Các lý thuyết địa lý học văn hóa, sinh thái học văn hóa và việc vận dụng trong nghiên cứu văn hóa
Các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa được phát triển ở phương Tây trong thế
kỷ XX đã làm sáng tỏ vai trò của môi trường tự nhiên đối với sự hình thành, biến đổi của văn hóa, đồng
thời xác định mối quan hệ giữa văn hóa với môi trường, sự thích nghi của con người với môi trường
tự nhiên, và sự định hình cảnh quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật, xây dựng của con người. Vận
dụng các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa trong nghiên cứu văn hóa, chúng tôi
nhận thức rằng, điều kiện địa lý tự nhiên và điều kiện giao lưu văn hóa là hai nhân tố hợp thành môi
trường văn hóa mà trong đó, nền văn hóa của các cộng đồng người hình thành, vận động và biến đổi.
Do những tác động khác nhau của hai nhân tố ấy, các nền văn hóa có thể mang tính chất tĩnh tại hay
năng động, biến đổi chậm chạp hay nhanh chóng, mức độ biến đổi ít hay nhiều. Trước những tác động
ấy, số phận của các nền văn hóa sẽ tuỳ thuộc vào khả năng sáng tạo và khả năng lựa chọn của các
chủ thể văn hóa.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các lý thuyết địa lý học văn hóa, sinh thái học văn hóa và việc vận dụng trong nghiên cứu văn hóa
33Số 28 - Tháng 6 - 2019 VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA CÁC LÝ THUYẾT ĐỊA LÝ HỌC VĂN HÓA, SINH THÁI HỌC VĂN HÓA VÀ VIỆC VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HÓA LÝ TÙNG HIẾU Tóm tắt Các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa được phát triển ở phương Tây trong thế kỷ XX đã làm sáng tỏ vai trò của môi trường tự nhiên đối với sự hình thành, biến đổi của văn hóa, đồng thời xác định mối quan hệ giữa văn hóa với môi trường, sự thích nghi của con người với môi trường tự nhiên, và sự định hình cảnh quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật, xây dựng của con người. Vận dụng các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa trong nghiên cứu văn hóa, chúng tôi nhận thức rằng, điều kiện địa lý tự nhiên và điều kiện giao lưu văn hóa là hai nhân tố hợp thành môi trường văn hóa mà trong đó, nền văn hóa của các cộng đồng người hình thành, vận động và biến đổi. Do những tác động khác nhau của hai nhân tố ấy, các nền văn hóa có thể mang tính chất tĩnh tại hay năng động, biến đổi chậm chạp hay nhanh chóng, mức độ biến đổi ít hay nhiều. Trước những tác động ấy, số phận của các nền văn hóa sẽ tuỳ thuộc vào khả năng sáng tạo và khả năng lựa chọn của các chủ thể văn hóa. Từ khóa: Địa lý học văn hóa, sinh thái học văn hóa, địa lý tự nhiên, giao lưu văn hóa, môi trường văn hóa Abstract Theories of cultural geography and cultural ecology developed in the West in the twentieth century have shown the role of the natural environment for the formation and transformation of culture, the relationship between culture and the environment, the adaptation of people to the natural environment, and the forming of landscape created by agricultural production, technology and construction. Applying theories of cultural geography and cultural ecology in the study of culture, we recognizes that natural geographic conditions and cultural interchange conditions are two components of a cultural environment, in which the cultures of human communities form, move and transform. Due to the varied effects of those two factors, cultures can be static or dynamic, slow or fast changing, more or less variable. Faces these effects, the fate of those cultures will depend on the