Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống

Bài báo này trình bày kết quả tỉ lệ sống (SR), tăng trưởng (DGR) và FCR nuôi tôm hùm bông Panulirus

ornatus từ puerulus lên kích cỡ 20 g/con bằng thức ăn được bổ sung các chất dẫn dụ và kết dính. Đối với

chất dẫn dụ, có bốn nghiệm thức gồm đối chứng (ĐC1); ĐC1 + 0,8% betaine (ĐB); ĐB + 0,8% glycine (ĐBG)

và ĐBG + 0,8% cao mực đen (ĐBGC). Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Sau 174 ngày, chất dẫn dụ đã ảnh

hưởng đến SR nhưng không ảnh hưởng đến DGR hoặc FCR. SR của tôm ở ĐB là cao nhất tiếp đến là ở

ĐBG, ĐC và ĐBGC trong đó sai khác giữa ĐB và ĐBGC là có ý nghĩa (p < 0,05). Kết quả cho thấy cao mực

đen đã làm giảm SR. Đối với chất kết dính, có bốn nghiệm thức gồm đối chứng (ĐC2); ĐC2 + 1,46%

tảo (ĐT); ĐT + 1,46% nustic (ĐTN) và ĐTN + 1,46% gelatin (ĐTNG). Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần.

Sau 172 ngày, chất bổ sung đã ảnh hưởng đến DGR và FCR nhưng không ảnh hưởng đến SR. DGR ở ĐT là

cao nhất, tiếp đến là ở ĐTN, ĐTNG và ĐC2 trong đó sai khác giữa ĐC2 và ĐT là có ý nghĩa (p < 0,05). FCR

ở ĐT là thấp nhất, tiếp đến là ĐC2 và ĐTNG và cao nhất là ở ĐTN trong đó sai khác giữa ĐTN và các

nghiệm thức còn lại là có ý nghĩa (p < 0,05). Kết quả nghiên cứu cho thấy bột tảo biển đã cải thiện DGR của

tôm, nustic làm tăng FCR trong khi đó gelatin làm giảm FCR. Kiến nghị sử dụng tảo biển, gelatin và betaine

làm thức ăn công nghiệp dạng viên nuôi tôm hùm bông giai đoạn puerulus.

Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống trang 1

Trang 1

Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống trang 2

Trang 2

Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống trang 3

Trang 3

Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống trang 4

Trang 4

Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống trang 5

Trang 5

Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống trang 6

Trang 6

Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 8680
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống

Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 88 
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT DẪN DỤ VÀ KẾT DÍNH 
TRONG THỨC ĂN ĐẾN TỈ LỆ SỐNG VÀ SINH TRƯỞNG 
CỦA TÔM HÙM BÔNG (Panulirus ornatus) 
TRONG GIAI ĐOẠN CON GIỐNG 
Mai Duy Minh1, Vũ Thị Bích Duyên1, Trần Thị Bích Thủy1 
TÓM TẮT 
Bài báo này trình bày kết quả tỉ lệ sống (SR), tăng trưởng (DGR) và FCR nuôi tôm hùm bông Panulirus 
ornatus từ puerulus lên kích cỡ 20 g/con bằng thức ăn được bổ sung các chất dẫn dụ và kết dính. Đối với 
chất dẫn dụ, có bốn nghiệm thức gồm đối chứng (ĐC1); ĐC1 + 0,8% betaine (ĐB); ĐB + 0,8% glycine (ĐBG) 
và ĐBG + 0,8% cao mực đen (ĐBGC). Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Sau 174 ngày, chất dẫn dụ đã ảnh 
hưởng đến SR nhưng không ảnh hưởng đến DGR hoặc FCR. SR của tôm ở ĐB là cao nhất tiếp đến là ở 
ĐBG, ĐC và ĐBGC trong đó sai khác giữa ĐB và ĐBGC là có ý nghĩa (p < 0,05). Kết quả cho thấy cao mực 
đen đã làm giảm SR. Đối với chất kết dính, có bốn nghiệm thức gồm đối chứng (ĐC2); ĐC2 + 1,46% 
tảo (ĐT); ĐT + 1,46% nustic (ĐTN) và ĐTN + 1,46% gelatin (ĐTNG). Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. 
Sau 172 ngày, chất bổ sung đã ảnh hưởng đến DGR và FCR nhưng không ảnh hưởng đến SR. DGR ở ĐT là 
cao nhất, tiếp đến là ở ĐTN, ĐTNG và ĐC2 trong đó sai khác giữa ĐC2 và ĐT là có ý nghĩa (p < 0,05). FCR 
ở ĐT là thấp nhất, tiếp đến là ĐC2 và ĐTNG và cao nhất là ở ĐTN trong đó sai khác giữa ĐTN và các 
nghiệm thức còn lại là có ý nghĩa (p < 0,05). Kết quả nghiên cứu cho thấy bột tảo biển đã cải thiện DGR của 
tôm, nustic làm tăng FCR trong khi đó gelatin làm giảm FCR. Kiến nghị sử dụng tảo biển, gelatin và betaine 
làm thức ăn công nghiệp dạng viên nuôi tôm hùm bông giai đoạn puerulus. 
Từ khóa: Dẫn dụ, kết dính, tôm hùm bông, tăng trưởng, tỷ lệ sống. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ3 
Tôm hùm bông Panulirus ornatus là đối tượng 
nuôi trọng điểm ở Việt Nam bằng hình thức nuôi 
lồng biển (Mai Duy Minh và ctv., 2016) và có xu 
hướng phát triển nuôi trong bể tái sử dụng nước 
(RAS) do chúng có tiềm năng nuôi thâm canh 
(Philipp & Masuda, 2011). Hiệu quả nuôi trong RAS 
phụ thuộc vào khả năng phát triển công thức thức ăn 
phù hợp và quy trình sản xuất, bảo quản viên thức 
ăn. Thức ăn nuôi tôm hùm bông đã được nghiên cứu 
và ứng dụng trong lồng biển (Lại Văn Hùng & Phạm 
Đức Hùng, 2010) và trong bể (Smith et al., 2005; 
Nguyễn Cơ Thạch và ctv., 2014; Mai Duy Minh và 
ctv., 2019). Công thức thức ăn cho một đối tượng 
nuôi gồm các thành phần dinh dưỡng, chức năng, 
chất dẫn dụ, chất kết dính và các phụ gia khác. Các 
thành phần có tính dẫn dụ đã được nghiên cứu trên 
tôm hùm Jasus edwardsii là glycine (Sheppard et al., 
2002), glycine, taurine (Tolomei et al., 2003), betaine 
và glycine (Johnston, 2006) nhưng chưa được sử 
1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III 
Email: minhmaiduy@yahoo.com 
dụng cho tôm hùm bông. Về chất kết dính, gluten 
cho hiệu quả tốt hơn so với nutribind trong thức ăn 
viên nuôi tôm hùm bông (Lại Văn Hùng và ctv., 
2014). Các thành phần khác đang được dùng làm 
chất kết dính trong thức ăn thủy sản là agar, sodium 
alginate, gelatin, bột tảo (kelp meal), tinh bột 
(Arguello-guevara & Molina‐Poveda, 2012) nhưng 
chưa được kiểm chứng trong tôm hùm bông. Chất 
dẫn dụ là thành phần giúp đối tượng nuôi nhận biết 
