Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp

Bài báo nêu lên những bất cập trong việc xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh dựa trên khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (Common European Framework of Reference, viết tắt là CEFR) tại trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Theo chỉ đạo về việc thực hiện đề án ngoại ngữ 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường Đại học Giao thông Vận tải (GTVT) đã tiến hành xây dựng Đề án đổi mới chương trình đào tạo tiếng Anh theo định hướng chuẩn đầu ra B1 và quyết định lấy khung quy chiếu châu Âu CEFR làm nền tảng cho việc xây dựng chương trình. Tuy nhiên, quá trình xây dựng Đề án đổi mới đã gặp nhiều thách thức liên quan đến cơ chế và chính sách đào tạo, giáo trình bài giảng, đề thi, phương pháp giảng dạy của giáo viên khiến cho việc thiết kế chương trình gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, trong bài báo này, tác giả dự định phân tích những bất cập đó và đề xuất những hướng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình đào tạo

Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp trang 1

Trang 1

Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp trang 2

Trang 2

Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp trang 3

Trang 3

Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp trang 4

Trang 4

Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp trang 5

Trang 5

Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp trang 6

Trang 6

Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 6760
Bạn đang xem tài liệu "Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp

Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu âu (cefr) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường đại học giao thông vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, các trường đại học ở 
Việt nam đã và đang thực hiện nhiều biện pháp nhằm 
nâng cao hiệu quả đào tạo tiếng Anh, từ việc biên soạn 
lại chương trình, lựa chọn giáo trình mới, tăng thời 
lượng, nâng cao trình độ giáo viên đến việc thay đổi 
cách kiểm tra đánh giá theo hướng áp dụng một số 
chứng chỉ quốc tế để xác định trình độ người học. Tất 
cả những nỗ lực nói trên đã góp phần cải thiện một 
phần nào chất lượng đào tạo tiếng Anh. Tuy nhiên, 
theo nhận định chung, hiệu quả về giảng dạy vẫn còn 
NGUYỄN THỊ THU HÀ*
*Đại học Giao thông Vận tải, ✉ nttha@utc.edu.vn
ÁP DỤNG KHUNG QUY CHIẾU TRÌNH ĐỘ 
CHUNG CHÂU ÂU (CEFR) TRONG XÂY DỰNG 
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾNG ANH
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI: 
KHÓ KHĂN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
tương đối thấp mà nguyên nhân là do các biện pháp 
cải thiện được thực hiện một cách tự phát hoặc thiếu 
một cơ sở lý luận làm nền tảng, đặc biệt thể hiện ở mối 
liên kết lỏng lẻo giữa chương trình đào tạo và cách 
đánh giá chuẩn đầu ra. 
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc xác 
định chuẩn đầu ra cho sinh viên đại học, Bộ Giáo 
dục và Đào tạo đã ban hành thông tư số 05/2012/TT-
BGDĐT quy định sinh viên tốt nghiệp ĐH khối ngành 