creativity and the choice of the cultural subjects. Keywords: Cultural geography, cultural ecology, natural geographic, cultural exchange, cultural environment Đặt vấn đề Các lý thuyết địa lý học văn hóa (cultural geography) và sinh thái học văn hóa (cultural ecology) được phát triển ở phương Tây trong thế kỷ XX với sự đóng góp của các nhà địa lý học như Carl Ortwin Sauer, Joël Bonnemaison và các nhà nhân học như Julian Haynes Steward Thông qua việc nghiên cứu quan hệ giữa văn hóa với môi trường, sự thích nghi của con người với môi trường tự nhiên, và sự định hình cảnh quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật, xây dựng của con người, các lý thuyết này đã làm sáng tỏ vai trò của môi trường địa lý tự nhiên đối với sự hình thành, biến đổi của văn hóa, đồng thời chỉ ra những tác động trở lại của văn hóa đối với môi trường sinh thái, từ đó đặt Số 28 - Tháng 6 - 201934 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA ra vấn đề trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái của con người. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, người nghiên cứu văn hóa Việt Nam không thể quay lưng với các lý thuyết khoa học mà giá trị đã được thừa nhận trong nghiên cứu văn hóa. Trong bài viết này, vận dụng phương pháp phân tích - tổng hợp tư liệu và phương pháp so sánh, chúng tôi tóm lược nội dung kèm theo nhận định về giá trị đóng góp của các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa, để từ đó chọn lọc, đúc kết những luận điểm phù hợp, có thể vận dụng vào việc nghiên cứu văn hóa. 1. Giá trị đóng góp của các lý thuyết địa lý văn hóa và sinh thái học văn hóa 1.1. Carl Ortwin Sauer với “hình thái của cảnh quan” Người được xem là có công đặt nền móng cho các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa là Carl Ortwin Sauer (1889 - 1975), nhà địa lý học người Mỹ đã phát triển phân ngành địa lý học văn hóa, nghiên cứu sự tạo thành các cảnh quan văn hóa từ các dạng thức xếp chồng lên trên cảnh quan tự nhiên. Bài báo “The Morphology of Landscape” (Hình thái của cảnh quan, 1925) của ông đăng trên University of California Publications in Geography 2 được xem là bài báo tiếng Anh có ảnh hưởng nhất trong việc giới thiệu những ý tưởng về các cảnh quan văn hóa. Bài báo đó trình bày cái nhìn của Sauer về quy tắc ứng xử của địa lý học, thiết lập quy tắc ứng xử dựa trên cơ sở hiện tượng học (phenomenology). Theo Sauer, “trong mỗi cảnh quan, có những hiện tượng không đơn giản có mặt ở đó nhưng có liên đới hoặc độc lập với nhau”. Do đó, theo ông, nhiệm vụ của nhà địa lý học là phát hiện mối liên kết cấp vùng giữa các hiện tượng: “Nhiệm vụ của địa lý học được quan niệm là thiết lập một hệ thống có tính cách quyết định bao gồm các hiện tượng cảnh quan, nhằm nắm bắt tất cả ý nghĩa của nó và tạo màu sắc cho quang cảnh đa dạng trên mặt đất”1. Đối với quyết định luận môi trường (environmental determinism), một lý thuyết phổ biến trong địa lý học khi Sauer bắt đầu sự nghiệp, ông có thái độ phê bình quyết liệt. Ông đề xuất một cách tiếp cận khác gọi là “hình thái của cảnh quan” (landscape morphology) hoặc “lịch sử văn hóa” (cultural history). Cách tiếp cận này liên quan đến việc thu thập quy nạp các dữ kiện thực tế về tác động của con người lên cảnh quan theo thời gian. Sauer tin rằng nông nghiệp, sự thuần hóa thực vật và động vật có ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên. Ông cũng bày tỏ mối quan tâm về cách thức mà chủ nghĩa tư bản hiện đại và các chính phủ trung ương tập quyền phá huỷ sự đa dạng văn hóa và sức khoẻ môi trường của thế giới. Lý thuyết của Carl Ortwin Sauer có ảnh hưởng ở cả Bắc Mỹ và châu Âu. Sau khi Sauer nghỉ hưu, trường phái địa lý học con người - môi trường của ông đã phát triển thành ... hóa. 1) Điều kiện địa lý tự nhiên (physical geography): Bao gồm phạm vi không gian, địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ văn, sinh thái, tài nguyên, những biến đổi của môi trường, v.v. của vùng cư trú. Các điều kiện địa lý tự nhiên ấy cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, phương tiện mà các tộc người có thể thích nghi, tận dụng để sinh tồn và phát triển, đồng thời đặt ra những hiểm họa, thách thức mà các tộc người phải tìm cách ứng phó và chế ngự. Cách thức thích nghi, tận dụng, ứng phó, chế ngự môi trường tự nhiên của con người, của các tộc người, chính là văn hóa. Vì vậy, điều kiện địa lý tự nhiên vừa là nguyên liệu vừa là tác nhân làm hình thành văn hóa. Và những yếu tố tự nhiên của một vùng đất là nguyên liệu và tác nhân làm hình thành văn hóa của một tộc người sẽ hợp thành không gian văn hóa (cultural space) của tộc người đó, góp phần làm hình thành đặc trưng của văn hóa tộc người và văn hóa vùng. Như vậy, theo quan điểm của địa lý học văn hóa, có một sự khác biệt nhất định giữa điều kiện địa lý tự nhiên là nguyên liệu và tác nhân khách quan với không gian văn hóa là sản phẩm nhân hóa giới tự nhiên của con người. “Đối với các nhà địa lý với tư duy thực nghiệm ở Mỹ, văn hóa bao gồm các thứ không thuộc về tự nhiên. Họ phân biệt văn hóa là cái nhìn thấy được trong cảnh quan địa lý, do con người tạo lập nên và có khả năng làm thay đổi môi trường tự nhiên. Đó là cảnh quan được nhân hóa” [8].Theo quan điểm ấy, con người cần phải dựa vào các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, phương tiện của giới tự nhiên để làm ra văn hóa. Tuy nhiên, cách thức tận dụng, thích nghi, ứng phó, chế ngự môi trường tự nhiên trước hết phụ thuộc vào kinh nghiệm, tri thức, kỹ thuật cũng như nhu cầu, lợi ích, mục đích của con người. Với tư duy phát triển và tính xã hội cao, con người không phản ứng một cách đồng loạt giống như nhau trước những tác nhân của môi trường tự nhiên, như các loài động vật. Ngược lại, con người có khả năng lựa chọn và thường xuyên lựa chọn những cách thức phản ứng phù hợp với kinh nghiệm, tri thức, kỹ thuật cũng như nhu cầu, lợi ích, mục đích của mình. Do đó, mặc dù không gian văn hóa của một vùng văn hóa thường có điều kiện địa lý tự nhiên tương đối đồng nhất, nhưng những tộc người cư trú trên đó có thể tạo ra những không gian văn hóa riêng, khác biệt với nhau, vì họ chỉ chú trọng khai thác một số yếu tố tự nhiên nào đó chứ không phải là toàn bộ điều kiện địa lý tự nhiên tiềm tàng của vùng văn hóa. Nói cách khác, không phải tất cả yếu Số 28 - Tháng 6 - 201938 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA tố của địa lý tự nhiên trong một không gian nào đó mà chỉ những yếu tố của tự nhiên đã được một cộng đồng người nhận thức, thích nghi, định danh, khai thác, cải biến hay huỷ hoại, mới hợp thành không gian văn hóa của họ. 2) Điều kiện giao lưu văn hóa (cultural interchange): Bao gồm những yếu tố của điều kiện địa lý tự nhiên như vị trí địa lý, địa hình của vùng cư trú, tạo thuận lợi hay gây khó khăn cho việc giao lưu văn hóa. Những vùng đất có điều kiện địa lý tự nhiên thoáng mở như vị trí tiếp giáp các tuyến đường giao thương, địa hình thảo nguyên hoặc đồng bằng châu thổ không bị biển rộng núi cao chia cắt, cơ hội giao lưu văn hóa nội vùng và giao lưu văn hóa với bên ngoài sẽ gia tăng. Ngược