Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp
Bài báo nêu lên những bất cập trong việc xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh dựa trên khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (Common European Framework of Reference, viết tắt là CEFR) tại trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Theo chỉ đạo về việc thực hiện đề án ngoại ngữ 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường Đại học Giao thông Vận tải (GTVT) đã tiến hành xây dựng Đề án đổi mới chương trình đào tạo tiếng Anh theo định hướng chuẩn đầu ra B1 và quyết định lấy khung quy chiếu châu Âu CEFR làm nền tảng cho việc xây dựng chương trình. Tuy nhiên, quá trình xây dựng Đề án đổi mới đã gặp nhiều thách thức liên quan đến cơ chế và chính sách đào tạo, giáo trình bài giảng, đề thi, phương pháp giảng dạy của giáo viên khiến cho việc thiết kế chương trình gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, trong bài báo này, tác giả dự định phân tích những bất cập đó và đề xuất những hướng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình đào tạo
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, các trường đại học ở Việt nam đã và đang thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo tiếng Anh, từ việc biên soạn lại chương trình, lựa chọn giáo trình mới, tăng thời lượng, nâng cao trình độ giáo viên đến việc thay đổi cách kiểm tra đánh giá theo hướng áp dụng một số chứng chỉ quốc tế để xác định trình độ người học. Tất cả những nỗ lực nói trên đã góp phần cải thiện một phần nào chất lượng đào tạo tiếng Anh. Tuy nhiên, theo nhận định chung, hiệu quả về giảng dạy vẫn còn NGUYỄN THỊ THU HÀ* *Đại học Giao thông Vận tải, ✉ nttha@utc.edu.vn ÁP DỤNG KHUNG QUY CHIẾU TRÌNH ĐỘ CHUNG CHÂU ÂU (CEFR) TRONG XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾNG ANH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI: KHÓ KHĂN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP tương đối thấp mà nguyên nhân là do các biện pháp cải thiện được thực hiện một cách tự phát hoặc thiếu một cơ sở lý luận làm nền tảng, đặc biệt thể hiện ở mối liên kết lỏng lẻo giữa chương trình đào tạo và cách đánh giá chuẩn đầu ra. Nhận thức được tầm quan trọng trong việc xác định chuẩn đầu ra cho sinh viên đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành thông tư số 05/2012/TT- BGDĐT quy định sinh viên tốt nghiệp ĐH khối ngành không chuyên ngữ phải đạt trình độ tiếng Anh B1 – tương đương 450 điểm TOEIC, 450 điểm TOEFL TÓM TẮT Bài báo nêu lên những bất cập trong việc xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh dựa trên khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (Common European Framework of Reference, viết tắt là CEFR) tại trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Theo chỉ đạo về việc thực hiện đề án ngoại ngữ 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường Đại học Giao thông Vận tải (GTVT) đã tiến hành xây dựng đề án đổi mới chương trình đào tạo tiếng Anh theo định hướng chuẩn đầu ra B1 và quyết định lấy khung quy chiếu châu Âu CEFR làm nền tảng cho việc xây dựng chương trình. Tuy nhiên, quá trình xây dựng đề án đổi mới đã gặp nhiều thách thức liên quan đến cơ chế và chính sách đào tạo, giáo trình bài giảng, đề thi, phương pháp giảng dạy của giáo viên khiến cho việc thiết kế chương trình gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, trong bài báo này, tác giả dự định phân tích những bất cập đó và đề xuất những hướng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình đào tạo. Từ khóa: đề án ngoại ngữ 2020, khung quy chiếu châu Âu, xây dựng chương trình. 