không chuyên ngữ phải đạt trình độ tiếng Anh B1 – 
tương đương 450 điểm TOEIC, 450 điểm TOEFL 
TÓM TẮT
Bài báo nêu lên những bất cập trong việc xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh dựa trên 
khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (Common European Framework of Reference, viết 
tắt là CEFR) tại trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Theo chỉ đạo về việc thực hiện đề 
án ngoại ngữ 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường Đại học Giao thông Vận tải (GTVT) đã 
tiến hành xây dựng đề án đổi mới chương trình đào tạo tiếng Anh theo định hướng chuẩn đầu ra 
B1 và quyết định lấy khung quy chiếu châu Âu CEFR làm nền tảng cho việc xây dựng chương 
trình. Tuy nhiên, quá trình xây dựng đề án đổi mới đã gặp nhiều thách thức liên quan đến cơ chế 
và chính sách đào tạo, giáo trình bài giảng, đề thi, phương pháp giảng dạy của giáo viên khiến 
cho việc thiết kế chương trình gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, trong bài báo này, tác giả dự 
định phân tích những bất cập đó và đề xuất những hướng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả của 
chương trình đào tạo.
Từ khóa: đề án ngoại ngữ 2020, khung quy chiếu châu Âu, xây dựng chương trình.
63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
PBT hoặc 4.5 điểm IELTS theo khung quy chiếu châu 
Âu có hiệu lực thi hành từ tháng 4/2012 (Bộ Giáo 
dục và Đào tạo, 2012). Thông tư nhằm hiện thức hóa 
một phần trong nội dung của đề án ngoại ngữ 2020 
đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2008. 
Nhằm thực hiện thông tư của Bộ, bắt đầu từ năm 
học 2015-2016, trường Đại học Giao thông Vận tải 
đã thực hiện đề án đổi mới chương trình đào tạo tiếng 
Anh theo định hướng sử dụng khung quy chiếu châu 
Âu bắt đầu bằng việc phân loại sinh viên để xếp lớp 
theo đúng trình độ và xác định chuẩn đầu ra là B1 
với bài thi tập trung vào cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc 
và viết, nhằm phát triển toàn diện khả năng giao tiếp 
bằng tiếng Anh của sinh viên. Tuy vậy, trong quá trình 
xây dựng đề án, các giảng viên Anh văn phụ trách 
phần thiết kế chương trình đã gặp rất nhiều khó khăn 
liên quan đến việc ứng dụng khung quy chiếu trình 
độ chung châu Âu (CEFR) đối với một trường khối 
kỹ thuật không chuyên về tiếng Anh, bên cạnh đó còn 
có nhiều bất cập về cơ chế chính sách đào tạo, biên 
soạn giáo trình, phương pháp giảng dạy để thực hiện 
đề án. Để làm rõ vần đề này, bài báo sẽ giới thiệu tổng 
quan về khung quy chiếu CEFR, nêu lên các thách 
thức trong áp dụng khung quy chiếu và đề xuất một số 
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng chương trình và 
hiệu quả giảng dạy tiếng Anh tại trường Đại học Giao 
thông Vận tải nói riêng và các trường đại học không 
chuyên ngữ nói chung. 
2. GIỚI THIỆU KHUNG QUY CHIẾU TRÌNH 
ĐỘ CHUNG CHÂU ÂU
Khung trình độ chung châu Âu, tên đầy đủ là 
Khung quy chiếu về trình độ ngôn ngữ chung châu 
Âu (Common European Framework of Reference for 
Languages), là một sáng kiến của Hội đồng châu Âu 
nhằm đưa ra một hệ thống mô tả các mức trình độ 
ngoại ngữ có thể đạt được của người học từ lúc bắt 
đầu đến khi đạt được trình độ gần tương đương với 