nhanh thức ăn và ảnh hưởng tới mức độ tiêu thụ thức 
ăn của chúng trong khi đó chất kết dính là thành 
phần chi phối đặc điểm lý học (Rosas et al., 2008) và 
chất lượng sinh học của viên thức ăn (Pearce et al., 
2002). Theo William et al. (2007) thức ăn viên cho 
vào bể thường được tôm hùm ăn trong 1-2 giờ rồi 
dừng lại thay vì ăn trong 10-12 giờ như đối với thức 
ăn vẹm tươi, do mức độ hấp dẫn và tính ổn định của 
viên thức ăn chưa cao. Vì vậy cần nghiên cứu, xác 
định các chất dẫn dụ và kết dính phù hợp để phát 
triển thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm bông. 
Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của 
các chất dẫn dụ, chất kết dính trong thức ăn công 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 89 
nghiệp dạng viên lên sinh trưởng, tỷ lệ sống của tôm 
hùm bông giai đoạn puerulus đến 20 g/con. 
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Hệ thống nuôi thí nghiệm 
Hình 1. Sơ đồ RAS thí nghiệm ương tôm hùm bông 
Thí nghiệm nuôi tôm hùm bông trong hệ thống 
bể tuần hoàn nước (RAS) tại Trung tâm Quốc gia 
giống hải sản miền Trung, thuộc Viện Nghiên cứu 
Nuôi trồng thủy sản III trong thời gian từ tháng 1 đến 
tháng 6 năm 2019. RAS gồm có bể nuôi tôm, bể lắng 
chất thải hình tròn đường kính 8 m, bể lọc sinh học 3 
ngăn kế tiếp có thể tích lọc 12 m3, bể chứa nước sau 
xử lý thể tích 25 m3, thiết bị ổn nhiệt độ nước, máy 
bơm, đèn cực tím, máy thổi khí. Trong các bể nuôi có 
đặt khung lưới theo chiều thẳng đứng của cột nước 
để tôm trú ẩn và sục khí cung cấp ô xy. RAS tương tự 
như hệ thống đã được mô tả trong Mai Duy Minh & 
Phạm Thị Hạnh (2018) và được minh họa như sơ đồ 
hình 1. Nước biển tự nhiên vào những ngày nắng ấm, 
được bơm vào bể chứa, xử lý bằng chlorine 20 ppm, 
sục khí trong 3 đến 4 ngày. Trung hòa chlorine tồn 
dư bằng natri thiosunfat vừa đủ, lọc qua bể lọc tinh, 
trước khi cấp vào hệ thống nuôi. Trong RAS, nước từ 
bể nuôi tôm chảy vào bể lắng, qua bể lọc sinh học, 
sau đó sang bể chứa trước khi được bơm xuyên qua 
đèn UV trở về các bể nuôi tôm. 
2.2. Tôm giống thí nghiệm 
Sử dụng tôm hùm bông giai đoạn puerulus có 
sắc tố (P2), được khai thác từ vùng biển ven bờ Nha 
Trang, Khánh Hòa. Tôm có khối lượng 0,29-0,32 
g/con, được thuần dưỡng làm quen với thức ăn viên 
trong tuần đầu. Các cá thể tôm trải qua lột xác, có 
đầy đủ phần phụ, không biểu hiện bệnh sữa, đỏ thân, 
đen bụng qua quan sát bằng mắt thường được sử 
dụng làm thí nghiệm. 
2.3. Thức ăn công nghiệp dạng viên 
Thức ăn công nghiệp (hỗn hợp) dạng viên gồm 8 
công thức khác nhau được xây dựng trên công thức 
đã sử dụng cho tôm hùm bông giống (Mai Duy Minh 
& Vũ Thị Bích Duyên, 2019) bổ sung thêm d ...  Trong một 
nghiên cứu trước đây, bổ sung betaine và glycine 
hàm lượng 1,5% đã hấp dẫn ấu trùng tôm hùm hơn so 
với taurine (Johnston, 2006) và betaine cũng cho kết 
quả tốt khi bổ sung vào thức ăn tôm sú ở hàm lượng 
0,5% (Penaflorida & Virtenen, 1996). Các dẫn liệu cho 
thấy bổ sung betaine vào thức ăn có khả năng cải 
tiến sinh trưởng của tôm hùm bông. Các chỉ tiêu SR, 
DGR và FCR giữa nghiệm thức không có và có 
glycine (ĐB và ĐBG) tương tự như nhau cho thấy 
không có ảnh hưởng của glycine khi bổ sung chúng 
vào thức ăn mặc dù trong nghiên cứu trước đây, 
glycine ở mức 1,5% đã gia tăng tính hấp dẫn của thức 
