Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng
protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (Channa striata) giai đoạn 10
đến 40 ngày tuổi. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức, mỗi
nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Cá lóc (73,4±6,22 mg) được ương trong bể composite 35 lít
nước với mật độ 2 con/lít trong thời gian 30 ngày. Trong thí nghiệm này, thức ăn tương
ứng với 5 hàm lượng protein (30%, 35%, 40%, 45% và 50%) được thử nghiệm. Các chỉ
tiêu được ghi nhẫn gồm: tăng trưởng khối lượng, tỷ lệ sống, hệ số thức ăn và hiệu quả sử
dụng protein. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của cá không bị ảnh hưởng bởi hàm lượng
protein trong thức ăn. Tăng trưởng hàng ngày của cá nhanh nhất ở 45% protein và khác
biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức. Ngoài ra, chỉ số FCR đạt thấp nhất ở nghiệm thức cá
ăn thức ăn mức protein 45%. Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng protein cũng đạt cao nhất ở
nghiệm thức cá ăn thức ăn mức protein 45%. Như vậy, ương cá lóc giai đoạn cá 10 ngày
tuổi đến 40 ngày tuổi thì thức ăn chứa 45% protein lả thích hợp nhất.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 241 ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN CÓ HÀM LƯỢNG PROTEIN KHÁC NHAU LÊN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ LÓC (Channa striata) GIAI ĐOẠN 10 ĐẾN 40 NGÀY TUỔI Trần Ngọc Tuyền1* và Nguyễn Văn Triều2 1Khoa Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô 2Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ (*Email: tntuyen@tdu.edu.vn) Ngày nhận: 17/10/2020 Ngày phản biện: 19/11/2020 Ngày duyệt đăng: 20/02/2021 TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (Channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Cá lóc (73,4±6,22 mg) được ương trong bể composite 35 lít nước với mật độ 2 con/lít trong thời gian 30 ngày. Trong thí nghiệm này, thức ăn tương ứng với 5 hàm lượng protein (30%, 35%, 40%, 45% và 50%) được thử nghiệm. Các chỉ tiêu được ghi nhẫn gồm: tăng trưởng khối lượng, tỷ lệ sống, hệ số thức ăn và hiệu quả sử dụng protein. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của cá không bị ảnh hưởng bởi hàm lượng protein trong thức ăn. Tăng trưởng hàng ngày của cá nhanh nhất ở 45% protein và khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức. Ngoài ra, chỉ số FCR đạt thấp nhất ở nghiệm thức cá ăn thức ăn mức protein 45%. Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng protein cũng đạt cao nhất ở nghiệm thức cá ăn thức ăn mức protein 45%. Như vậy, ương cá lóc giai đoạn cá 10 ngày tuổi đến 40 ngày tuổi thì thức ăn chứa 45% protein lả thích hợp nhất. Từ khóa: Hàm lượng protein, tăng trưởng, thức ăn, tỷ lệ sống Trích dẫn: Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn Triều, 2021. Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (Channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 11: 241-251. *Ths. Trần Ngọc Tuyền – Giảng viên Khoa Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 242 1. GIỚI THIỆU Các lóc là một trong những loài cá đồng được đánh giá có giá trị kinh tế cao. Cá lóc có đặc điểm dễ nuôi, cá có khả năng chịu đựng tốt với điều kiện khắc nghiệt của môi trường và có giá trị dinh dưỡng cao. Cá lóc là loài ăn tạp, sử dụng được các phế phẩm nông nghiệp, chính những đặc điểm trên nên cá lóc đã trở thành đối tượng được nhiều người nuôi quan tâm (Dương Nhựt Long et al., 2014). Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì hiện nay nghề sản xuất và nuôi cá lóc cũng đang gặp phải một số khó khăn như: chất lượng con giống hàng năm chưa đảm bảo, chưa chủ động đáp ứng cho người nuôi; dịch bệnh ngày càng tăng; hệ thống ao nuôi chưa hoàn thiện, thiếu ao chứa, ao xử lý nước thải dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước, giá thức ăn tăng, hiệu quả ương nuôi còn thấp Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu về dinh dưỡng của cá lóc như: xác định nhu cầu duy trì, hiệu quả sử dụng protein và năng lượng (Ngô Minh Dung và Trần Thị Thanh Hiền, 2017); nghiên cứu khả năng tiêu hóa nguồn nguyên liệu protein của cá (Ngô Minh Dung và trần Thị Thanh Hiền, 2017); nghiên cứu sự biến đổi về hoạt tính enzyme tiêu hóa của ống tiêu hóa ở cá (Ngô Minh Dung và ctv., 2017) Tuy nhiên, chưa có tài liệu công bố về ảnh hưởng của hàm lượng protein khác nhau trong thức ăn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc giai đoạn cá bột lên giai đoạn cá hương. Trong hoạt động nuôi thủy sản, thức ăn chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi phí chung từ 50-80% (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2019), do đó việc nghiên cứu xác định thức ăn có hàm lượng protein phù hợp cho sự tăng trưởng, tỷ lệ sống của cá lóc là vấn đề rất cấp thiết. Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định thức ăn có hàm lượng protein phù hợp cho sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi. Từ các kết quả đạt được của đề sẽ tài góp phần bổ sung thêm một số thông tin kỹ thuật về ương cá lóc, đồng thời giúp người ương cá chủ động chọn loại thức ăn cho cá nhằm giảm chi phí đầu tư. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thực hiện tại trại sản xuất giống thủy sản phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Thí nghiệm được tiến hành trên hệ thống bể composite có thể tích 35 L/bể và được đặt trong nhà có mái che và sục khí liên tục. 2.1. Bố trí thí nghiệm Cá lóc dùng để thí nghiệm khoảng 10 ngày tuổi, khối lượng trung bình là 73,4±6,22 mg/con. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 05 nghiệm thức cho cá ăn với 5 loại thức ăn có mức protein khác nhau, mỗi nghiệm thức được lặp lại 03 lần. Cá được thả ương với mật độ 2 con/L trong thời gian 30 ngày. 2.2. Thức ăn thí nghiệm Thức ăn sử dụng trong suốt thời gian thực hiện thí nghiệm là thức ăn viên nổi cỡ 0,6 mm và chuyên dùng cho cá có vẩy. Thành phần hóa học của các loại thức ăn dùng để thí nghiệm được trình bày ở Bảng 1. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 243 Bảng 1. Thành phần hóa học của thức ăn dùng để ương cá lóc Thức ăn Tỷ lệ phần trăm (%) Protein Lipid Xơ Độ ẩm Loại 1: 30% protein 30 8,00 7,00 11,0 Loại 2: 35% protein 35 8,00 7,00 11,0 Loại 3: 40% protein 40 8,00 7,00 11,0 Loại 4: 45% protein 45 8,00 7,00 11,0 Loại 5: 50% protein 50 8,00 7,00 11,0 2.3. Chăm sóc và quản lý Cá được cho ăn thỏa mãn nhu cầu (khoảng 10-12 %/khối lượng thân/ngày) và cho ăn 4 lần trong ngày vào các thời điểm 7 giờ, 11 giờ, 15 giờ và 19 giờ. Thức ăn thừa được siphon sau khi cá ăn no ở mỗi lần cho ăn. Trong quá trình thí nghiệm, nước trong hệ thống bể ương cá được thay 1 lần/ngày vào mỗi buổi sáng và thay khoảng 1/3 thể tích nước trong mỗi bể. 2.4. Ghi nhận các kết quả Chỉ tiêu về môi trường: Các yếu tố ... ,13 g/ngày. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá tăng dần khi tăng khẩu phần thức ăn cho cá. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 246 Tốc độ tăng trưởng khối lượng tuyệt đối theo ngày của cá lóc dao động từ 0,20- 0,93 g/ngày và giá trị này khác biệt có ý nghĩa thống kên (p<0,05) giữa các nghiệm thức. Tương tự, ở một số loài cá khác ăn thiên về động vật như: cá lăng vàng (Mystus nemurus) (Khan et al., 1993); cá trê trắng (Clarias batrachus) (Meenakshi Jindal, 2011); cá kết (Micronema bleekeri) (Nguyễn Văn Triều và ctv., 2014) cũng đã khẳng định cá kết tăng trưởng chậm lại khi hàm lượng protein trong thức ăn trên 49%. Cá kết có khối lượng 269±28,9 mg được ương với các loại thức ăn có hàm lượng protein tăng dần 24%, 29%, 34%, 39%,44%, 49% và 54%. Kết quả, tăng trưởng khối lượng của cá tăng từ 16,3- 41,9 mg/ngày khi cá được cho ăn mức protein 24-49% nhưng tăng trưởng của cá chậm lại (20,5 mg/ngày) khi cá được cho ăn thức ăn chứa 54% protein. Khi sử dụng thức ăn với hàm lượng protein thấp chưa đáp ứng nhu cầu thì cá sẽ tăng trưởng chậm. Trái lại, cho cá ăn thức ăn chứa lượng protein cao vượt quá nhu cầu cần thiết, sẽ rất lãng phí (Lê Thanh Hùng, 2008). Hàm lượng protein trong thức ăn là yếu tố quyết định đến tốc độ tăng trưởng của cá, giá thành và hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất giống. Vì vậy, việc xác định được hàm lượng protein của cá ở các giai đoạn khác nhau và tối ưu hóa hàm lượng protein trong thức ăn của cá là yếu tố rất cần thiết. Nhu cầu protein được định nghĩa là lượng protein tối thiểu mà nhằm thỏa mãn các nhu cầu acid amin để đạt tăng trưởng tối đa (NRC, 1983). Cá lóc có đặc tính ăn tạp, thức ăn chủ yếu là động vật. Trong tự nhiên, cá trê ăn côn trùng, giun đất, tôm, cua, cá Ngoài ra, ở điều kiện nuôi trong ao, cá lóc có thể ăn các phụ phẩm từ trại chăn nuôi, nhà máy chế biến thủy sản, chất thải từ lò mổ (Dương Nhựt Long, 2004). Kết quả thí nghiệm ương cá lóc với các hàm lượng protein khác nhau cho thấy, hàm lượng protein phù hợp cho sự tăng trưởng của cá lóc là 45%. Nhu cầu protein trong thức ăn của cá thay đổi tùy theo loài, theo giai đoạn phát triển, đặc điểm dinh dưỡng của cá (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Một số loài cá khác có tập tính ăn động vật cũng có nhu cầu protein tương tự cá lóc, bao gồm: cá trê vàng Clarias macrocephalus) cỡ 18,1 mg là 40,0% (Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn Triều, 2017); cá kết (Micronema bleekeri) cỡ 269 mg là 43,2% (Trần Ngọc Tuyền, 2008) hoặc cá trê Heterobranchus longifilis là 45% (Olufeagba et al., 2002). Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 247 Bảng 4. Khối lượng trung bình và hệ số biến động CV của cá lóc Nghiệm thức (% protein) Khối lượng trung bình (mg) Độ lệch về khối lượng Hệ số CV NT1: 30 1.934 6,08 0,0031 NT2: 35 2.364 5,51 0,0023 NT3: 40 2.728 4,51 0,0017 NT4: 45 3.152 3,51 0,0011 NT5: 50 2.859 4,04 0,0014 (CV- Hệ số biến động: tỷ lệ giữa độ lệch và khối lượng của cá) Khối lượng của cá lúc kết thúc thí nghiệm (Bảng 4) dao động trong khoảng 1.934-3.152 mg/con và có sự khác biệt giữa 5 nghiệm thức. Cá đạt khối lượng thấp nhất ở nghiệm thức 30% protein và cao nhất ở nghiệm thức 45% protein. Hệ số biến động (CV) lớn nhất là 0,0031 ở nghiệm thức 30% protein và nhỏ nhất là 0,0011 ở nghiệm thức 45% protein. Kết quả này khẳng định khi ương cá lóc giai đoạn cá 10 ngày tuổi lên 40 ngày tuổi thì cá ít phân hóa khối lượng khi được sử dụng thức ăn chứa 45% protein. Tóm lại, khi ương cá lóc với thức ăn chứa hàm lượng protein khác nhau thì sự phân hóa sinh trưởng cũng khác nhau. Hàm lượng protein trong thức ăn đã ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của cá, hàm lượng protein thấp hoặc cao vượt quá nhu cầu thì cá phát triển càng chậm và cá phân hóa càng rõ ràng về khối lượng. 