người bản ngữ (Council of Europe, 2001). 
CEFR được bắt đầu xây dựng vào đầu thập niên 
1990 bởi một nhóm các nhà nghiên cứu ngôn ngữ 
nổi tiếng của châu Âu, trong đó tác giả chính là John 
Trim, Brian North, Daniel Coste và Joseph Sheils. 
Sau khi thử nghiệm với 2 phiên bản nội bộ, phiên 
bản chính thức đầu tiên ra mắt vào năm 2001, được 
xuất bản bằng hai ngôn ngữ, tiếng Anh do nhà xuất 
bản Cambridge, tiếng Pháp do nhà xuất bản Didier để 
chào mừng năm Ngôn ngữ châu Âu và đã được dịch 
ra gần 40 ngôn ngữ trên thế giới. 
Mục tiêu tổng quát của khung quy chiếu CEFR 
được thể hiện trong trích đoạn sau đây: “Khung quy 
chiếu CEFR nhằm mục đích vượt qua các rào cản về 
giao tiếp giữa các chuyên gia làm việc về lĩnh vực 
ngôn ngữ hiện đại đến từ các hệ thống giáo dục khác 
nhau cung cấp các phương tiện để các nhà quản 
lý đào tạo, các nhà thiết kế chương trình, giáo viên, 
người đào tạo giáo viên, các cơ quan khảo thí có thể 
định vị và phối hợp các nỗ lực để đảm bảo đáp ứng 
nhu cầu của người học. Bằng cách tạo ra một cơ sở 
chung để mô tả tường minh các mục tiêu, nội dung 
chương trình và phương pháp giảng dạy. Khung quy 
chiếu CEFR sẽ làm tăng tính minh bạch của các khóa 
học, nội dung chương trình và văn bằng được cấp” 
(Common European Framework of Reference for 
Languages: Council of Europe, phiên bản điện tử, 
tr.1) (Council of Europe, 2001).
Phiên bản chính thức của khung quy chiếu CEFR 
có độ dài 260 trang với 9 chương chính và 4 phụ 
lục; trong đó, 2 chương đầu của công trình giới thiệu 
bối cảnh, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu, các ... c, để người đọc có thể hiểu dễ dàng. Thang 
đo này cung cấp một bản mô tả chung về trình độ của 
người học, đồng thời đưa ra những định hướng tổng 
quát cho việc xây dựng mục tiêu học tập và thiết kế 
chương trình đào tạo.
2.2. Khái niệm về chương trình và các nội dung 
của việc thiết kế chương trình trong CEFR
Các tác giả trong CEFR cũng đã khẳng định rằng, 
chương trình là một khái niệm rộng và khó đưa ra 
được một định nghĩa rõ ràng và được sự nhất trí cao. 
Theo các tác giả, chương trình học được coi là một kế 
hoạch học tập hay là “môt lộ trình mà người học thực 
hiện thông qua các trải nghiệm học tập, có hoặc không 
có sự kiểm soát của một cơ sở giáo dục” (CEFR, 
chương 8.4). Chương trình học chính là một phần của 
chương trình “trải nghiệm” (experiential) và “tồn tại” 
(existential), mà phạm vi của nó còn vượt ra khỏi cả 
ranh giới của trường học. 
Xây dựng và thực hiện chương trình bao gồm 
nhiều hoạt động được thực hiện ở nhiều cấp khác 
nhau trong hệ thống giáo dục, cụ thể như sau: 
– Cấp quốc tế, để so sánh (supra): Ví dụ như: các 
công cụ để tham chiếu có tính quốc tế như khung 
năng lực CEFR, các nghiên cứu đánh giá quốc tế như 
khảo sát PISA hay các chỉ số châu Âu về năng lực 
ngôn ngữ, hoặc các phân tích được chuyên gia quốc 
tế thực hiện.
– Cấp quốc gia (hệ thống giáo dục), cấp bang hoặc 
vùng (macro): Ví dụ như: các kế hoạch học tập, đề 
cương bài giảng, các mục đích chiến lược cụ thể, nội 
dung cốt lõi, các chuẩn về đào tạo.
– Cấp trường (meso): Ví dụ như: điều chỉnh 
chương trình học hoặc kế hoạch học tập để phù hợp 