ăn với ấu trùng tôm hùm (Johnston, 2006). Điều này 
cho thấy vai trò chất dẫn dụ phụ thuộc vào từng loài 
tôm hùm nghiên cứu. Cao mực đang được dùng rộng 
rãi để gia tăng tính hấp dẫn của thức ăn thủy sản. 
Tuy nhiên trong nghiên cứu này, tỉ lệ sống của tôm ở 
nghiệm thức không có cao mực (ĐBG) cao hơn có ý 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 92 
nghĩa, DGR cao hơn không có ý nghĩa so với ở 
nghiệm thức có bổ sung 0,8% cao mực (ĐBGC). Kết 
quả nghiên cứu cho thấy bổ sung cao mực ở hàm 
lượng 0,8% đã hạn chế sinh trưởng của tôm hùm 
bông. Từ kết quả thu được trong thí nghiệm này đề 
nghị sử dụng betaine nhưng không sử dụng cao mực 
bổ sung vào thức ăn của tôm hùm bông. 
3.2. Ảnh hưởng của chất kết dính lên sinh 
trưởng của tôm hùm 
Kết quả nuôi tôm hùm bông giai đoạn puerulus 
bằng 4 loại thức ăn có bổ sung các thành phần kết 
dính khác nhau được trình bày trong bảng 4. Các 
thành phần bổ sung đã ảnh hưởng đến tăng trưởng 
về khối lượng của tôm và FCR nhưng không ảnh 
hưởng đến tỉ lệ sống của chúng. Chỉ số tăng trọng 
Wg (g/con) và DGR (%/ngày) ở nghiệm thức bổ 
sung bột tảo ĐT là cao nhất, tiếp đến là các nghiệm 
thức bổ sung tảo và nustic (ĐTN) và bổ sung tảo, 
nustic và gelatin (ĐTNG) và thấp nhất là nghiệm 
thức không có thành phần bổ sung (ĐC2). Sai khác 
về hai chỉ tiêu này giữa nghiệm thức đối chứng ĐC2 
và bổ sung tảo ĐT là có ý nghĩa (p < 0,05) còn các sai 
khác giữa các nghiệm thức còn lại là không có ý 
nghĩa (p > 0,05). Tỉ lệ sống SR (%) của tôm trong bốn 
nghiệm thức dao động trong khoảng 70,83 - 74,17% 
và sai khác là không có ý nghĩa (p > 0,05). FCR ở 
nghiệm thức ĐT là thấp nhất (2,55), tiếp đến là các 
nghiệm thức ĐC2 và ĐTNG và cao nhất là ở nghiệm 
thức ĐTN (2,79). Sai khác về FCR giữa nghiệm thức 
ĐTN và các nghiệm thức còn lại là có ý nghĩa (p < 
0,05) còn các sai khác giữa các nghiệm thức còn lại là 
không có ý nghĩa (p > 0,05). 
Bảng 4. Tăng trưởng của tôm hùm bông Puerulus nuôi bằng 4 loại thức ăn có thành phần kết dính bổ sung 
khác nhau 
Thông số ĐC2 (đối chứng) ĐT (ĐC2 + tảo) 
ĐTN 
(ĐT + nustic) 
ĐTNG 
(ĐTN + gelatin) 
Ws (g) 0,29 ± 0,01 0,29 ± 0,01 0,29 ±0,01 0,29 ± 0,01 
Wg (g/con) 19,48 ± 2,02a 23,15 ± 2,01b 22,19 ± 1,72ab 22,42 ± 1,64ab 
DGR (%/ngày) 2,45 ± 0,07a 2,55 ± 0,05b 2,53 ± 0,05ab 2,54 ± 0,05ab 
SR (%) 74,17 ± 5,69 73,33 ± 6,09 74,17 ± 3,19 70,83 ± 7,39 
FCR (g:g) 2,56 ± 0,14a 2,55 ± 0,11a 2,79 ± 0,16b 2,58 ± 0,07a 
Chữ mũ (a, b) khác nhau trong một hàng chỉ sai khác có ý nghĩa (p < 0,05). 
Kết quả so sánh giữa nghiệm thức đối chứng và 
có bổ sung tảo cho thấy không có sai khác về tỉ lệ 
sống của tôm và FCR nhưng có sự sai khác về tăng 
trưởng khối lượng tôm. Điều này cho thấy bột tảo 
biển có vai trò như một thành phần dinh dưỡng giúp 
cải thiện tăng trưởng của tôm hùm như đã được nhận 
định trước đó. Rong biển thường được tìm thấy trong 
dạ dày tôm hùm (Cox & Johnston, 2003; Goes & 
Lins-Oliveira, 2009) ngay cả ở môi trường sinh thái 
hiếm rong khẳng định đây là nguồn thức ăn thiết yếu 
để cung cấp nguồn dinh dưỡng quan trọng (Elner & 
Campell, 1987). Rong biển và vi tảo biển chính là 
nguồn thay thế cho protein động vật đắt tiền trong 
tạo thức ăn nuôi tôm hùm khi đánh giá so sánh tốc 
độ tăng trưởng (Syslo & Hugh, 1981) và vai trò của 
chúng được nhận định là cung cấp nguồn can xi cho 
tôm hùm (Joll & Phillip, 1984). Tuy vậy kết quả trong 
