Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống
Bài báo này trình bày kết quả tỉ lệ sống (SR), tăng trưởng (DGR) và FCR nuôi tôm hùm bông Panulirus
ornatus từ puerulus lên kích cỡ 20 g/con bằng thức ăn được bổ sung các chất dẫn dụ và kết dính. Đối với
chất dẫn dụ, có bốn nghiệm thức gồm đối chứng (ĐC1); ĐC1 + 0,8% betaine (ĐB); ĐB + 0,8% glycine (ĐBG)
và ĐBG + 0,8% cao mực đen (ĐBGC). Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Sau 174 ngày, chất dẫn dụ đã ảnh
hưởng đến SR nhưng không ảnh hưởng đến DGR hoặc FCR. SR của tôm ở ĐB là cao nhất tiếp đến là ở
ĐBG, ĐC và ĐBGC trong đó sai khác giữa ĐB và ĐBGC là có ý nghĩa (p < 0,05). Kết quả cho thấy cao mực
đen đã làm giảm SR. Đối với chất kết dính, có bốn nghiệm thức gồm đối chứng (ĐC2); ĐC2 + 1,46%
tảo (ĐT); ĐT + 1,46% nustic (ĐTN) và ĐTN + 1,46% gelatin (ĐTNG). Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần.
Sau 172 ngày, chất bổ sung đã ảnh hưởng đến DGR và FCR nhưng không ảnh hưởng đến SR. DGR ở ĐT là
cao nhất, tiếp đến là ở ĐTN, ĐTNG và ĐC2 trong đó sai khác giữa ĐC2 và ĐT là có ý nghĩa (p < 0,05). FCR
ở ĐT là thấp nhất, tiếp đến là ĐC2 và ĐTNG và cao nhất là ở ĐTN trong đó sai khác giữa ĐTN và các
nghiệm thức còn lại là có ý nghĩa (p < 0,05). Kết quả nghiên cứu cho thấy bột tảo biển đã cải thiện DGR của
tôm, nustic làm tăng FCR trong khi đó gelatin làm giảm FCR. Kiến nghị sử dụng tảo biển, gelatin và betaine
làm thức ăn công nghiệp dạng viên nuôi tôm hùm bông giai đoạn puerulus.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của chất dẫn dụ và kết dính trong thức ăn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm hùm bông (panulirus ornatus) trong giai đoạn con giống
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 88 ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT DẪN DỤ VÀ KẾT DÍNH TRONG THỨC ĂN ĐẾN TỈ LỆ SỐNG VÀ SINH TRƯỞNG CỦA TÔM HÙM BÔNG (Panulirus ornatus) TRONG GIAI ĐOẠN CON GIỐNG Mai Duy Minh1, Vũ Thị Bích Duyên1, Trần Thị Bích Thủy1 TÓM TẮT Bài báo này trình bày kết quả tỉ lệ sống (SR), tăng trưởng (DGR) và FCR nuôi tôm hùm bông Panulirus ornatus từ puerulus lên kích cỡ 20 g/con bằng thức ăn được bổ sung các chất dẫn dụ và kết dính. Đối với chất dẫn dụ, có bốn nghiệm thức gồm đối chứng (ĐC1); ĐC1 + 0,8% betaine (ĐB); ĐB + 0,8% glycine (ĐBG) và ĐBG + 0,8% cao mực đen (ĐBGC). Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Sau 174 ngày, chất dẫn dụ đã ảnh hưởng đến SR nhưng không ảnh hưởng đến DGR hoặc FCR. SR của tôm ở ĐB là cao nhất tiếp đến là ở ĐBG, ĐC và ĐBGC trong đó sai khác giữa ĐB và ĐBGC là có ý nghĩa (p < 0,05). Kết quả cho thấy cao mực đen đã làm giảm SR. Đối với chất kết dính, có bốn nghiệm thức gồm đối chứng (ĐC2); ĐC2 + 1,46% tảo (ĐT); ĐT + 1,46% nustic (ĐTN) và ĐTN + 1,46% gelatin (ĐTNG). Mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Sau 172 ngày, chất bổ sung đã ảnh hưởng đến DGR và FCR nhưng không ảnh hưởng đến SR. DGR ở ĐT là cao nhất, tiếp đến là ở ĐTN, ĐTNG và ĐC2 trong đó sai khác giữa ĐC2 và ĐT là có ý nghĩa (p < 0,05). FCR ở ĐT là thấp nhất, tiếp đến là ĐC2 và ĐTNG và cao nhất là ở ĐTN trong đó sai khác giữa ĐTN và các nghiệm thức còn lại là có ý nghĩa (p < 0,05). Kết quả nghiên cứu cho thấy bột tảo biển đã cải thiện DGR của tôm, nustic làm tăng FCR trong khi đó gelatin làm giảm FCR. Kiến nghị sử dụng tảo biển, gelatin và betaine làm thức ăn công nghiệp dạng viên nuôi tôm hùm bông giai đoạn puerulus. Từ khóa: Dẫn dụ, kết dính, tôm hùm bông, tăng trưởng, tỷ lệ sống. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ3 Tôm hùm bông Panulirus ornatus là đối tượng nuôi trọng điểm ở Việt Nam bằng hình thức nuôi lồng biển (Mai Duy Minh và ctv., 2016) và có xu hướng phát triển nuôi trong bể tái sử dụng nước (RAS) do chúng có tiềm năng nuôi thâm canh (Philipp & Masuda, 2011). Hiệu quả nuôi trong RAS phụ thuộc vào khả năng phát triển công thức thức ăn phù hợp và quy trình sản xuất, bảo quản viên thức ăn. Thức ăn nuôi tôm hùm bông đã được nghiên cứu và ứng dụng trong lồng biển (Lại Văn Hùng & Phạm Đức Hùng, 2010) và trong bể (Smith et al., 2005; Nguyễn Cơ Thạch và ctv., 2014; Mai Duy Minh và ctv., 2019). Công thức thức ăn cho một đối tượng nuôi gồm các thành phần dinh dưỡng, chức năng, chất dẫn dụ, chất kết dính và các phụ gia khác. Các thành phần có tính dẫn dụ đã được nghiên cứu trên tôm hùm Jasus edwardsii là glycine (Sheppard et al., 2002), glycine, taurine (Tolomei et al., 2003), betaine và glycine (Johnston, 2006) nhưng chưa được sử 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III Email: minhmaiduy@yahoo.com dụng cho tôm hùm bông. Về chất kết dính, gluten cho hiệu quả tốt hơn so với nutribind trong thức ăn viên nuôi tôm hùm bông (Lại Văn Hùng và ctv., 2014). Các thành phần khác đang được dùng làm chất kết dính trong thức ăn thủy sản là agar, sodium alginate, gelatin, bột tảo (kelp meal), tinh bột (Arguello-guevara & Molina‐Poveda, 2012) nhưng chưa được kiểm chứng trong tôm hùm bông. Chất dẫn dụ là thành phần giúp đối tượng nuôi nhận biết nhanh thức ăn và ảnh hưởng tới mức độ tiêu thụ thức ăn của chúng trong khi đó chất kết dính là thành phần chi phối đặc điểm lý học (Rosas et al., 2008) và chất lượng sinh học của viên thức ăn (Pearce et al., 2002). Theo William et al. (2007) thức ăn viên cho vào bể thường được tôm hùm ăn trong 1-2 giờ rồi dừng lại thay vì ăn trong 10-12 giờ như đối với thức ăn vẹm tươi, do mức độ hấp dẫn và tính ổn định của viên thức ăn chưa cao. Vì vậy cần nghiên cứu, xác định các chất dẫn dụ và kết dính phù hợp để phát triển thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm bông. Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của các chất dẫn dụ, chất kết dính trong thức ăn công KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 89 nghiệp dạng viên lên sinh trưởng, tỷ lệ sống của tôm hùm bông giai đoạn puerulus đến 20 g/con. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.1. Hệ thống nuôi thí nghiệm Hình 1. Sơ đồ RAS thí nghiệm ương tôm hùm bông Thí nghiệm nuôi tôm hùm bông trong hệ thống bể tuần hoàn nước (RAS) tại Trung tâm Quốc gia giống hải sản miền Trung, thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2019. RAS gồm có bể nuôi tôm, bể lắng chất thải hình tròn đường kính 8 m, bể lọc sinh học 3 ngăn kế tiếp có thể tích lọc 12 m3, bể chứa nước sau xử lý thể tích 25 m3, thiết bị ổn nhiệt độ nước, máy bơm, đèn cực tím, máy thổi khí. Trong các bể nuôi có đặt khung lưới theo chiều thẳng đứng