với điều kiện của từng trường.
– Cấp lớp, nhóm, trình tự giảng dạy, giáo viên 
(micro): Ví dụ như: khóa học, sách giáo khoa được sử 
dụng, các nguồn tài liệu.
– Cấp cá nhân (nano): Ví dụ như: kinh nghiệm 
học tập cá nhân, phát triển cá nhân về học tập suốt đời. 
Các tác giả cũng khẳng định rằng, sự tham gia 
của các cấp trong việc xây dựng và thực hiện chương 
trình đào tạo, đặc biệt ở cấp quốc gia hoặc cấp khu 
vực trong việc đưa quyết sách có thể gây ra những sức 
ép nhất định.Tuy nhiên, dù chính sách giáo dục được 
quyết định như thế nào ở hai cấp này, thì vai trò của 
trường học (meso) và giáo viên đứng lớp (micro) luôn 
đóng vai trò quyết định trong việc thực thi chương 
trình đào tạo.
66 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
3. ỨNG DỤNG CỦA CEFR TRONG THIẾT 
KẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TRÊN THẾ 
GIỚI VÀ VIỆT NAM
CEFR ra đời đánh dấu một bước thay đổi lớn 
trong việc thiết kế chương trình đào tạo ở khắp nơi 
trên thế giới, không chỉ bó hẹp ở phạm vi châu Âu. 
Từ cách tiếp cận theo tính truyền thống là xây dựng 
chương trình chú trọng vào phương pháp giảng dạy để 
truyền tải nội dung chương trình thì nay việc thiết kế 
chương trình hướng đến kết quả đầu ra của người học 
và tất cả phương pháp giảng dạy và các hoạt động học 
tập đều nhằm đạt đến kết quả đầu ra đó. 
Hội đồng châu Âu đã thực hiện một cuộc nghiên 
cứu khảo sát từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2006 để thu 
thập thông tin về việc sử dụng CEFR ở cấp quốc gia 
tại 30 nước thành viên của liên minh châu Âu. Kết 
quả của khảo sát này đã được trình bày tại Diễn đàn 
chính sách “The Common European Framework for 
Reference for Languages and the Development of 
Language Policies: Challenges and Responsibilities” 
(Khung quy chiếu Trình độ Ngôn ngữ chung châu Âu 
và xây dựng các chính sách ngôn ngữ: Thách thức 
và trách nhiệm) (Council of Europe, 2001) được tổ 
chức vào tháng 2 năm 2007. Kết quả khảo sát đã cho 
thấy, CEFR được thường xuyên sử dụng ở các nước 
thành viên trong việc xây dựng chương trình đào tạo 
ngoại ngữ ở cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học 
phổ thông và đại học, chương trình đào tạo tiếng dân 
tộc, các quy định về kiểm tra, đánh giá và cấp chứng 
chỉ, các chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, 
biên soạn sách giáo khoa, các văn bản về chính sách 
và kế hoạch hành động trong đào tạo ngôn ngữ. Cụ 
thể, về nội dung câu hỏi liên quan đến lập kế hoạch 
và xây dựng chương trình đào tạo, 26 trên tổng số 29 
nước tham gia trả lời khảo sát (chiếm 90%) đã đánh 
giá rằng, CEFR là công cụ rất hữu ích trong việc lên 
kế hoạch và xây dựng chương trình đào tạo. 87% 
nước được hỏi đánh giá CEFR rất hữu ích trong lên 
kế hoạch và biên soạn bài kiểm tra, đánh giá, và cấp 
chứng chỉ. 
Các câu trả lời đã thể hiện tầm ảnh hưởng rộng 
lớn của CEFR trong rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong 
việc xây dựng chương trình và bài giảng. Các nước 
tham gia khảo sát cũng chỉ ra rằng, ứng dụng lớn nhất 
của CEFR là các thành phần của khung CEFR như 
cách tiếp cận hướng đến hành động lấy người học làm 
