạ, xuống gần hơn. - Em về phía ấy dốc ngã chết. Dũng đứng lại đợi: - Ngã đã có tôi đứng ở dƣới đỡ” (Nhất Linh, 1988: 174). Tình cảm giữa Dũng và Loan thực ra đã đậm sâu nhƣng không ai thể hiện ra ngoài, “tình trong nhƣ đã, mặt ngoài còn e” vì thế mà sự họ có tâm lý ngại ngùng, giữ kẽ. Nhất Linh đã miêu tả trạng thái này xuyên suốt thiên tiểu thuyết rất khéo léo. Hầu nhƣ lúc nào hai ngƣời bên nhau, họ đều thể hiện tâm lý đó. Mặc dù sâu bên trong, tình yêu của họ rất tha thiết nhƣng giữa họ vẫn là những rào cản của hai bên gia đình, của thuần phong mỹ tục và của những mặc cảm cá nhân không thể biểu hiện ra bằng ngôn từ với nhau. Có những điểm chung về tình yêu, sự e dè nhƣ vậy nên họ đoán ý nhau rất mau chóng chỉ qua một ánh mắt, một cử chỉ khuôn mặt hay một lời nói. Việc tập trung vào biểu hiện tâm lý nhân vật, nhất là nhân vật đang yêu một cách chi tiết, tỉ mỉ là thao tác nghệ thuật cách tân so với văn học trung đại truyền thống. Trƣớc đây, các nhà thơ, nhà văn trung đại thƣờng không đi sâu khắc họa chi tiết và trực tiếp tâm lý nhân vật. Nếu có diễn tả thì thƣờng là “tả cảnh ngụ tình” hoặc khái quát bằng các điển cố điển tích. Nội tâm nhân vật không phải ƣu tiên hàng đầu của các tác giả trung đại. Thật ra bản thân tác phẩm văn học trung đại gần nhƣ là một bản tự thuật cốt cách, tinh thần và tâm trạng của bản thân tác giả thông qua những hình tƣợng văn học. Điều này khác với văn học hiện đại khi mà nhân vật trong tác phẩm đƣợc nhà văn quan tâm đến từng biểu hiện nhỏ nhặt nhất. Đặc biệt hơn nữa, văn học trung đại với những luân lý nho gia hà khắc không khuyến khích nam nữ tự do yêu đƣơng tìm hiểu (Truyện Kiều của Nguyễn Du là một ngoại lệ) thì việc Nhất Linh tập trung vào tình cảm yêu đƣơng tự nguyện của các nhân vật là một sự cách tân nghệ thuật. 2.3. Ngôn ngữ trần thuật Nhất Linh là một trong những “thủ lĩnh” quan trọng nhất của Tự lực văn đoàn, tổ chức văn học có quy mô, tôn chỉ và hoạt động tƣơng đối ổn định trong văn học Việt Nam thế kỷ XX. Chính vì lẽ đó, ông là ngƣời tuân thủ khá triệt để và nhất quán các tôn chỉ hành động của tổ chức. Trong tôn chỉ 10 điều đƣợc đƣa ra ngay từ khi Tự lực văn đoàn mới đƣợc thành lập, điều thứ tƣ là một trong số những điều vô cùng quan trọng và có ý nghĩa trong quá trình cách tân văn học: “Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam”. Đây chính là đặc điểm quan trọng giúp văn chƣơng thế kỷ XX có bƣớc tiến so với văn học nho gia trƣớc đây. Văn học trung đại truyền thống ƣa sử dụng điển cố điển tích, lối nói khoa trƣơng, phóng dụ và đƣợc viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm. Chữ Nôm dù là một loại ngôn ngữ ghi âm TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (261) 2020 39 tiếng Việt do ngƣời Việt sáng tạo, song lại sử dụng bộ chữ Hán sẵn có nên về cơ bản rất khó để phổ quát. Văn chƣơng hiện đại nói chung, tiểu thuyết Nhất Linh nói riêng sử dụng chữ quốc ngữ và viết bằng một lối hết sức dễ hiểu và bình dị. Nhất Linh lƣợc bỏ nhiều các trƣờng từ, từ vựng Hán Việt và đƣa vào trong Đôi bạn những từ rất thuần Việt nhƣ “một xã hội đƣơng thay đổi” (Nhất Linh, 1988: 21), “vả lại không còn dịp nào tốt hơn” (Nhất Linh, 1988: 32), “Bà Hai ngửng lên nói” (Nhất Linh, 1988: 38), Ngôn từ trong tiểu thuyết tự nhiên, dung dị nhƣ đời sống hằng ngày ; ngôn ngữ kể và tả không còn tính biền ngẫu nhƣ thƣờng thấy trong văn học trung đại và đặc biệt không còn trữ tình ngoại đề. Điều đó đã rút ngắn khoảng cách giữa tác phẩm văn học nghệ thuật với hiện thực đời sống thô nhám. Càng về sau này, ngôn ngữ trong văn học càng gần với đời sống hơn thậm chí là xù xì, thông tục hơn. Các nhà văn có thiên hƣớng giản lƣợc tối đa các lớp từ bóng bẩy để đi đến một thứ văn chƣơng thô ráp, thuần đời sống. Tất cả sự thay đổi đó đƣợc bắt đầu bởi những cách tân trong văn học đầu thế kỷ mà Tự lực văn đoàn là một trong những hạt nhân. Trong Đôi bạn Nhất Linh đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ kể và tả. Các chi tiết, sự kiện, biến cố diễn ra trong tác phẩm đƣợc kể tự nhiên, không gò bó khiên cƣỡng. Sự kiện này dẫn đến sự kiện khác. Các sự kiện làm tiền đề cho sự xuất hiện của nhau thêm logic và kết nối trong một hệ thống chung phục vụ việc thể hiện tƣ tƣởng chủ đề tác phẩm. Trong quá trình diễn giải các sự kiện, chi tiết của câu chuyện, những lời tả về thiên nhiên, về bối cảnh gia đình, về cá nhân các nhân vật đƣợc đặt vào hợp lý, tự nhiên mà không gây ra bất kỳ sự khiên cƣỡng nào. Ngay cả trong những đoạn văn thuật lại sự căng thẳng giữa Dũng và ông Tuần thì lời sự đan xen của lời kể cũng rất hợp lý: “Muốn khỏi cãi lại ông Tuần, Dũng cầm ấm nƣớc rót vào chén, chàng thấy tay chàng run run. Biết là một phút rất nghiêm trọng, Dũng phải cố sức giữ cao lòng đƣợc thản nhiên. Lời mắng của ông tuần chàng cho là không quan hệ gì; ông tuần khuyên chàng học chăm chỉ thì chàng sẽ học chăm. Nhƣng sự xung đột của chàng với ông tuần ngấm ngầm đã từ lâu rồi; những sự trái ngƣợc, những cái mà chàng ghét, những việc khiến chàng khó chịu đến nỗi bỏ cả học, Dũng biết là ông tuần không sao hiểu đƣợc. Chàng không phải làm việc gì, sống sung sƣớng nhàn nhã hơn một năm trời, đối với ông tuần, chàng không có quyền đƣợc phẫn uất. Nếu ngay lúc này nói ra, chắc ông tuần không chịu nghe, ông sẽ nổi giận mắng chàng là con bất hiếu, có lỗi mà không chịu nghe lời cha, rồi câu chuyện sẽ thành to. Dũng đƣa mắt nhìn ra vƣờn hoa. Trong một chậu sứ, giữa mấy hòn đá cuội trắng, một chồi lan, mới nhú lên, bóng và sạch nhƣ một lƣỡi gƣơm. NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG 40 Một cơn gió thoáng qua nhẹ đƣa đẩy những ngọn lá dài và làm lấp lánh ánh sáng ở chỗ lá cong cong rủ xuống. Dũng ngắm nghía những giỏ hoa trắng xanh mềm mại trong đám cuống lá. Chàng thở dài, trong ngƣời nhẹ nhõm và từ lúc đó chàng biết chắc là sẽ không xảy ra chuyện gì nữa” (Nhất Linh, 1988: 86-87). Những lời kể về mối quan hệ cha con đã giải thích thêm cho tâm lý lo lắng của Dũng cũng nhƣ không khí căng thẳng giữa anh và ông Tuần. Đoạn sau đó, tác giả miêu tả vẻ đẹp của chậu hoa lan mới nhú chồi nhƣng không hề khiến nó bị lạc lõng mà hoàn toàn phù hợp với sự biến đổi trong tâm