của cột nước để tôm trú ẩn và sục khí cung cấp ô xy. RAS tương tự như hệ thống đã được mô tả trong Mai Duy Minh & Phạm Thị Hạnh (2018) và được minh họa như sơ đồ hình 1. Nước biển tự nhiên vào những ngày nắng ấm, được bơm vào bể chứa, xử lý bằng chlorine 20 ppm, sục khí trong 3 đến 4 ngày. Trung hòa chlorine tồn dư bằng natri thiosunfat vừa đủ, lọc qua bể lọc tinh, trước khi cấp vào hệ thống nuôi. Trong RAS, nước từ bể nuôi tôm chảy vào bể lắng, qua bể lọc sinh học, sau đó sang bể chứa trước khi được bơm xuyên qua đèn UV trở về các bể nuôi tôm. 2.2. Tôm giống thí nghiệm Sử dụng tôm hùm bông giai đoạn puerulus có sắc tố (P2), được khai thác từ vùng biển ven bờ Nha Trang, Khánh Hòa. Tôm có khối lượng 0,29-0,32 g/con, được thuần dưỡng làm quen với thức ăn viên trong tuần đầu. Các cá thể tôm trải qua lột xác, có đầy đủ phần phụ, không biểu hiện bệnh sữa, đỏ thân, đen bụng qua quan sát bằng mắt thường được sử dụng làm thí nghiệm. 2.3. Thức ăn công nghiệp dạng viên Thức ăn công nghiệp (hỗn hợp) dạng viên gồm 8 công thức khác nhau được xây dựng trên công thức đã sử dụng cho tôm hùm bông giống (Mai Duy Minh & Vũ Thị Bích Duyên, 2019) bổ sung thêm d ... Trong một nghiên cứu trước đây, bổ sung betaine và glycine hàm lượng 1,5% đã hấp dẫn ấu trùng tôm hùm hơn so với taurine (Johnston, 2006) và betaine cũng cho kết quả tốt khi bổ sung vào thức ăn tôm sú ở hàm lượng 0,5% (Penaflorida & Virtenen, 1996). Các dẫn liệu cho thấy bổ sung betaine vào thức ăn có khả năng cải tiến sinh trưởng của tôm hùm bông. Các chỉ tiêu SR, DGR và FCR giữa nghiệm thức không có và có glycine (ĐB và ĐBG) tương tự như nhau cho thấy không có ảnh hưởng của glycine khi bổ sung chúng vào thức ăn mặc dù trong nghiên cứu trước đây, glycine ở mức 1,5% đã gia tăng tính hấp dẫn của thức ăn với ấu trùng tôm hùm (Johnston, 2006). Điều này cho thấy vai trò chất dẫn dụ phụ thuộc vào từng loài tôm hùm nghiên cứu. Cao mực đang được dùng rộng rãi để gia tăng tính hấp dẫn của thức ăn thủy sản. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, tỉ lệ sống của tôm ở nghiệm thức không có cao mực (ĐBG) cao hơn có ý KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 92 nghĩa, DGR cao hơn không có ý nghĩa so với ở nghiệm thức có bổ sung 0,8% cao mực (ĐBGC). Kết quả nghiên cứu cho thấy bổ sung cao mực ở hàm lượng 0,8% đã hạn chế sinh trưởng của tôm hùm bông. Từ kết quả thu được trong thí nghiệm này đề nghị sử dụng betaine nhưng không sử dụng cao mực bổ sung vào thức ăn của tôm hùm bông. 3.2. Ảnh hưởng của chất kết dính lên sinh trưởng của tôm hùm Kết quả nuôi tôm hùm bông giai đoạn puerulus bằng 4 loại thức ăn có bổ sung các thành phần kết dính khác nhau được trình bày trong bảng 4. Các thành phần bổ sung đã ảnh hưởng đến tăng trưởng về khối lượng của tôm và FCR nhưng không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của chúng. Chỉ số tăng trọng Wg (g/con) và DGR (%/ngày) ở nghiệm thức bổ sung bột tảo ĐT là cao nhất, tiếp đến là các nghiệm thức bổ sung tảo và nustic (ĐTN) và bổ sung tảo, nustic và gelatin (ĐTNG) và thấp nhất là nghiệm thức không có thành phần bổ sung (ĐC2). Sai khác về hai chỉ tiêu này giữa nghiệm thức đối chứng ĐC2 và bổ sung tảo ĐT là có ý nghĩa (p < 0,05) còn các sai