trung tâm, bối cảnh về đa dạng ngôn ngữ, khái niệm 
về học tập suốt đời . Nhiều nước ủng hộ việc sử 
dụng các thang đo với phần mô tả chi tiết từng mức 
năng lực trong thang đo để làm công cụ đánh giá và tự 
đánh giá. Ở rất nhiều nước, các tài liệu tham khảo, các 
chuẩn đầu ra và các kỳ thi đang được đánh giá lại, cập 
nhật dựa trên khung quy chiếu CEFR. Một số nước 
khác cũng lên kế hoạch để tiếp tục nghiên cứu nhằm 
hiệu lực hóa mối liên hệ giữa chương trình cấp quốc 
gia với CEFR.
Ở Việt Nam, trong hệ thống giáo dục phổ thông 
đến đại học, khung quy chiếu CEFR cũng được sử 
dụng như nền tảng cho việc xây dựng chương trình 
đào tạo. Đặc biệt, ngày 30 tháng 9 năm 2008. Thủ 
tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1400/QĐ-TTG, 
phê duyệt khung quy chiếu trình độ ngoại ngữ chung 
Châu Âu làm chuẩn đào tạo trình độ tiếng Anh kèm 
theo đó là “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống 
giáo dục quốc dân Việt Nam giai đoạn 2008-2020”. 
Ngày 24 tháng 1 năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo 
đã ban hành Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT, quy định 
về khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam dựa 
trên cơ sở khung quy chiếu CEFR và được chia làm 3 
cấp và 6 bậc, trong đó:
Bậc 1 (sơ cấp) tương thích với A1 trong CEFR.
Bậc 2 (sơ cấp) tương thích với A2 trong CEFR.
Bậc 3 (trung cấp) tương thích với bậc B1 trong CEFR.
Bậc 4 (trung cấp) tương thích với bậc B2 trong CEFR.
Bậc 5 (cao cấp) tương thích với bậc C1 trong CEFR.
Bậc 6 (cao cấp) tương thích với bậc C2 trong CEFR. 
 Thông tư số 05/2012/TT-BGDĐT do Bộ GD-
ĐT ban hành, trong đó quy định sinh viên tốt nghiệp 
đại học khối ngành không chuyên ngữ phải đạt 
trình độ tiếng Anh B1 – tương đương 450 điểm 
TOEIC, 450 điểm TOEFL PBT hoặc 4.5 điểm IELTS 
67KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
theo khung tham chiếu chuẩn châu Âu có hiệu lực thi 
hành từ tháng 4-2012. Tuy nhiên, cho đến nay việc 
học và thi đạt chuẩn đầu ra ở các trường đại học lại 
rất khác nhau, dẫn đến tình trạng “loạn chuẩn đầu ra”. 
Theo Thu Tâm (2013), bên cạnh một số trường 
áp dụng chuẩn Anh ngữ đầu ra B1 cho sinh viên tốt 
nghiệp đại học hệ đào tạo chính quy theo quy định của 
Bộ Giáo dục và Đào tạo như Đại học Kinh tế Quốc dân 
(trừ 3 ngành Ngoại thương, Du lịch và Kinh doanh 
quốc tế), Đại học Văn hóa, Đại học Công nghiệp, 
Đại học Công nghiệp thực phẩm TPHCM, nhiều đơn 
vị vẫn áp dụng chuẩn ngoại ngữ đầu ra thấp hơn so 
với quy định. Đơn cử tại Đại học Giao thông Vận tải 
TPHCM, sinh viên sẽ được công nhận tốt nghiệp đại 
học nếu đạt 405 điểm TOEIC hoặc 4.0 điểm IELTS, 
thấp hơn 0.5 điểm so với chuẩn quy định theo khung 
tham chiếu. Tương tự, tại Đại học Cần Thơ, trừ 4 
chuyên ngành Sư phạm tiếng Anh, Việt Nam học 
(chuyên ngành Hướng dẫn viên du lịch), Kinh doanh 
quốc tế và Luật (chuyên ngành Luật thương mại) có 
mức yêu cầu trình độ Anh ngữ cao hơn, còn lại tất cả 
các ngành đều công nhận tốt nghiệp cho sinh viên có 
trình độ tiếng Anh bằng A quốc gia hoặc 350 điểm 
TOEIC, thấp hơn 100 điểm so với mức quy định. 
Theo Hương Lan (2008), trước thực trạng “loạn 
chuẩn” này, bà Trần Thị Hà, Vụ trưởng Vụ Giáo 