trạng của nhân vật. Thiên nhiên ấy cũng chính là tâm trạng của nhân vật. Dũng biết ông tuần mắng mình nhƣng rồi mọi chuyện sẽ lại trở về bình thƣờng. Anh biết mình có lỗi với ông và biết rằng ông lo lắng cho anh nhƣng bản chất tính cách và suy nghĩ của hai cha con quá khác biệt nên dễ xảy ra xung đột. Chỉ cần Dũng nhún nhƣờng và lễ phép thì mọi việc sẽ trở lại bình thƣờng. Tiểu thuyết Đôi bạn của Nhất Linh, với bản chất là một tác phẩm lãng mạn chủ nghĩa, mang trong mình những đặc điểm quan trọng của phƣơng pháp sáng tác này mà ngôn ngữ trần thuật giàu chất lãng mạn là điều đƣợc thể hiện rất sáng rõ. Trong tác phẩm tràn ngập các đoạn văn miêu tả suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật bằng lối kể nhẹ nhàng, đƣa đẩy đặc trƣng của văn chƣơng lãng mạn. Biết là Loan sẽ đến vì Thảo đã mời cô sang nhƣng trong lòng Dũng vẫn mong ngóng Loan đến lạ: “Một bóng trắng thoáng qua sau giậu tre. Dũng ngỡ là Loan nhƣng lại mỉm cƣời thất vọng vì bóng đó đi thẳng về phía cánh đồng. Chàng lấy làm lạ rằng tại sao lại có thể mong Loan tha thiết nhƣ vậy, mong Loan nhƣ mong một ngƣời xa cách đã mấy năm. Muốn gặp Loan không khó gì cả, nhƣng Loan phải tự ý đến và đến giữa lúc này thì gặp gỡ ấy mới quý. Mỗi một phút chờ đợi đối với Dũng là một phút hy vọng; cảnh trời đẹp quá mà lòng chàng lúc đó tự nhiên vui vẻ quá nên Dũng chắc rằng không thể nào thiếu đƣợc cái vui gặp mặt Loan. Nếu hết ngày hôm nay mà Loan không đến thì chàng sẽ ghé qua nhà Loan và trách Loan vì cớ sao lại không đến. Chàng mỉm cƣời vì cái ý trách ấy thật là vô lý” (Nhất Linh, 1988: 59). Những câu văn nhẹ nhàng, nhịp câu thong thả, từ tốn mang lại cảm xúc sâu lắng. Tình cảm của Dũng dành cho Loan là thật lòng và sâu sắc bởi chỉ có nhƣ thế thì trạng thái hồi hộp kia mới xuất hiện ngay cả khi biết rằng chắc chắn cô sẽ xuất hiện. Văn phong trong Đôi bạn nhẹ nhàng, lãng mạn ngập tràn cảm xúc ấy xuyên suốt cả tiểu thuyết. Ngay cả trong khoảnh khắc Dũng biết mình sẽ rời xa Loan mãi mãi, không gian vẫn ngập tràn tình ý: “Chàng đƣa mắt nhìn Loan và thấy nảy ra rạo rực nỗi tiếc một cuộc đời TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (261) 2020 41 sung sƣớng với Loan đáng lẽ chàng đƣợc hƣởng. Một cơn gió heo may thơm mùi lúa đƣa mạnh thẳng vào mặt chàng làm hiện ra trƣớc mắt cảnh tƣợng tƣng bừng của bao mùa thu sáng đẹp chƣa đến trong đời chàng và đời Loan” (Nhất Linh, 1988: 179). Cơn gió heo may của buổi chiều mùa thu dƣờng nhƣ càng làm cho nỗi buồn chia ly càng trở nên sâu sắc. Dũng biết rằng cuộc đời không ƣu ái cho anh có một cuộc tình nhƣ ý bên Loan. Dù đã cố gắng nhƣng anh chƣa thể nào ngỏ lời với Loan ngay cả trƣớc ngày anh quyết định thoát ly, trốn sang nƣớc ngoài cùng với Trúc. Giọng văn lúc này chậm và buồn, vẫn tràn ngập tình ý nhƣng là một thứ tình cảm nuối tiếc, buồn vỡ vụn không gian. Liên tiếp trong tiểu thuyết Đôi bạn ngập tràn những đoạn văn đậm màu sắc lãng mạn, giọng văn nhẹ nhàng, dung dị và đầy e ấp, ngƣợng ngùng, “tình trong nhƣ đã mặt ngoài còn e” nhƣ thế. Nhất Linh đã bằng tài vận ngữ của mình để thi ca