khác giữa các nghiệm thức còn lại là không có ý nghĩa (p > 0,05). Tỉ lệ sống SR (%) của tôm trong bốn nghiệm thức dao động trong khoảng 70,83 - 74,17% và sai khác là không có ý nghĩa (p > 0,05). FCR ở nghiệm thức ĐT là thấp nhất (2,55), tiếp đến là các nghiệm thức ĐC2 và ĐTNG và cao nhất là ở nghiệm thức ĐTN (2,79). Sai khác về FCR giữa nghiệm thức ĐTN và các nghiệm thức còn lại là có ý nghĩa (p < 0,05) còn các sai khác giữa các nghiệm thức còn lại là không có ý nghĩa (p > 0,05). Bảng 4. Tăng trưởng của tôm hùm bông Puerulus nuôi bằng 4 loại thức ăn có thành phần kết dính bổ sung khác nhau Thông số ĐC2 (đối chứng) ĐT (ĐC2 + tảo) ĐTN (ĐT + nustic) ĐTNG (ĐTN + gelatin) Ws (g) 0,29 ± 0,01 0,29 ± 0,01 0,29 ±0,01 0,29 ± 0,01 Wg (g/con) 19,48 ± 2,02a 23,15 ± 2,01b 22,19 ± 1,72ab 22,42 ± 1,64ab DGR (%/ngày) 2,45 ± 0,07a 2,55 ± 0,05b 2,53 ± 0,05ab 2,54 ± 0,05ab SR (%) 74,17 ± 5,69 73,33 ± 6,09 74,17 ± 3,19 70,83 ± 7,39 FCR (g:g) 2,56 ± 0,14a 2,55 ± 0,11a 2,79 ± 0,16b 2,58 ± 0,07a Chữ mũ (a, b) khác nhau trong một hàng chỉ sai khác có ý nghĩa (p < 0,05). Kết quả so sánh giữa nghiệm thức đối chứng và có bổ sung tảo cho thấy không có sai khác về tỉ lệ sống của tôm và FCR nhưng có sự sai khác về tăng trưởng khối lượng tôm. Điều này cho thấy bột tảo biển có vai trò như một thành phần dinh dưỡng giúp cải thiện tăng trưởng của tôm hùm như đã được nhận định trước đó. Rong biển thường được tìm thấy trong dạ dày tôm hùm (Cox & Johnston, 2003; Goes & Lins-Oliveira, 2009) ngay cả ở môi trường sinh thái hiếm rong khẳng định đây là nguồn thức ăn thiết yếu để cung cấp nguồn dinh dưỡng quan trọng (Elner & Campell, 1987). Rong biển và vi tảo biển chính là nguồn thay thế cho protein động vật đắt tiền trong tạo thức ăn nuôi tôm hùm khi đánh giá so sánh tốc độ tăng trưởng (Syslo & Hugh, 1981) và vai trò của chúng được nhận định là cung cấp nguồn can xi cho tôm hùm (Joll & Phillip, 1984). Tuy vậy kết quả trong bảng 4 đã không cho thấy vai trò của bột vi tảo biển như một chất kết dính để giúp tăng tính ổn định viên thức ăn trong nước qua đó giảm thiểu FCR. Trong khi đó các thành phần có nguồn gốc từ rong, tảo biển như alginate, agar hoặc bột tảo là các nguyên liệu có khả năng kết dính và được dùng nhiều trong thức ăn thủy sản (Arguello-guevara et al., 2012). So sánh kết quả giữa các nghiệm thức lần lượt được bổ sung tảo, nustic và gelatin trong bảng 4 cho thấy việc bổ sung nustic hoặc gelatin đã không đem đến sự khác biệt về tỉ lệ sống hoặc tăng trưởng của tôm. Tuy vậy ở nghiệm thức bổ sung nustic (ĐTN) có FCR ở mức 2,79 là cao nhất và cao hơn so với ở các nghiệm thức còn lại và sai khác này là có ý nghĩa. Trong khi đó FCR ở nghiệm thức bổ sung thêm gelatin (ĐTNG) là 2,58 đã giảm đi so với ở ĐTN và sai khác là có ý nghĩa. Như vậy nustic đã làm giảm tính bền, ổn định của viên thức ăn của tôm hùm trong khi đó gelatin có xu hướng ngược lại thể hiện qua khác biệt về FCR. Gelatin đã được nghiên cứu sử dụng trong thức ăn bán ẩm của tôm hùm (Castel & Budson, 1974) và hiệu quả kết dính thức ăn tôm càng xanh của gelatin là tương tự như agar nhưng thấp hơn so với carageanan hoặc CMC (Ruscoe et al., KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 93 2005). Các dẫn liệu này cho thấy gelatin có tiềm năng sử dụng làm chất kết dính trong thức ăn tôm hùm. 