3.3. Tỷ lệ sống, hệ số tiêu tốn và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá lóc Tỷ lệ sống, hệ số tiêu tốn và hiệu quả sử dụng protein của cá lóc được trình bày ở Bảng 5. Bảng 5. Tỷ lệ sống, hệ số thức ăn và hiệu quả sử dụng protein của cá lóc Nghiệm thức (% protein) Tỷ lệ sống (SR,%) Hệ số thức ăn FCR Hiệu quả sử dụng protein (PER) NT1: 30 100±0,00a 1,69 ± 0,01e 62,0 ± 0,20a NT2: 35 100±0,00a 1,64 ± 0,02d 65,5 ± 0,16b NT3: 40 100±0,00a 1,56± 0,02c 66,4 ± 0,11c NT4: 45 100±0,00a 1,46 ± 0,01a 68,4 ± 0,08d NT5: 50 100±0,00a 1,50 ± 0,01b 61,9 ± 0,09a Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về thống kê (p<0,05). SR: Tỷ lệ sống; FCR: Hệ số thức ăn; PER: Hiệu quả sử dụng protein. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 248 Bảng 5 cho thấy tỷ lệ sống của cá ở cả 5 nghiệm thức đều đạt tối đa (100%). Kết quả khẳng định, hàm lượng protein trong thức ăn từ 30-50% không ảnh hưởng lên tỷ lệ sống của cá lóc. Theo Ngô Minh Dung và Trần Thị Thanh Hiền (2017), cá lóc có khả năng sống sót rất cao mặc dù bị bỏ đói trong một khoảng thời gian. Mặt khác, theo Nguyễn Thị Ngọc Lan (2004), tỷ lệ sống của cá lóc bông không bị ảnh hưởng bởi chế độ cho ăn. Theo Nguyễn Văn Triều và ctv., (2014), tỷ lệ sống của cá kết cũng không bị ảnh hưởng bởi hàm lượng protein trong thức ăn đã sử dụng. Ở nghiệm thức cá lóc sử dụng thức ăn 30% protein cho giá trị FCR cao nhất (1,69), hệ số FCR giảm dần theo sự tăng dần của hàm lượng protein trong thức ăn và đạt giá trị thấp nhất ở nghiệm thức 45% protein (1,46). Theo Tiêu Quốc Sang và ctv., (2013), khi nuôi cá lóc giai đoạn 60 ngày tuổi lên cá thương phẩm thì hệ số thức ăn của cá lóc dao động từ 1,21-1,68. Điều này cũng xảy ra tương tự trên các loài cá khác như: ở cá trê H. longifilis hệ số thức ăn giảm khi hàm lượng protein trong thức ăn tăng đến 40% thì hệ số thức ăn đạt 1,33 (Jamabo and Alfred-Ockiya, 2008; Otchoumou et al., 2011); ở cá trê (C. gariepinus) hệ số thức ăn là 1,28 khi cho cá ăn thức ăn 40% protein (Sotolu, 2010); ở cá trê vàng (C. macrocephalus) hệ số thức ăn là 1,32 khi cho cá ăn thức ăn 40% protein (Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn Triều, 2017). Theo Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn (2009), khi thức ăn được cung cấp có hàm lượng protein cao trong giới hạn cho phép sẽ giúp người nuôi sử dụng thức ăn có hiệu quả. Quá trình này cũng xảy ra đối với cá lóc, khi phân tích các chỉ tiêu WG, SGR và FCR cho thấy, ở nghiệm thức cá sử dụng 45% protein cho WG, SGR cao nhất và FCR thấp nhất. Mối quan hệ giữa hàm lượng protein trong thức ăn và hệ số thức ăn của nhóm cá ăn thiên về động vật đã được nhiều tác giả chứng minh: cá trê trắng (Clarias batrachus) (Meenakshi Jindal, 2011); cá trê phi H. longifilis (Jamabo and Alfred-Ockiya, 2008; Otchoumou et al., 2011) và cá trê C. gariepinus (Sotolu, 2010); cá trê vàng (Clarias microcephalus) (Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn Triều, 2017). Hiệu quả sử dụng protein (PER) không những thay đổi theo loại