63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v PBT hoặc 4.5 điểm IELTS theo khung quy chiếu châu Âu có hiệu lực thi hành từ tháng 4/2012 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012). Thông tư nhằm hiện thức hóa một phần trong nội dung của đề án ngoại ngữ 2020 đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2008. Nhằm thực hiện thông tư của Bộ, bắt đầu từ năm học 2015-2016, trường Đại học Giao thông Vận tải đã thực hiện đề án đổi mới chương trình đào tạo tiếng Anh theo định hướng sử dụng khung quy chiếu châu Âu bắt đầu bằng việc phân loại sinh viên để xếp lớp theo đúng trình độ và xác định chuẩn đầu ra là B1 với bài thi tập trung vào cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc và viết, nhằm phát triển toàn diện khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh của sinh viên. Tuy vậy, trong quá trình xây dựng đề án, các giảng viên Anh văn phụ trách phần thiết kế chương trình đã gặp rất nhiều khó khăn liên quan đến việc ứng dụng khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (CEFR) đối với một trường khối kỹ thuật không chuyên về tiếng Anh, bên cạnh đó còn có nhiều bất cập về cơ chế chính sách đào tạo, biên soạn giáo trình, phương pháp giảng dạy để thực hiện đề án. Để làm rõ vần đề này, bài báo sẽ giới thiệu tổng quan về khung quy chiếu CEFR, nêu lên các thách thức trong áp dụng khung quy chiếu và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng chương trình và hiệu quả giảng dạy tiếng Anh tại trường Đại học Giao thông Vận tải nói riêng và các trường đại học không chuyên ngữ nói chung. 2. GIỚI THIỆU KHUNG QUY CHIẾU TRÌNH ĐỘ CHUNG CHÂU ÂU Khung trình độ chung châu Âu, tên đầy đủ là Khung quy chiếu về trình độ ngôn ngữ chung châu Âu (Common European Framework of Reference for Languages), là một sáng kiến của Hội đồng châu Âu nhằm đưa ra một hệ thống mô tả các mức trình độ ngoại ngữ có thể đạt được của người học từ lúc bắt đầu đến khi đạt được trình độ gần tương đương với người bản ngữ (Council of Europe, 2001). CEFR được bắt đầu xây dựng vào đầu thập niên 1990 bởi một nhóm các nhà nghiên cứu ngôn ngữ nổi tiếng của châu Âu, trong đó tác giả chính là John Trim, Brian North, Daniel Coste và Joseph Sheils. Sau khi thử nghiệm với 2 phiên bản nội bộ, phiên bản chính thức đầu tiên ra mắt vào năm 2001, được xuất bản bằng hai ngôn ngữ, tiếng Anh do nhà xuất bản Cambridge, tiếng Pháp do nhà xuất bản Didier để chào mừng năm Ngôn ngữ châu Âu và đã được dịch ra gần 40 ngôn ngữ trên thế giới. Mục tiêu tổng quát của khung quy chiếu CEFR được thể hiện trong trích đoạn sau đây: “Khung quy chiếu CEFR nhằm mục đích vượt qua các rào cản về giao tiếp giữa các chuyên gia làm việc về lĩnh vực ngôn ngữ hiện đại đến từ các hệ thống giáo dục khác nhau cung cấp các phương tiện để các nhà quản lý đào tạo, các nhà thiết kế chương trình, giáo viên, người đào tạo giáo viên, các cơ quan khảo thí có thể định vị và phối hợp các nỗ lực để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của người học. Bằng cách tạo ra một cơ sở chung để mô tả tường minh các mục tiêu, nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy. Khung quy chiếu CEFR sẽ làm tăng tính minh bạch của các khóa học, nội dung chương trình và văn bằng được cấp” (Common European Framework of Reference for Languages: Council of Europe, phiên bản điện tử, tr.1) (Council of Europe, 2001). Phiên bản chính thức của khung quy chiếu CEFR có độ dài 260 trang với 9 chương chính và 4 phụ lục; trong đó, 2 chương đầu của công trình giới thiệu bối cảnh, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu, các ... c, để người đọc có thể hiểu dễ dàng. Thang đo này cung cấp một bản mô tả chung về trình độ của người học, đồng thời đưa ra những định hướng tổng quát cho việc xây dựng mục tiêu học tập và thiết kế chương trình đào tạo. 2.2. Khái niệm về chương trình và các nội dung của việc thiết kế chương trình trong CEFR Các tác giả trong CEFR cũng đã khẳng định rằng, chương trình là một khái niệm rộng và khó đưa ra được một định nghĩa rõ ràng và được sự nhất trí cao. Theo các tác giả, chương trình học được coi là một kế hoạch học tập hay là “môt lộ trình mà người học thực hiện thông qua các trải nghiệm học tập, có hoặc không có sự kiểm soát của một cơ sở giáo dục” (CEFR, chương 8.4). Chương trình học chính là một phần của chương trình “trải nghiệm” (experiential) và “tồn tại” (existential), mà phạm vi của nó còn vượt ra khỏi cả ranh giới của trường học. Xây dựng và thực hiện chương trình bao gồm nhiều hoạt động được thực hiện ở nhiều cấp khác nhau trong hệ thống giáo dục, cụ thể như sau: – Cấp quốc tế, để so sánh (supra): Ví dụ như: các công cụ để tham chiếu có tính quốc tế như khung năng lực CEFR, các nghiên cứu đánh giá quốc tế như khảo sát PISA hay các chỉ số châu Âu về năng lực ngôn ngữ, hoặc các phân tích được chuyên gia quốc tế thực hiện. – Cấp quốc gia (hệ thống giáo dục), cấp bang hoặc vùng (macro): Ví dụ như: các kế hoạch học tập, đề cương bài giảng, các mục đích chiến lược cụ thể, nội dung cốt lõi, các chuẩn về đào tạo. – Cấp trường (meso): Ví dụ như: điều chỉnh chương trình học hoặc kế hoạch học tập để phù hợp với điều kiện của từng trường. – Cấp lớp, nhóm, trình tự giảng dạy, giáo viên (micro): Ví dụ như: khóa học, sách giáo khoa được sử dụng, các nguồn tài liệu. – Cấp cá nhân (nano): Ví dụ như: kinh nghiệm học tập cá nhân, phát triển cá nhân về học tập suốt đời. Các tác giả cũng khẳng định rằng, sự tham gia của các cấp trong việc xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo, đặc biệt ở cấp quốc gia hoặc cấp khu vực trong việc đưa quyết sách có thể gây ra những sức ép nhất định.Tuy nhiên, dù chính sách giáo dục được quyết định như thế nào ở hai cấp này, thì vai trò của trường học (meso) và giáo viên đứng lớp (micro) luôn đóng vai trò quyết định trong việc thực thi chương trình đào tạo. 66 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 3. ỨNG DỤNG CỦA CEFR TRONG THIẾT KẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM CEFR ra đời đánh dấu một bước thay đổi lớn trong việc thiết kế chương trình đào tạo ở khắp nơi trên thế giới, không chỉ bó hẹp ở phạm vi châu Âu. Từ cách tiếp cận theo tính truyền thống là xây dựng chương trình chú trọng vào phương pháp giảng dạy để truyền tải nội dung chương trình thì nay việc thiết kế chương trình hướng đến kết quả đầu ra của người học và tất cả phương pháp giảng dạy và các hoạt động học tập đều nhằm đạt đến kết quả đầu ra đó. Hội đồng châu Âu đã thực hiện một cuộc nghiên cứu khảo sát từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2006 để thu thập thông tin về việc sử dụng CEFR ở cấp quốc gia tại 30 nước thành viên của liên minh châu Âu. Kết quả của khảo sát này đã được trình bày tại Diễn đàn chính sách “The Common European Framework for Reference for Languages and the Development of Language Policies: Challenges and Responsibilities” (Khung quy chiếu Trình độ Ngôn ngữ chung châu Âu và xây dựng các chính