lại, những vùng đất có điều kiện địa lý tự nhiên biệt lập như vị trí địa lý tách biệt khỏi các tuyến đường giao thương, địa hình đồi núi hoặc hải đảo bị biển rộng núi cao chia cắt, cơ hội giao lưu văn hóa nội vùng và giao lưu văn hóa với bên ngoài sẽ giảm đi. Thông thường, giao lưu văn hóa sẽ được khởi đầu bằng trao đổi thương mại và tôn giáo. Qua đó, nó cung cấp cho con người những nguyên liệu, phương tiện, cách thức thích nghi, ứng phó mới, làm giàu, làm mới hành trang văn hóa của họ trên những chặng đường cải biến tự nhiên và xã hội để sinh tồn và phát triển. Giao lưu văn hóa là tiền đề của tiếp biến văn hóa (acculturation), tức là tiếp thu, biến đổi những yếu tố văn hóa ngoại sinh thành những yếu tố văn hóa tộc người, đồng thời biến đổi văn hóa tộc người để thích ứng với những yếu tố văn hóa mới. Nếu giao lưu văn hóa chỉ là trao đổi để tăng cường hiểu biết và thoả mãn nhu cầu của con người, thì tiếp biến văn hóa sẽ làm biến đổi văn hóa tộc người. Hai tác nhân địa lý tự nhiên và giao lưu văn hóa là tiền đề của văn hóa tộc người và văn hóa vùng, nên khi chúng biến đổi, văn hóa tộc người và văn hóa vùng sẽ tất yếu biến đổi. Trong thực tiễn, hai tác nhân ấy không đồng nhất giữa các vùng miền, và không bất biến trong lịch sử. Do đó, các nguyên liệu, phương tiện, cách thức thích nghi, ứng phó với tự nhiên và xã hội mà hai tác nhân ấy cung cấp cho con người ở các vùng miền khác nhau và ở những giai đoạn khác nhau, tất yếu phải khác nhau. Điều đó giải thích vì sao, cho dù cùng một tộc người, nhưng cư trú trên những vùng địa lý khác nhau, có quá trình giao lưu văn hóa khác nhau, cũng có thể làm hình thành những nhóm địa phương có đặc trưng văn hóa khác nhau. Ngược lại, cho dù khác tộc người, nhưng cư trú trên cùng một địa bàn, có quá trình giao lưu văn hóa mật thiết với nhau, cũng có thể làm hình thành những nhóm trung gian có những đặc trưng văn hóa chung, biến đổi từ văn hóa truyền thống của các tộc người tổ tiên. Có thể diễn giải dây chuyền tác động của hai tác nhân địa lý tự nhiên và giao lưu văn hóa trong sự hình thành và biến đổi văn hóa tộc người và văn hóa vùng theo sơ đồ: - Điều kiện địa lý tự nhiên => không gian văn hóa => hình thành, biến đổi văn hóa tộc người => hình thành, biến đổi đặc trưng văn hóa vùng. - Điều kiện giao lưu văn hóa => tiếp biến văn hóa => biến đổi văn hóa tộc người => biến đổi đặc trưng văn hóa vùng. 2.2. Phê phán quan điểm của quyết định luận môi trường Tuy nhiên, điều kiện địa lý tự nhiên không quyết định số phận của các nền văn hóa như quan điểm của quyết định luận môi trường (environmental determinism). Đây là một quan điểm đã được Carl Ortwin Sauer phê phán ngay từ thập niên 1920, nhưng cho đến nay vẫn còn rơi rớt trong một số công trình nghiên cứu văn hóa. Ở Việt Nam, quyết định luận môi trường thậm chí còn được vận dụng để phân loại các nền văn hóa và truy tìm nguồn gốc các ưu khuyết điểm của văn hóa ở môi trường địa lý tự nhiên. Trên thực tế, trong quan hệ với môi trường tự nhiên, con người khác rất xa các loài động 39Số 28 - Tháng 6 - 2019 VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA vật. Bởi vì con người không chỉ khai thác tự nhiên đơn thuần và mãi mãi lệ thuộc tự nhiên. Ngược lại, trong quá trình khai thác tự nhiên, con người có khả năng sáng tạo và khả năng tiếp nhận kinh nghiệm, tri thức của các nền văn hóa khác để từ đó, họ giảm dần sự lệ thuộc vào giới tự nhiên, thậm chí có thể tác động trở lại tự nhiên, vươn lên kiểm soát giới tự nhiên. Chính từ thực tế đó, các nhà nghiên cứu văn hóa ngày nay cho