dục đại học cho biết, các trường cùng khối ngành 
phải phối hợp xây dựng chương trình chi tiết môn 
tiếng Anh theo chuẩn năng lực sử dụng tiếng Anh. Và 
chuẩn phải có tính thống nhất, chặt chẽ và xuyên suốt, 
đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu của cơ quan 
tuyển dụng lao động. 
4. THIẾT KẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO 
TIẾNG ANH DỰA TRÊN KHUNG QUY CHIẾU 
CEFR TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG 
VẬN TẢI
Từ năm học 2015-2016, nhằm thực hiện chỉ đạo 
của đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020, Trường Đại học 
Giao thông Vận tải đã tiến hành đổi mới chương trình 
đào tạo lấy khung quy chiếu trình độ chung châu Âu 
là nền tảng cho việc thiết kế chương trình. 
Trước thời điểm đổi mới chương trình, sinh viên 
toàn trường thường phải học 3 học phần tiếng Anh 
gồm tiếng Anh 1 (60 tiết/3 tín chỉ), tiếng Anh 2 (60 
tiết/3 tín chỉ) và tiếng Anh chuyên ngành (45 tiết hoặc 
60 tiết tùy từng chuyên ngành). Giáo trình tiếng Anh 
1 là cuốn giáo trình được nhà trường biên soạn ở trình 
độ Elementary (sơ cấp), giáo trình tiếng Anh 2 ở trình 
độ Pre-intermediate (trung cấp) và giáo trình chuyên 
ngành thường từ trình độ Pre-intermediate (trung cấp) 
trở lên. Sinh viên buộc phải học cả 3 học phần, không 
tính đến trình độ đầu vào của các em, dẫn đến tình 
trạng lớp có nhiều trình độ khác nhau, có những sinh 
viên học kém nhưng cũng có nhiều em khá tiếng Anh 
phải học lại từ trình độ cơ bản Elementary, dẫn đến 
tình trạng chán học. Giáo viên cũng gặp nhiều khó 
khăn khi giảng dạy những lớp sinh viên có trình độ 
chênh lệch nhau vì khó áp dụng những phương pháp 
giảng dạy phù hợp với những đối tượng như vậy.
Đề án đổi mới chương trình được sự tham gia xây 
dựng của tất cả các giảng viên tiếng Anh. Với cách tiếp 
cận xác định chuẩn năng lực cho từng học phần, từ đó 
xác định phương pháp giảng dạy, nội dung bài giảng 
và cách đánh giá, chương trình đào tạo được thiết kế 
theo các trình độ từ A1 đến B1 (bảng 2). Theo yêu 
cầu của chương trình mới, sinh viên khi vào trường 
phải tham gia thi sát hạch năng lực đầu vào. Bài thi 
sát hạch là dạng thi TOEIC Listening & Reading dạng 
trắc nghiệm khách quan thực hiện trong 2 giờ, gồm 
200 câu hỏi. Từ kết quả sát hạch này, Nhà trường thực 
hiện quy đổi điểm TOEIC sang khung trình độ chung 
châu Âu như trình độ A1, A2, B1. Sinh viên sau khi 
quy đổi đạt trình độ như thế nào sẽ được xếp lớp theo 
đúng trình độ của mình. Những sinh viên đạt điểm 
TOEIC tương đương B1 sẽ được miễn học tất cả các 
học phần A1, A2 và B1 và chỉ phải học học phần tiếng 
Anh chuyên ngành.
Cũng theo yêu cầu của đề án, sinh viên phải đạt 
điểm 5 ở các học phần trước thì mới được chuyển tiếp 
lên học ở các học phần tiếp theo. Những sinh viên 
không đạt sẽ phải học lại và thi lại để đạt. Chuẩn tiếng 
Anh đầu ra là 5 điểm học phần B1 và đạt điểm theo 
quy định của hệ thống tín chỉ với học phần tiếng Anh 
chuyên nghành. 
68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Về giáo trình sử dụng, nhà trường sử dụng bộ 
giáo trình được thiết kế dựa theo khung quy chiếu 
trình độ chung châu Âu, giáo trình Straightforward 