sách ngôn ngữ: Thách thức và trách nhiệm) (Council of Europe, 2001) được tổ chức vào tháng 2 năm 2007. Kết quả khảo sát đã cho thấy, CEFR được thường xuyên sử dụng ở các nước thành viên trong việc xây dựng chương trình đào tạo ngoại ngữ ở cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và đại học, chương trình đào tạo tiếng dân tộc, các quy định về kiểm tra, đánh giá và cấp chứng chỉ, các chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, biên soạn sách giáo khoa, các văn bản về chính sách và kế hoạch hành động trong đào tạo ngôn ngữ. Cụ thể, về nội dung câu hỏi liên quan đến lập kế hoạch và xây dựng chương trình đào tạo, 26 trên tổng số 29 nước tham gia trả lời khảo sát (chiếm 90%) đã đánh giá rằng, CEFR là công cụ rất hữu ích trong việc lên kế hoạch và xây dựng chương trình đào tạo. 87% nước được hỏi đánh giá CEFR rất hữu ích trong lên kế hoạch và biên soạn bài kiểm tra, đánh giá, và cấp chứng chỉ. Các câu trả lời đã thể hiện tầm ảnh hưởng rộng lớn của CEFR trong rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong việc xây dựng chương trình và bài giảng. Các nước tham gia khảo sát cũng chỉ ra rằng, ứng dụng lớn nhất của CEFR là các thành phần của khung CEFR như cách tiếp cận hướng đến hành động lấy người học làm trung tâm, bối cảnh về đa dạng ngôn ngữ, khái niệm về học tập suốt đời . Nhiều nước ủng hộ việc sử dụng các thang đo với phần mô tả chi tiết từng mức năng lực trong thang đo để làm công cụ đánh giá và tự đánh giá. Ở rất nhiều nước, các tài liệu tham khảo, các chuẩn đầu ra và các kỳ thi đang được đánh giá lại, cập nhật dựa trên khung quy chiếu CEFR. Một số nước khác cũng lên kế hoạch để tiếp tục nghiên cứu nhằm hiệu lực hóa mối liên hệ giữa chương trình cấp quốc gia với CEFR. Ở Việt Nam, trong hệ thống giáo dục phổ thông đến đại học, khung quy chiếu CEFR cũng được sử dụng như nền tảng cho việc xây dựng chương trình đào tạo. Đặc biệt, ngày 30 tháng 9 năm 2008. Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1400/QĐ-TTG, phê duyệt khung quy chiếu trình độ ngoại ngữ chung Châu Âu làm chuẩn đào tạo trình độ tiếng Anh kèm theo đó là “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam giai đoạn 2008-2020”. Ngày 24 tháng 1 năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT, quy định về khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam dựa trên cơ sở khung quy chiếu CEFR và được chia làm 3 cấp và 6 bậc, trong đó: Bậc 1 (sơ cấp) tương thích với A1 trong CEFR. Bậc 2 (sơ cấp) tương thích với A2 trong CEFR. Bậc 3 (trung cấp) tương thích với bậc B1 trong CEFR. Bậc 4 (trung cấp) tương thích với bậc B2 trong CEFR. Bậc 5 (cao cấp) tương thích với bậc C1 trong CEFR. Bậc 6 (cao cấp) tương thích với bậc C2 trong CEFR. Thông tư số 05/2012/TT-BGDĐT do Bộ GD- ĐT ban hành, trong đó quy định sinh viên tốt nghiệp đại học khối ngành không chuyên ngữ phải đạt trình độ tiếng Anh B1 – tương đương 450 điểm TOEIC, 450 điểm TOEFL PBT hoặc 4.5 điểm IELTS 67KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v theo khung tham chiếu chuẩn châu Âu có hiệu lực thi hành từ tháng 4-2012. Tuy nhiên, cho đến nay việc học và thi đạt chuẩn đầu ra ở các trường đại học lại rất khác nhau, dẫn đến tình trạng “loạn chuẩn đầu ra”. Theo Thu Tâm (2013), bên cạnh một số trường áp dụng chuẩn Anh ngữ đầu ra B1 cho sinh viên tốt nghiệp đại học hệ đào tạo chính quy theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo như Đại học Kinh tế Quốc dân (trừ 3 ngành Ngoại thương, Du lịch và Kinh doanh quốc tế), Đại học Văn hóa, Đại