rằng, tự nhiên chỉ tác động có mức độ vào quá trình hình thành và biến đổi của văn hóa. Tác động của tự nhiên theo thời gian và sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng đã giảm đi, tỷ lệ nghịch với tác động trở lại của con người đối với tự nhiên. Như một nhận định của Simon During, nhà nghiên cứu văn học, văn hóa người New Zealand sinh năm 1950: “Thoạt tiên, tự nhiên (nature) được định nghĩa trái ngược với kỹ xảo và công nghệ. Trong điều kiện ấy, nó trở thành một lĩnh vực của những gì không thuộc quyền kiểm soát của cơ quan con người, hoặc ngay cả những gì được tạo ra hoặc được đánh dấu bởi cơ quan con người. Điều trở ngại trước mắt của định nghĩa này là ngày nay những gì tồn tại với tư cách “tự nhiên” gần như đều là một sản phẩm trực tiếp hoặc gián tiếp của sự thao túng lâu dài của con người, đến mức trên hành tinh này hầu như không còn gì là “tự nhiên” thuần tuý đúng nghĩa nữa” [11, tr.208]2. Do đó, khi khảo sát mối tương quan giữa môi trường và văn hóa, thiết tưởng người nghiên cứu cần xem xét vận dụng những quan điểm chừng mực hơn, thay cho quyết định luận môi trường. Chẳng hạn quan điểm của Phạm Đức Dương: “Môi trường trong quan hệ với con người được nhận thức như là tiền đề quy định chứ không phải quyết định thế ứng xử của con người với hai đặc trưng cơ bản: Xét về mặt sinh học, đó là sự cân bằng giữa cơ thể - môi trường và sự thích nghi với các nền sinh thái. Xét về mặt xã hội, vì hoạt động có ý thức nên con người luôn luôn muốn biến đổi tự nhiên phù hợp với mình, do đó, con người tự đặt mình đối lập với tự nhiên, biến hệ sinh thái tự nhiên thành hệ sinh thái nhân văn” [2, tr.67-68]. Kết luận Những đóng góp quan trọng nhất của các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa là làm sáng tỏ vai trò của môi trường tự nhiên đối với sự hình thành, biến đổi của văn hóa, đồng thời xác định mối quan hệ giữa văn hóa với môi trường, sự thích nghi của con người với môi trường tự nhiên, và sự định hình cảnh quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật, xây dựng của con người. Từ thực tiễn những gì mà một số nền văn hóa đã làm đối với môi trường tự nhiên trong thế kỷ XX, các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa đã chỉ ra sai lầm của quyết định luận môi trường, chứng minh những tác động trở lại của văn hóa đối với môi trường tự nhiên, từ đó đặt ra vấn đề trách nhiệm bảo vệ môi trường tự nhiên của con người. Tiếp thu, vận dụng những giá trị đóng góp của các lý thuyết địa lý học văn hóa và sinh thái học văn hóa trong nghiên cứu văn hóa, chúng tôi nhận thức rằng, điều kiện địa lý tự nhiên là tiền đề hình thành không gian văn hóa; và điều kiện giao lưu văn hóa là tiền đề của tiếp biến văn hóa. Cư trú trong một không gian văn hóa, tuỳ theo nhu cầu và năng lực sáng tạo của mình, các chủ thể văn hóa có thể khai thác các yếu tố của tự nhiên như là nguồn nguyên liệu, phương tiện để làm ra văn hóa. Và cùng với năng lực sáng tạo của mình, các chủ thể văn hóa có thể lựa chọn, tiếp biến những tri thức, phương pháp, phương tiện, nguyên liệu mới và cả những nhu cầu mới thông qua sự tiếp xúc với các cộng đồng cư dân lân cận, để đổi mới, nâng cao nền văn hóa của mình. Do đó, không gian văn hóa và giao lưu tiếp biến văn hóa đóng vai trò như là hai tác nhân hợp thành một môi trường văn hóa (cultural environment) mà trong đó, nền văn hóa của các cộng đồng người hình thành, vận động và biến đổi. Nền văn hóa của một cộng đồng người mang tính chất tĩnh tại hay năng động, biến đổi chậm chạp hay nhanh chóng, mức độ biến đổi ít