bảng 4 đã không cho thấy vai trò của bột vi tảo biển 
như một chất kết dính để giúp tăng tính ổn định viên 
thức ăn trong nước qua đó giảm thiểu FCR. Trong 
khi đó các thành phần có nguồn gốc từ rong, tảo biển 
như alginate, agar hoặc bột tảo là các nguyên liệu có 
khả năng kết dính và được dùng nhiều trong thức ăn 
thủy sản (Arguello-guevara et al., 2012). 
So sánh kết quả giữa các nghiệm thức lần lượt 
được bổ sung tảo, nustic và gelatin trong bảng 4 cho 
thấy việc bổ sung nustic hoặc gelatin đã không đem 
đến sự khác biệt về tỉ lệ sống hoặc tăng trưởng của 
tôm. Tuy vậy ở nghiệm thức bổ sung nustic (ĐTN) 
có FCR ở mức 2,79 là cao nhất và cao hơn so với ở 
các nghiệm thức còn lại và sai khác này là có ý nghĩa. 
Trong khi đó FCR ở nghiệm thức bổ sung thêm 
gelatin (ĐTNG) là 2,58 đã giảm đi so với ở ĐTN và 
sai khác là có ý nghĩa. Như vậy nustic đã làm giảm 
tính bền, ổn định của viên thức ăn của tôm hùm 
trong khi đó gelatin có xu hướng ngược lại thể hiện 
qua khác biệt về FCR. Gelatin đã được nghiên cứu sử 
dụng trong thức ăn bán ẩm của tôm hùm (Castel & 
Budson, 1974) và hiệu quả kết dính thức ăn tôm càng 
xanh của gelatin là tương tự như agar nhưng thấp 
hơn so với carageanan hoặc CMC (Ruscoe et al., 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 93 
2005). Các dẫn liệu này cho thấy gelatin có tiềm năng 
sử dụng làm chất kết dính trong thức ăn tôm hùm. 
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Khi bổ sung vào thức ăn viên nuôi tôm hùm 
bông puerulus ở mức 0,8%, cao mực đã làm giảm tỉ lệ 
sống, betaine đã gia tăng tỉ lệ sống nhưng chưa rõ 
ràng còn glycine không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của 
tôm. Ba thành phần đều không ảnh hưởng đến tăng 
trưởng của tôm hoặc FCR. 
Khi bổ sung vào thức ăn viên nuôi tôm hùm 
bông puerulus ở mức 1,46%, bột tảo biển đã cải thiện 
tăng trưởng của tôm, nustic làm tăng FCR trong khi 
gelatin làm giảm FCR nhưng không ảnh hưởng đến tỉ 
lệ sống của tôm. 
Kiến nghị sử dụng tảo biển, gelatin và betaine 
trong thức ăn công nghiệp dạng viên nuôi tôm hùm 
bông giai đoạn puerulus đến 20 g/con. 
LỜI CẢM ƠN 
Bài báo này sử dụng các số liệu của đề tài: 
“Nghiên cứu sản xuất thức ăn công nghiệp ương nuôi 
tôm hùm (Panulirus ornatus) giai đoạn ấu trùng 
puerulus đến con giống 20 g/con”. Tác giả xin gửi lời 
cảm ơn tới Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; 
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III đã cấp kinh 
phí và tạo điều kiện để hoàn thiện bài báo này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lại Văn Hùng & Phạm Đức Hùng, 2010. Ảnh 
hưởng của hàm lượng protein và lipid trong thức ăn 
công nghiệp đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của tôm 
hùm bông (P. ornatus) giai đoạn nuôi thương phẩm. 
Tạp chí Khoa học – Công nghệ thủy sản số 3: 3-10. 
2. Lại Văn Hùng và ctv, 2014. Hoàn thiện công 
nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm 
bông (P. ornatus) và tôm hùm xanh (P. homarus). 
Mã số dự án: KC.06.DA05/11-15. Báo cáo tổng kết dự 
án. Bộ Khoa học và Công nghệ. 
3. Lê Anh Tuấn & Mai Duy Minh, 2019. Nhu 
cầu lipid và HUFA của tôm hùm bông giống. Tạp chí 
Khoa học và Công nghệ Thủy sản - Đại học Nha 
Trang. 
4. Mai Duy Minh, Phạm Trường Giang, Lê Văn 
Chí, Tống Phước Hoàng Sơn, Nguyễn Việt Nam, 