học Công nghiệp, Đại học Công nghiệp thực phẩm TPHCM, nhiều đơn vị vẫn áp dụng chuẩn ngoại ngữ đầu ra thấp hơn so với quy định. Đơn cử tại Đại học Giao thông Vận tải TPHCM, sinh viên sẽ được công nhận tốt nghiệp đại học nếu đạt 405 điểm TOEIC hoặc 4.0 điểm IELTS, thấp hơn 0.5 điểm so với chuẩn quy định theo khung tham chiếu. Tương tự, tại Đại học Cần Thơ, trừ 4 chuyên ngành Sư phạm tiếng Anh, Việt Nam học (chuyên ngành Hướng dẫn viên du lịch), Kinh doanh quốc tế và Luật (chuyên ngành Luật thương mại) có mức yêu cầu trình độ Anh ngữ cao hơn, còn lại tất cả các ngành đều công nhận tốt nghiệp cho sinh viên có trình độ tiếng Anh bằng A quốc gia hoặc 350 điểm TOEIC, thấp hơn 100 điểm so với mức quy định. Theo Hương Lan (2008), trước thực trạng “loạn chuẩn” này, bà Trần Thị Hà, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học cho biết, các trường cùng khối ngành phải phối hợp xây dựng chương trình chi tiết môn tiếng Anh theo chuẩn năng lực sử dụng tiếng Anh. Và chuẩn phải có tính thống nhất, chặt chẽ và xuyên suốt, đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu của cơ quan tuyển dụng lao động. 4. THIẾT KẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾNG ANH DỰA TRÊN KHUNG QUY CHIẾU CEFR TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI Từ năm học 2015-2016, nhằm thực hiện chỉ đạo của đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020, Trường Đại học Giao thông Vận tải đã tiến hành đổi mới chương trình đào tạo lấy khung quy chiếu trình độ chung châu Âu là nền tảng cho việc thiết kế chương trình. Trước thời điểm đổi mới chương trình, sinh viên toàn trường thường phải học 3 học phần tiếng Anh gồm tiếng Anh 1 (60 tiết/3 tín chỉ), tiếng Anh 2 (60 tiết/3 tín chỉ) và tiếng Anh chuyên ngành (45 tiết hoặc 60 tiết tùy từng chuyên ngành). Giáo trình tiếng Anh 1 là cuốn giáo trình được nhà trường biên soạn ở trình độ Elementary (sơ cấp), giáo trình tiếng Anh 2 ở trình độ Pre-intermediate (trung cấp) và giáo trình chuyên ngành thường từ trình độ Pre-intermediate (trung cấp) trở lên. Sinh viên buộc phải học cả 3 học phần, không tính đến trình độ đầu vào của các em, dẫn đến tình trạng lớp có nhiều trình độ khác nhau, có những sinh viên học kém nhưng cũng có nhiều em khá tiếng Anh phải học lại từ trình độ cơ bản Elementary, dẫn đến tình trạng chán học. Giáo viên cũng gặp nhiều khó khăn khi giảng dạy những lớp sinh viên có trình độ chênh lệch nhau vì khó áp dụng những phương pháp giảng dạy phù hợp với những đối tượng như vậy. Đề án đổi mới chương trình được sự tham gia xây dựng của tất cả các giảng viên tiếng Anh. Với cách tiếp cận xác định chuẩn năng lực cho từng học phần, từ đó xác định phương pháp giảng dạy, nội dung bài giảng và cách đánh giá, chương trình đào tạo được thiết kế theo các trình độ từ A1 đến B1 (bảng 2). Theo yêu cầu của chương trình mới, sinh viên khi vào trường phải tham gia thi sát hạch năng lực đầu vào. Bài thi sát hạch là dạng thi TOEIC Listening & Reading dạng trắc nghiệm khách quan thực hiện trong 2 giờ, gồm 200 câu hỏi. Từ kết quả sát hạch này, Nhà trường thực hiện quy đổi điểm TOEIC sang khung trình độ chung châu Âu như trình độ A1, A2, B1. Sinh viên sau khi quy đổi đạt trình độ như thế nào sẽ được xếp lớp theo đúng trình độ của mình. Những sinh viên đạt điểm TOEIC tương đương B1 sẽ được miễn học tất cả các học phần A1, A2 và B1 và chỉ phải học học phần tiếng Anh chuyên ngành. Cũng theo yêu cầu của đề án, sinh viên phải đạt điểm 5 ở các học phần trước thì mới được chuyển tiếp lên học ở các học phần tiếp theo. Những sinh viên không đạt sẽ phải học lại và thi lại để đạt. Chuẩn tiếng Anh đầu ra là 5 điểm học phần B1 và đạt điểm theo quy định của hệ thống tín chỉ với học phần tiếng Anh chuyên nghành. 