hóa mối tình dù chớm nở nhƣng đã rất sâu sắc giữa hai nhân vật chính. Mặc dù tình yêu đó có thể đơm hoa kết trái song trƣớc những lựa chọn của cuộc đời, Dũng buộc phải tự mình kết thúc nó để mối quan hệ của hai ngƣời mãi mãi chỉ là “đôi bạn” nhƣ nhan đề của tiểu thuyết. Ngôn ngữ trần thuật trong Đôi bạn của Nhất Linh đậm màu sắc hiện đại, không bị ràng buộc bởi các điển cố, điển tích đầy ẩn ý hay các câu văn biền ngẫu mà phóng khoáng, dung dị, tự nhiên và đầy tinh tế. Tiểu thuyết luận đề về sự giải phóng tƣ tƣởng tự do, mong muốn thoát ly khỏi những ràng buộc đã lỗi thời, cổ hủ nhƣng lại đƣợc viết bằng một lối văn rất lãng mạn, không cầu kỳ. Chính điều này đã giúp cho tác phẩm đến gần hơn với ngƣời đọc, đặc biệt là những ngƣời trẻ tuổi. 3. KẾT LUẬN Đôi bạn là một trong số những tác phẩm xuất sắc của Nhất Linh nói riêng và của Tự lực văn đoàn nói chung. Nhà văn đã có sự cách tân văn xuôi mạnh mẽ trên các phƣơng diện: kết cấu, nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật và ngôn ngữ trần thuật. So với các bậc tiền bối nhƣ Tản Đà, Hồ Biếu Chánh hay Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, văn chƣơng của Nhất Linh đã bắt nhịp đƣợc với làn sóng văn học hiện đại phƣơng Tây nhuần nhuyễn hơn, hoàn chỉnh hơn quá trình hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam. Đến ông và những ngƣời cùng thời nhƣ Khái Hƣng, Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố văn xuôi Việt Nam đã có sự thay áo để mở đƣờng cho một hành trình mới kéo dài cho đến bây giờ. Văn chƣơng của Nhất Linh nói riêng và Tự lực văn đoàn nói chung luôn luôn hƣớng đến sự mới mẻ trong cách thể hiện và trong tƣ tƣởng. Những hình thức nghệ thuật mới mẻ ôm chứa những tƣ tƣởng lớn về chính trị, xã hội và con ngƣời. Sự đau đáu với thời cuộc này là sợi dây kéo dài NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG 42 xuyên suốt trong văn chƣơng của Nhất Linh và nhiều tác giả khác trong Tự lực văn đoàn. Tuy nhiên những vấn đề đại ngôn đó lại đƣợc đặt ẩn ý trong nhƣng câu chuyện đời thƣờng rất cụ thể. Chính vì thế mà nó dễ đƣợc ngƣời đọc tiếp nhận, nhất là ngƣời đọc thuộc tầng lớp giàu có, thƣợng lƣu trong xã hội lúc bấy giờ, nhóm ngƣời phần nhiều đƣợc học hành dƣới ngôi trƣờng Tây học. Bƣớc đi của Nhất Linh và những ngƣời cùng chí hƣớng với ông đã giúp văn học Việt Nam có sự thay da đổi thịt, góp một phần lớn trong việc định hƣớng diện mạo văn học nƣớc nhà sau này. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Hà Minh Đức, Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long, Phạm Thành Hƣng, Nguyễn Văn Nam, Đoàn Đức Phƣơng, Trần Khánh Thành, Lý Hoài Thu. 2002. Lí luận văn học. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 2. Nhất Linh. 1988. Đôi bạn. Hà Nội: Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. 3. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hƣợu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức. 2013. Văn học Việt Nam 1900 - 1945. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
File đính kèm:
- cach_tan_nghe_thuat_trong_doi_ban_cua_nhat_linh.pdf