Bài giảng Chửa trứng

Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, sinh viên phải:

1.1. Định nghĩa được chửa trứng.

1.2. Mô tả được đặc điểm giải phẫu bệnh của chửa trứng.

1.3. Chẩn đoán được trường hợp chửa trứng.

1.4. Nêu được tiến triển của chửa trứng.

1.5. Nêu được các cách xử trí chửa trứng.

1.6. Nói được cách theo dõi sau nạo thai trứng.

Bài giảng Chửa trứng trang 1

Trang 1

Bài giảng Chửa trứng trang 2

Trang 2

Bài giảng Chửa trứng trang 3

Trang 3

Bài giảng Chửa trứng trang 4

Trang 4

Bài giảng Chửa trứng trang 5

Trang 5

Bài giảng Chửa trứng trang 6

Trang 6

Bài giảng Chửa trứng trang 7

Trang 7

pdf 7 trang Danh Thịnh 13/01/2024 480
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Chửa trứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Chửa trứng

Bài giảng Chửa trứng
1. Tên bài: CHỬA TRỨNG
2. Bài giảng: Lý thuyết
3. Thời gian giảng: 1 tiết
4. Địa điểm giảng bài: giảng đường
5. Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, sinh viên phải:
1.1. Định nghĩa được chửa trứng.
1.2. Mô tả được đặc điểm giải phẫu bệnh của chửa trứng.
1.3. Chẩn đoán được trường hợp chửa trứng.
1.4. Nêu được tiến triển của chửa trứng.
1.5. Nêu được các cách xử trí chửa trứng.
1.6. Nói được cách theo dõi sau nạo thai trứng.
6. Nội dung chính
6.1.Định nghĩa: Chửa trứng là do sự phát triển bất thường của các gai rau, nguyên bào nuôi phát
triển quá nhanh nên tổ chức liên kết bên trong gai rau cùng với các mạch máu không phát triển theo
kịp, các gai rau không còn tổ chức liên kết và không còn các mạch máu, trở thành các bọc nước.
6.2. Nguyên nhân và các yếu tố thuận lợi:
Nguyên nhân chửa trứng hiện nay vẫn chưa được biết rõ, nhưng theo thống kê thì ở các nước
kém phát triển có tỉ lệ bệnh cao; ở châu Âu 1/1.000 - 2.000 trường hợp đẻ thường, trong khi đó ở
Philipin 1/200; ở Đài Loan 1/82; ở Việt Nam khoảng 1/500.
Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi trong thời kỳ sinh đẻ. Theo Fox, Tow, Novak các yếu tố thuận
lợi cho sự phát triển chửa trứng là thiếu dinh dưỡng chủ yếu là thiếu đạm; đẻ nhiều; tuổi cao. Park -
Tominaga và Page - Carr đã tìm thấy có bất thường về thể nhiễm sắc ở các tế bào nuôi trong chửa
trứng và ung thư nguyên bào nuôi. Đa số ý kiên cho thấy tế bào nuôi trong chửa trứng thường có 4n
thể nhiễm sắc, còn ung thư nguyên bào nuôi thường có 2n thể nhiễm sắc kèm với một vài bất thường
trong các đôi thể nhiễm sắc.
Người ta còn chú ý đến vấn đề miễn dịch trong chửa trứng. Ahwood-Park và Douglas đã tìm
thấy trong 40% các trường hợp chửa trứng có tế bào nuôi xâm nhập vào mạch máu và hiện tượng này
thường xảy ra ở thai trên 18 tuần. Nhờ sức đề kháng miễn dịch của cơ thể người mẹ mà các tế bào này
không tồn tại và phát triển được. Trường hợp sản phụ không đủ sức đề kháng, không sinh được kháng
thể để chống lại sự phát triển của các tế bào nuôi thì chửa trứng sẽ xuất hiện.
Robinson đã ghép da của người chồng cho một phụ nữ bị ung thư nguyên bào nuôi thì thấy
không có hiện tượng loại bỏ mảnh da ghép. Như vậy, ở người bị ung thư nguyên bào nuôi bị suy giảm
hệ thống miễn dịch hoặc suy giảm miễn dịch là yếu tố thuận lợi cho phát triển ung thư nguyên bào
nuôi.
6.3. Giải phẫu bệnh
6.3.1. Đại thể: Các gai rau thoái hoá thành các túi trứng to bằng hạt đậu hay bằng quả nho, mỗi túi có
một cuống nhỏ dính với nhau thành chùm, trong túi có chứa nước màu trắng trong. Thường chỉ có 1/3
- 2/3 gai rau thoái hoá, bào thai thì chết sớm và tiêu đi. Về đại thể có ba loại chửa trứng:
+ Chửa trứng toàn phần: hầu hết các gai rau bị thoái hoá, biến thành các túi trứng.
+ Chửa trứng bán phần: phần lớn các gai rau biến thành túi nước, còn một phần gai rau bình
thường, do đó có các túi trứng và cả rau.
+ Chửa trứng kèm theo thai nhi: một phần nhỏ gai rau bị thoái hoá, còn phần lớn gai rau
không bị thoái hoá vẫn đủ để nuôi dưỡng thai. Do đó trong buồng tử cung có cả thai, bánh rau và một
số túi trứng.
6.3.2. Vi thể: Các gai rau thoái hoá thành các túi trứng, ở ngoài là các nguyên bào nuôi chia làm hai
lớp: ngoài là lớp hợp bào trong là lớp đơnn bào còn goi là lớp tế bào Langhans. Lớp hợp bào và lớp
đơn bào có thể phát triển lành tính hoặc hỗn loạn. Vì vậy người ta chia làm hai loại:
+ Chửa trứng lành tính: lớp hợp bào không bị phá vỡ, lớp đơn bào không ăn vào lớp niêm
mạc tử cung.
+ Chửa trứng ác tính: lớp hợp bào mỏng đi và có từng vùng bị phá vỡ, lớp đơn bào ở trong
xâm lấn ra ngoài, tràn vào niêm mạc tử cung và ăn sâu vào lớp cơ tử cung, có khi ăan thủng lớp cơ tử
cung gây chảy máu trong ổ bụng.
6.3.3. Nang hoàng tuyến: Khi chửa trứng hCG tăng cao, kích thích hoàng thể thai nghén ơ buồng
trứng phát triển thành nang hoàng tuyến. Nang hoàng tuyến có thể có hoặc không có, nếu có thì
thường có cả hai bên buồng trứng. Nang có thể to hoặc nhỏ, trong nang có chứa nước màu vàng
chanh. Sau khi nạo hoặc sẩy, nang sẽ tự mất dần nếu không có biến chứng.
6.4. Triệu chứng:
6.4.1. Triệu chứng cơ năng:
- Ra máu: là triệu chứng quan trọng đầu tiên. Ra máu sớm vào tháng thứ hai đến tháng thứ tư,
máu ra tự nhiên; màu đen họăc đỏ; ra ít một và kéo dài dai dẳng, bệnh nhân xanh xao, niêm mạc nhợt
nhạt thiếu máu, mệt mỏi vẻ mặt hốc hác.
- Ngén bất thường: bệnh nhân nôn nhiều hơn các lần có thai bình thường trước.
- Dấu hiệu nhiễm độc thai nghén: phù, huyết áp cao, có protein niệu. Đôi khi có dấu hiệu
vàng da, nước tiểu vàng ( Robert).
- Trình trạng cường giáp với tuyến giáp to, nhịp tim nhanh, da bàn tay ấm, run tay... chiếm
khoảng 10% trường hợp. Thường thấy ở thể nặng khi chiều cao tử cung trên 16 cm, nồng độ hCG
trong nước tiểu trên 1.000.000 đơn vị qquốc tế/ 24 giờ.
6.4.2. Triệu chứng thực thể:
+ Tử cung: mật độ tử cung mềm, không sờ thấy các phần của thai nhi ( trừ loại có kèm thai
nhi). Tử cung to hơn tuổi thai ( trừ loại chửa trứng thoái hoá thì tử cung không to hơn tuổi thai).
+ Nghe tim thai: không nghe thấy tim thai.
+ Âm đạo mềm, có thể nhìn thấy nhân di căn âm đạo to bằng đầu ngón tay, màu tím dễ chảy
máu. Nhân di căn thường xuất hiện ở thành trước âm đạo.
+ Phần phụ: có thể sờ thấy nang hoàng tuyến hai bên, di động dễ.
6.4.3. Xét nghiệm:
- Phản ứng sing vật: lượng hCG ( human chorionic gonadotropin) trong có thai thường cao
nhất vào cuối tháng thứ hai đầu tháng thứ ba, nhưng dưới mức 20.000 đơn vị ếch. Trong chửa trứng
lượng hCG sẽ tăng trên 20.000 đơn vị ếch.
- ßhCG : nồng độ ßhCG tăng rất cao trong chửa trứng, thường là trên 500.000 đơn vị quốc tế
trong 24 giờ. Tuy nhiên chẩn đoán có thể nhầm lẫn nếu chỉ dựa vào một lần định lượng ßhCG duy
nhất vì những lý do sau:
* Trong một số trưòng hợp thai thường ở khoảng 10 tuần tuổi thai hay một số trường hợp đa
thai, lượng ßhCG có thể trên 500.000 đơn vị quốc tế/24 giờ.
* Ngược lại, đôi khi chửa trứng cũng có thể có nồng độ ßhCG trong máu không cao.
- Estrogen: trong nước tiểu estrogen dười dạng es

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_chua_trung.pdf