68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Về giáo trình sử dụng, nhà trường sử dụng bộ giáo trình được thiết kế dựa theo khung quy chiếu trình độ chung châu Âu, giáo trình Straightforward A1, Straightforward A2 và Straightforward B1 (Philip Ker, 2013). Đối với học phần tiếng Anh chuyên ngành, nhà trường giao việc biên soạn giáo trình tùy theo từng chuyên ngành cho các nhóm giảng viên dạy chuyên nghành cụ thể như chuyên ngành công trình, cơ khí, kinh tế, kỹ thuật viễn thông.... Tất cả các giáo trình chuyên ngành đều biên soạn từ trình độ B1. Về đề thi cho các học phần, các giảng viên dựa vào các tiêu chí đánh giá trình độ A1, A2 và B1 để thiết kế ra bộ đề thi để đánh giá theo trình độ. Đối với trình độ A2, việc thiết kế đề thi dựa trên bài thi KET (Cambridge ESOL) và trình độ B1 dựa trên đề thi PET (Cambridge ESOL).Nhà trường quyết định lấy đề thi B1 (PET) nhằm xác định chuẩn đầu ra vì nó đánh giá đầy đủ 4 kỹ năng, không giống đề thi TOEIC chỉ đánh giá 2 kỹ năng nghe và đọc. Cho đến nay, việc thực hiện chương trình đã thực hiện cho 2 khóa 55 và 56 và có những ưu thế so với chương trình cũ như sau: – Sinh viên được xếp lớp theo đúng trình độ, tránh tình trạng lớp nhiều trình độ chênh lệch. – Sinh viên phải đạt học phần mới được chuyển tiếp lên học phần cao hơn, thúc đẩy động cơ học tập của sinh viên. – Giáo trình phát triển 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết theo đúng khung quy chiếu châu Âu CEFR. – Đề thi có đủ 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết, bám sát khung quy chiếu CEFR, khác với chương trình cũ không kiểm tra kỹ năng nói. Tuy vậy, đã có khá nhiều bất cập từ khâu xây dựng và thực hiện chương trình, cụ thể: Áp dụng đề thi TOEIC sát hạch đầu vào Việc sử dụng đề thi TOEIC Listening và Reading để sát hạch đầu vào và xếp lớp là do đề thi có dạng trắc nghiệm, dễ áp dụng cho hơn 1000 sinh viên năm thứ nhất, dễ chấm điểm và quy đổi sang khung tham chiếu CEFR. Tuy nhiên, vì đề thi chỉ đánh giá 2 kỹ năng nghe và đọc nên kết quả có phần nào phiến diện, chưa phản ảnh thực chất khả năng giao tiếp của sinh viên. Rất nhiều sinh viên được điểm cao ở kỳ thi sát hạch này, được chuyển điểm, miễn học và miễn thi các học phần A1, A2, B1 và chỉ phải học phần tiếng Anh chuyên ngành. Tuy vậy, khi ra trường khả năng giao tiếp của sinh viên khó đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Trình độ của sinh viên Kể từ khi thực hiện sát hạch trình độ đầu vào của sinh viên trong năm học 2015-2016, trình độ ngoại ngữ của sinh viên của các trường khối kỹ thuật như Đại học Giao thông Vận tải rất kém. Khóa 55(80% sinh viên) và khóa 56 (76% sinh viên) phải học từ trình độ A1, trong khi đa phần các em đã học tiếng Anh từ tiểu học (lớp 3), tức là khoảng 10 năm học tiếng Anh. Điều này chứng tỏ chất lượng đào tạo ngoại ngữ ở bậc phổ thông thật sự là hồi chuông báo động cả xã hội. Sinh viên vào đại học đáng lý đã phải Bảng 2. Khung chương trình đào tạo tiếng Anh tại Đại học Giao thông Vận tải (từ năm học 2015-2016) STT Trình độ Học phần Số tín chỉ Số tiết Thời điểm học 1 A1 Tiếng Anh A1 4 90 Năm thứ 1 2 A2 Tiếng Anh A2 4 90 Năm thứ 2 3 B1 Tiếng Anh B1 4 90 Năm thứ 3 4 B1+ Tiếng Anh chuyên ngành 3 60 Năm thứ 3
File đính kèm:
- ap_dung_khung_quy_chieu_trinh_do_chung_chau_au_cefr_trong_xa.pdf