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Khi bổ sung vào thức ăn viên nuôi tôm hùm bông puerulus ở mức 0,8%, cao mực đã làm giảm tỉ lệ sống, betaine đã gia tăng tỉ lệ sống nhưng chưa rõ ràng còn glycine không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của tôm. Ba thành phần đều không ảnh hưởng đến tăng trưởng của tôm hoặc FCR. Khi bổ sung vào thức ăn viên nuôi tôm hùm bông puerulus ở mức 1,46%, bột tảo biển đã cải thiện tăng trưởng của tôm, nustic làm tăng FCR trong khi gelatin làm giảm FCR nhưng không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của tôm. Kiến nghị sử dụng tảo biển, gelatin và betaine trong thức ăn công nghiệp dạng viên nuôi tôm hùm bông giai đoạn puerulus đến 20 g/con. LỜI CẢM ƠN Bài báo này sử dụng các số liệu của đề tài: “Nghiên cứu sản xuất thức ăn công nghiệp ương nuôi tôm hùm (Panulirus ornatus) giai đoạn ấu trùng puerulus đến con giống 20 g/con”. Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III đã cấp kinh phí và tạo điều kiện để hoàn thiện bài báo này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Văn Hùng & Phạm Đức Hùng, 2010. Ảnh hưởng của hàm lượng protein và lipid trong thức ăn công nghiệp đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của tôm hùm bông (P. ornatus) giai đoạn nuôi thương phẩm. Tạp chí Khoa học – Công nghệ thủy sản số 3: 3-10. 2. Lại Văn Hùng và ctv, 2014. Hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm hùm bông (P. ornatus) và tôm hùm xanh (P. homarus). Mã số dự án: KC.06.DA05/11-15. Báo cáo tổng kết dự án. Bộ Khoa học và Công nghệ. 3. Lê Anh Tuấn & Mai Duy Minh, 2019. Nhu cầu lipid và HUFA của tôm hùm bông giống. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Thủy sản - Đại học Nha Trang. 4. Mai Duy Minh, Phạm Trường Giang, Lê Văn Chí, Tống Phước Hoàng Sơn, Nguyễn Việt Nam, 2016. Quy hoạch phát triển nuôi tôm hùm miền Trung. Báo cáo tư vấn. Tổng cục Thủy sản. 120 trang. Truy cập online. 5. Mai Duy Minh & Phạm Thị Hạnh, 2018. Ảnh hưởng của thức ăn đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của tôm hùm bông (P. ornatus) nuôi thương phẩm trong bể. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1(9): 116-123. 6. Mai Duy Minh & Vũ Thị Bích Duyên, 2019. Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau đến tôm hùm bông (P. ornatus) giai đoạn con giống. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 17: 62-68. 7. Mai Duy Minh, Nguyễn Đức Cự, Lê Anh Tuấn, Vũ Thị Bích Duyên, Trần Thị Bích Thủy, Mai Duy Hảo, Nguyễn Minh Hường, Nguyễn Hoàng Uyên và Nguyễn Thị Thúy Thủy, 2019. Nghiên cứu công nghệ nuôi thâm canh tôm hùm thương phẩm bằng thức ăn công nghiệp trong hệ thống tuần hoàn. Báo cáo tổng kết. Đề tài cấp Bộ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 110 trang. 8. Nguyễn Cơ Thạch và ctv, 2013. Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ nuôi tôm hùm bông (Panulirus ornatus) trong hệ thống bể đạt năng suất 5 kg/m2. Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ. Bộ Nông nghiệp và PTNT. 9. Argüello‐Guevara W. & C. Molina‐Poveda, 2012. Effect of binder type and concentration on prepared feed stability, feed ingestion and digestibility of Litopenaeus vannamei broodstock diets. Aquaculture nutrition, 19 (4): 515 -522. 