2016. Quy hoạch phát triển nuôi tôm hùm miền 
Trung. Báo cáo tư vấn. Tổng cục Thủy sản. 120 
trang. Truy cập online. 
5. Mai Duy Minh & Phạm Thị Hạnh, 2018. Ảnh 
hưởng của thức ăn đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của 
tôm hùm bông (P. ornatus) nuôi thương phẩm trong 
bể. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 
1(9): 116-123. 
6. Mai Duy Minh & Vũ Thị Bích Duyên, 2019. 
Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác 
nhau đến tôm hùm bông (P. ornatus) giai đoạn con 
giống. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 
17: 62-68. 
7. Mai Duy Minh, Nguyễn Đức Cự, Lê Anh 
Tuấn, Vũ Thị Bích Duyên, Trần Thị Bích Thủy, Mai 
Duy Hảo, Nguyễn Minh Hường, Nguyễn Hoàng 
Uyên và Nguyễn Thị Thúy Thủy, 2019. Nghiên cứu 
công nghệ nuôi thâm canh tôm hùm thương phẩm 
bằng thức ăn công nghiệp trong hệ thống tuần hoàn. 
Báo cáo tổng kết. Đề tài cấp Bộ. Bộ Nông nghiệp và 
Phát triển nông thôn. 110 trang. 
8. Nguyễn Cơ Thạch và ctv, 2013. Nghiên cứu 
xây dựng quy trình công nghệ nuôi tôm hùm bông 
(Panulirus ornatus) trong hệ thống bể đạt năng suất 
5 kg/m2. Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ. Bộ Nông 
nghiệp và PTNT. 
9. Argüello‐Guevara W. & C. Molina‐Poveda, 
2012. Effect of binder type and concentration on 
prepared feed stability, feed ingestion and 
digestibility of Litopenaeus vannamei broodstock 
diets. Aquaculture nutrition, 19 (4): 515 -522. 
10. Castel J. D. & S. D. Budson, 1974. Lobster 
nutrition: the effect on Homarus americatus of 
dietary protein level. J. fish Re. board Canada, 31: 
1363-1370. 
11. Cox, S. L. & Johnston, D. J., 2003. Feeding 
biology of spiny lobster larvae and implications for 
culture. Rev. Fish. Sci., 11, 89–106. 
12. Elner R. W. & A. Campbell, 1987. Natural 
diets of lobster Homarus americanus from barren 
ground and macroalgal habitats off southwestern 
Nova Scotia, Canada. INE Ecology - Progress Series. 
Mar. Ecol. Prog. Ser. 37: 131-140. 
13. Goes CA. A & Lins-Oliveira, JE, 2009. 
Natural diet of the spiny lobster, P. echinatus Smith, 
1869 (Crustacea: Decapoda: Palinuridae), from São 
Pedro and São Paulo Archipelago, Brazil Góes,. Braz. 
J. Biol., 69(1): 143-148. 
14. Joll, L. M & Phillips, B. F. (1984). Natural 
diet and growth of juvenile western rock lobsters P. 
cygnus George. J. exp. mar. Biol. Ecol. 75: 145-169. 
15. Johnston, M. D., 2006. Feeding and digestion 
in the Phyllosoma larvae of Ornate spiny lobster, P. 
ornatus (Fabricius) and the implications for their 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 94 
culture. PhD thesis, the University of Western 
Australia. 
16. Pearce, C. M., Daggett, T. L. & Robinson, S. 
M. C., 2002. Effect of binder type and concentration 
on prepared feed stability and gonad yield and 
quality of the green sea urchin, Strongylocentrotus 
droebachiensis. Aquaculture, 205(3–4): 301–323. 
17. Peñaflorida, V. D. & Virtanen, E., 1996. 
Growth, survival and feed conversion of juvenile 
shrimp (Penaeus monodon) fed a betaine/amino 
acid additive. The Israeli Journal of Aquaculture-
Bamidgeh, 48(1), 3-9. 
18. Phillips, B., Matsuda, H., 2011. A Global 
Review of Spiny Lobster Aquaculture. Recent 
Advances and New Species in Aquaculture. Vol. 1. 
pp. 22–84. 
19. Rosas, C., Tut, J., Baeza, J., Sanchez, A., 
Sosa, V., Pascual, C., Arena, L., Domingues, P & 