protein ăn vào mà còn thay đổi theo hàm lượng protein trong thức ăn. Theo Nguyễn Thị Ngọc Lan (2004), hiệu quả sử dụng protein ở cá lóc bông tăng khi hàm lượng protein trong thức ăn càng cao. Vấn đề này cũng được khẳng định trên cá lóc giống (Ngô Minh Dung và Trần Thị Thanh Hiền, 2017) và cá trê vàng (Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn Triều, 2017). Ở cá lóc giai đoạn 10 ngày tuổi, hiệu quả sử dụng protein tốt nhất ở nghiệm thức cá ăn thức ăn 45% protein với giá trị PER cao hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Tuy nhiên, nếu hàm lượng protein trong thức ăn quá cao thì sẽ dẫn đến thừa protein, cơ thể phải tốn năng lượng để tiêu hóa lượng protein thừa, làm cho tăng trưởng giảm, dẫn đến hiệu quả sử dụng protein cũng sẽ giảm. Kết Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 249 quả thí nghiệm ương cá lóc cho thấy, hiệu quả sử dụng protein thấp nhất ở nghiệm thức 50% protein (Bảng 5). Trong khi đó, ở nghiệm thức 45% protein tăng trọng bình quân của cá đạt cao nhất (3.079 mg/con) và hiệu quả sử dụng protein đạt giá trị tối ưu so với tất cả các nghiệm thức còn lại. 4. KẾT LUẬN Cá lóc 10 ngày tuổi, có khối lượng trung bình là 73,4±6,22 mg/con được ương trong cùng điều kiện thí nghiệm, thức ăn chứa 45% protein cho tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng lớn nhất, hệ số tiêu tốn thức ăn thấp nhất và hiệu quả sử dụng thức ăn đạt cao nhất. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dương Nhựt Long, 2004. Giáo trình kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt. Khoa Thủy sản-Trường Đại học Cần Thơ. 2. Dương Nhựt Long, Nguyễn Anh Tuấn và Lam Mỹ Lan, 2014. Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ. 3. Jamabo, N. A., F. J. Alfred - Ockiya, 2008. Effects of dietary protein levelson the growth performance of Heterobranchus bidorsalis (Geoffrey- Saint-Hillarie) fingerlings from Niger delta. Afr. J. Biotechnil. 7 (14): 2483- 2485. 4. Khan, M. S., J. K. Ang and A. M. Ambak, 1993. Optimum dietary protein requirement of a Malaysia freshwater catfish, Mystus nemurus. Aquaculture, Volume 112, Issue 2-3: 227-235. 5. Lê Thanh Hùng, 2008. Thức ăn và dinh dưỡng thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 6. Ngô Minh Dung Bùi Minh Tâm, Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Thị Long Châu, Phạm Thị Tú Nga, 2017. Nghiên cứu sự thay đổi hoạt tính một số enzyme tiêu hóa của cá lóc đen (Channa striata) từ giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi với thức ăn khác nhau. Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ. Tập 49. Trang 84-90. 7. Ngô Minh Dung và Trần Thị Thanh Hiền, 2017. Nhu cầu duy trì và hiệu quả sử dụng protein, năng lượng của cá lóc (Channa striata). Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ. Tập 53. Trang 1-9. 8. Ngô Minh Dung và Trần Thị Thanh Hiền, 2017. Phương pháp thu phân và khả năng tiêu hóa nguồn nguyên liệu protein của cá lóc (Channa striata). Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt Nam. Tập 81. Trang 114-120. 9. NRC National Research Council., 1983. Nutrient requirements of fish National Academy press. Washington. 114pp. 10. Nguyễn Phú Hòa, 2014. Chất lượng môi trường nước trong nuôi trồng thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 11. Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004. Nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến để ương nuôi cá lóc bông. Luận văn cao học ngành Nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 250 12. Nguyễn Văn Triều, Trần Ngọc Tuyền, Trần Thị Thanh Hiền, Dương Nhựt Long và Nguyễn Anh Tuấn. 2014. Xác định nhu cầu đạm của cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864) giai đoạn giống. Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ. Số chuyên đề thủy sản. Trang 229-235. 13. Otchoumou A. K., M. B. Célestin, A. E. Olivier, L. A. Yao, L. N. Sébastien and K. D. Jacques, 2011. Effects of increasing dietary protein levels on growth, feed utilization and body composition of Heterobranchus longifilis (Valenciennes, 1840) fingerlings. African Journal of Biotechnology Vol. 11(2), pp. 524-529. 14. Sotolu A.O., 2010. Effects of varying dietary protein levels on the breeding performance of Clarias geriepinus broodstock and fry growth rate. Livestock Research for Rural Development 22(4) 2010. 15. Tiêu Quốc Sang, Dương Nhựt Long và Lam Mỹ Lan, 2013. Ảnh hưởng của mật độ lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả tài chính của mô hình nuôi cá lóc (Channa striata) thương phẩm trong bể lót bạt. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ. Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ sinh học. 25 (2013):223-230. 16. Trần Ngọc Tuyền, 2008. Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng và thức ăn cho cá kết giai đoạn từ bột lên giống (Micronema bleekeri Gunther). Luận văn cao học ngành Nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cẩn Thơ. 17. Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn Triều, 2017. Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng đạm khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá Trê vàng (Clarias macrocephalus) giai đoạn cá bột lên cá giống (Tạp chí Nghiên cứu khoa học và phát triển kinh tế - ĐHTĐ. Số 02/2017). 18. Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009. Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 11 - 2021 251 EFFECT OF FEEDING DIFFERENT DIETARY PROTEIN LEVELS ON GROWTH AND SURVIVAL RATE OF SNAKEHEAD (Channa striata) FINGERLINGS OF 10 TO 40 DAY-OLD STAGE Tran Ngoc Tuyen1* and Nguyen Van Trieu2 1Faculty of Applied Biology, Tay Do University 2Faculty of Aquaculture & Fisheriesand, Can Tho University (*Email: tntuyen@tdu.edu.vn) ABSTRACT The study was conducted to evaluate the effect of protein levels in feeding on growth and survival rate of the snakehead (Channa striata) fingerlings of 10 to 40 day-old stage. The experiment was randomly set up with 5 treatments and 3 replications. The snakehead (73.4±6,22 mg) was nursed in the croncrete tanks (35L) with the density of 2 fish/L for the duration of 30 days. In this study, five different protein levels (30%, 35%, 40%, 45% and 50%). Survival rate, mean weight, FCR were observed in this study. The results showed that survival rate of fish was not affected by the protein content in food. Daily weigth growth of fish was highest at the protein of 45% and significantly different (p<0.05) from the other treatments. In addition, the lowest FCR was gained by feeding pellet feed of 45% protein. Besides, protein efficiency used was highest with feed protein level of 45%. Therefore, feed protein level was the most suitable for snakehead at 45% CP. Keyswords: Feed, growth, protein level, survival rate
File đính kèm:
- anh_huong_cua_thuc_an_co_ham_luong_protein_khac_nhau_len_tan.pdf