hay nhiều, phụ thuộc một phần vào không gian Số 28 - Tháng 6 - 201940 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA văn hóa và quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa mà cộng đồng người ấy đã trải qua. Phần còn lại, nó phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và khả năng lựa chọn của chủ thể văn hóa trước những tác động đến từ môi trường văn hóa ấy. L.T.H (TS., Khoa Văn hóa học, Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQGTPHCM) Chú thích 1 Nguyên văn: “Within each landscape there are phenomena that are not simply there but are either associated or independent of each other”. “The task of geography is conceived as the establishment of a critical system which embraces the phenomenology of landscape, in order to grasp in all of its meaning and colour the varied terrestrial scene” [1]. 2 Nguyên văn: “Nature is defined, first, against artifice and technology. In these terms it becomes the domain of what is not under the control of human agency, or even what is produced or marked by human agency. The immediate difficulty with this definition is that today what exists as nature is almost wholly a direct or indirect product of long human manipulation so that, on this planet, there is almost no pure nature in this sense” [11, tr.208]. Tài liệu tham khảo 1. Carl Ortwin Sauer (1925), “The Morphology of Landscape”, University of California Publications in Geography 2, p. 20. 2. Phạm Đức Dương (2013), Văn hóa học dẫn luận, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 3. Lý Tùng Hiếu (2017), Trường Sơn - Tây Nguyên: Tiếp cận văn hóa học, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 4. Joël Bonnemaison (2004), La géographie culturelle, établi par Maud Lasseur et Christel Thibault, Paris, C.T.H.S., 152 p. 5. Joël Bonnemaison (2009), “Sự hồi sinh của một cách tiếp cận văn hóa”, Nguyễn Thanh Tùng dịch, Nguyễn Văn Hiệu hiệu đính, từ nguyên bản tiếng Anh Culture and Space: Conceiving a New Cultural Geography, New York, 2005, cập nhật ngày 23/5/2009, nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/vhh-phuong- phap-nghien-cuu/1273-joel-bonnemaison-su- hoi-sinh-cua-mot-cach-tiep-can-van-hoa.html. 6. Julian Haynes Steward (1972), Theory of Culture Change: The Methodology of Multilinear Evolution, University of Illinois Press. 7. Julian Haynes Steward (1977), “Evolutionary principles and social types”, Evolution and ecology: essays on social transformationm, ed. J.C. Steward and R.P Murphy, Urbana: University of Illinois Press, pp. 68-86. 8. Trần Ngọc Khánh (2011), “Mấy cơ sở tiếp cận lý thuyết nghiên cứu văn hóa”, cập nhật ngày 05/09/2011, cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/llvhh-nhung-van-de- chung/2073-tran-ngoc-khanh-may-co-so-tiep- can-ly-thuyet-nghien-cuu-van-hoa.html. 9. Trần Ngọc Khánh (2012), Văn hóa đô thị giản yếu, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 10. Robert Layton (2007), Nhập môn lý thuyết nhân học, Phan Ngọc Chiến dịch, Lương Văn Hy hiệu đính, từ nguyên tác tiếng Anh An introduction to the theory in anthropology, Published by the press syndicate of the University of Cambridge, 1997, 1998, 2000, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 11. Simon During (2005), Cultural Studies: a Critical Introduction, London and New York: Routledge. Ngày nhận bài: 22 - 01 - 2019 Ngày phản biện, đánh giá: 16 - 5 - 2019 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2019
File đính kèm:
- cac_ly_thuyet_dia_ly_hoc_van_hoa_sinh_thai_hoc_van_hoa_va_vi.pdf