Cuzon, G., 2008. Effect of type of binder on growth, 
digestibility, and energetic balance of Octopus maya. 
Aquaculture, 275(1–4): 291–297. 
20. Ruscoe, I. M., Clive Jones, P. L. JONES, 
Peter Caley, 2005. The effects of various binders and 
moisture content on pellet stability of research diet 
for freshwater crayfish. Aquaculture Nutrition 
11(2):87 – 93. 
21. Sheppard, J. K., Bruce, M. P., Jeffs, A. G., 
2002. Optimal feed pellet size for culturing juvenile 
spiny lobster Jasus edwardsii (Hutton, 1875) in New 
Zealand. Aquac. Res. 33, 913–916. 
22. Smith, D. M., Williams, K. C., Irvin, S. J., 
2005. Response of the tropical spiny lobster 
Panulirus ornatus to protein content of pelleted feed 
and to a diet of mussel flesh. Aquac. Nutr. 11, 209–
217. 
23. Syslo, M,, Hughes, J. T. (1981). Vegetable 
matter in lobster (Homarus americanus) diets 
(Decapoda, Astacidae). Crustaceana 41: 10-13. 
24. Tolomei, A., Crear B. & Johnston, 2003. Diet 
immersion time: Effects on growth, survival and 
feeding behaviour of juvenile southern rock lobsters 
Jasus edwardsii. Aquaculture, 219: 303-316. 
25. Williams K. C., 2007. Nutritional 
requirements and feeds development for post-larval 
spiny lobster: A review. Aquaculture, 263: 1–14. 
EFFECT OF ATTRACTANTS AND BINDERS IN FORMULATED FEED ON SURVIVAL AND GROWTH 
OF SPINY LOBSTER PUERULII Panulirus ornatus 
Mai Duy Minh1, Vu Thi Bich Duyen1, Tran Thi Bich Thuy1 
1Research Institute for Aquaculture No3 
Email: minhmaiduy@yahoo.com 
Summary 
This paper represents the results in growth rate (DGR), survival rate (SR) and feed conversion rate (FCR) 
of Panulirus ornatus lobster puerulus to juveniles at average size of 20 g fed with formulated feeds 
suplemented by different attractants and binders. For attractants, four treatments were a control (DC1); 
DC1 + 0.8% betaine (DB); DB + 0.8% glycine (DBG) and DBG + 0.8% black cuttlefish glue (DBGC). Each 
treatment had four replicates. After 174 days, the atractants affected SR but did not affect DGR nor FCR. SR 
of lobsters was highest in DB followed by in DBG, DC and DBGC and the difference between DB and 
DBGC was statistically significant (p < 0.05). The results indicate that black cuttlefish glue decreased SR, 
betaine increased SR unclearly. For binders, four treatments were a control (DC2); DC2 + 1.46% microalgae 
powder (DT); DT + 1.46% nustic (DTN) and DTN + 1.46% gelatin (DTNG). Each treatment had four 
replicates. After 172 days, the suplements affected DGR and FCR but did not affect SR. DGR was highest in 
DT folowed by in DTN, DTNG and DC2 and the difference between DC2 and DT was statistically 
significant (p < 0.05). FCR was lowest in DT followed by in DC2 and DTNG and DTN and the difference 
between DTN and the other treatments was statistically significant (p < 0.05). The results indicate that 
microalgae powder improved SR, nustic increased FCR while gelatin decreased FCR. It is suggested to use 
microalgae powder, gelatin and betaine in formulated feed for lobster puerulii. 
Keywords: Attractants, binder, growth, lobsters, Panulirus. 
Người phản biện: TS. Thái Thanh Bình 
Ngày nhận bài: 13/4/2020 
Ngày thông qua phản biện: 14/5/2020 
Ngày duyệt đăng: 21/5/2020 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_chat_dan_du_va_ket_dinh_trong_thuc_an_den_ti_l.pdf