A1, Straightforward A2 và Straightforward B1 (Philip 
Ker, 2013). Đối với học phần tiếng Anh chuyên 
ngành, nhà trường giao việc biên soạn giáo trình tùy 
theo từng chuyên ngành cho các nhóm giảng viên dạy 
chuyên nghành cụ thể như chuyên ngành công trình, 
cơ khí, kinh tế, kỹ thuật viễn thông.... Tất cả các giáo 
trình chuyên ngành đều biên soạn từ trình độ B1. 
Về đề thi cho các học phần, các giảng viên dựa 
vào các tiêu chí đánh giá trình độ A1, A2 và B1 để 
thiết kế ra bộ đề thi để đánh giá theo trình độ. Đối 
với trình độ A2, việc thiết kế đề thi dựa trên bài thi 
KET (Cambridge ESOL) và trình độ B1 dựa trên đề 
thi PET (Cambridge ESOL).Nhà trường quyết định 
lấy đề thi B1 (PET) nhằm xác định chuẩn đầu ra vì nó 
đánh giá đầy đủ 4 kỹ năng, không giống đề thi TOEIC 
chỉ đánh giá 2 kỹ năng nghe và đọc. Cho đến nay, việc 
thực hiện chương trình đã thực hiện cho 2 khóa 55 và 
56 và có những ưu thế so với chương trình cũ như sau:
– Sinh viên được xếp lớp theo đúng trình độ, tránh 
tình trạng lớp nhiều trình độ chênh lệch.
– Sinh viên phải đạt học phần mới được chuyển 
tiếp lên học phần cao hơn, thúc đẩy động cơ học tập 
của sinh viên.
– Giáo trình phát triển 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và 
viết theo đúng khung quy chiếu châu Âu CEFR. 
– Đề thi có đủ 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết, 
bám sát khung quy chiếu CEFR, khác với chương 
trình cũ không kiểm tra kỹ năng nói.
Tuy vậy, đã có khá nhiều bất cập từ khâu xây dựng 
và thực hiện chương trình, cụ thể:
Áp dụng đề thi TOEIC sát hạch đầu vào
Việc sử dụng đề thi TOEIC Listening và Reading 
để sát hạch đầu vào và xếp lớp là do đề thi có dạng 
trắc nghiệm, dễ áp dụng cho hơn 1000 sinh viên năm 
thứ nhất, dễ chấm điểm và quy đổi sang khung tham 
chiếu CEFR. Tuy nhiên, vì đề thi chỉ đánh giá 2 kỹ 
năng nghe và đọc nên kết quả có phần nào phiến diện, 
chưa phản ảnh thực chất khả năng giao tiếp của sinh 
viên. Rất nhiều sinh viên được điểm cao ở kỳ thi sát 
hạch này, được chuyển điểm, miễn học và miễn thi 
các học phần A1, A2, B1 và chỉ phải học phần tiếng 
Anh chuyên ngành. Tuy vậy, khi ra trường khả năng 
giao tiếp của sinh viên khó đáp ứng được yêu cầu của 
thị trường lao động. 
Trình độ của sinh viên
Kể từ khi thực hiện sát hạch trình độ đầu vào của 
sinh viên trong năm học 2015-2016, trình độ ngoại 
ngữ của sinh viên của các trường khối kỹ thuật như 
Đại học Giao thông Vận tải rất kém. Khóa 55(80% 
sinh viên) và khóa 56 (76% sinh viên) phải học từ 
trình độ A1, trong khi đa phần các em đã học tiếng 
Anh từ tiểu học (lớp 3), tức là khoảng 10 năm học 
tiếng Anh. Điều này chứng tỏ chất lượng đào tạo 
ngoại ngữ ở bậc phổ thông thật sự là hồi chuông báo 
động cả xã hội. Sinh viên vào đại học đáng lý đã phải 
Bảng 2. Khung chương trình đào tạo tiếng Anh tại Đại học Giao thông Vận tải (từ năm học 2015-2016)
STT Trình độ Học phần Số tín chỉ Số tiết Thời điểm học
1 A1 Tiếng Anh A1 4 90 Năm thứ 1
2 A2 Tiếng Anh A2 4 90 Năm thứ 2
3 B1 Tiếng Anh B1 4 90 Năm thứ 3
4 B1+ Tiếng Anh chuyên ngành 3 60 Năm thứ 3

File đính kèm:

  • pdfap_dung_khung_quy_chieu_trinh_do_chung_chau_au_cefr_trong_xa.pdf