10. Castel J. D. & S. D. Budson, 1974. Lobster nutrition: the effect on Homarus americatus of dietary protein level. J. fish Re. board Canada, 31: 1363-1370. 11. Cox, S. L. & Johnston, D. J., 2003. Feeding biology of spiny lobster larvae and implications for culture. Rev. Fish. Sci., 11, 89–106. 12. Elner R. W. & A. Campbell, 1987. Natural diets of lobster Homarus americanus from barren ground and macroalgal habitats off southwestern Nova Scotia, Canada. INE Ecology - Progress Series. Mar. Ecol. Prog. Ser. 37: 131-140. 13. Goes CA. A & Lins-Oliveira, JE, 2009. Natural diet of the spiny lobster, P. echinatus Smith, 1869 (Crustacea: Decapoda: Palinuridae), from São Pedro and São Paulo Archipelago, Brazil Góes,. Braz. J. Biol., 69(1): 143-148. 14. Joll, L. M & Phillips, B. F. (1984). Natural diet and growth of juvenile western rock lobsters P. cygnus George. J. exp. mar. Biol. Ecol. 75: 145-169. 15. Johnston, M. D., 2006. Feeding and digestion in the Phyllosoma larvae of Ornate spiny lobster, P. ornatus (Fabricius) and the implications for their KHOA HỌC CÔNG NGHỆ N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n - KỲ 2 - TH¸NG 11/2020 94 culture. PhD thesis, the University of Western Australia. 16. Pearce, C. M., Daggett, T. L. & Robinson, S. M. C., 2002. Effect of binder type and concentration on prepared feed stability and gonad yield and quality of the green sea urchin, Strongylocentrotus droebachiensis. Aquaculture, 205(3–4): 301–323. 17. Peñaflorida, V. D. & Virtanen, E., 1996. Growth, survival and feed conversion of juvenile shrimp (Penaeus monodon) fed a betaine/amino acid additive. The Israeli Journal of Aquaculture- Bamidgeh, 48(1), 3-9. 18. Phillips, B., Matsuda, H., 2011. A Global Review of Spiny Lobster Aquaculture. Recent Advances and New Species in Aquaculture. Vol. 1. pp. 22–84. 19. Rosas, C., Tut, J., Baeza, J., Sanchez, A., Sosa, V., Pascual, C., Arena, L., Domingues, P & Cuzon, G., 2008. Effect of type of binder on growth, digestibility, and energetic balance of Octopus maya. Aquaculture, 275(1–4): 291–297. 20. Ruscoe, I. M., Clive Jones, P. L. JONES, Peter Caley, 2005. The effects of various binders and moisture content on pellet stability of research diet for freshwater crayfish. Aquaculture Nutrition 11(2):87 – 93. 21. Sheppard, J. K., Bruce, M. P., Jeffs, A. G., 2002. Optimal feed pellet size for culturing juvenile spiny lobster Jasus edwardsii (Hutton, 1875) in New Zealand. Aquac. Res. 33, 913–916. 22. Smith, D. M., Williams, K. C., Irvin, S. J., 2005. Response of the tropical spiny lobster Panulirus ornatus to protein content of pelleted feed and to a diet of mussel flesh. Aquac. Nutr. 11, 209– 217. 23. Syslo, M,, Hughes, J. T. (1981). Vegetable matter in lobster (Homarus americanus) diets (Decapoda, Astacidae). Crustaceana 41: 10-13. 24. Tolomei, A., Crear B. & Johnston, 2003. Diet immersion time: Effects on growth, survival and feeding behaviour of juvenile southern rock lobsters Jasus edwardsii. Aquaculture, 219: 303-316. 25. Williams K. C., 2007. Nutritional requirements and feeds development for post-larval spiny lobster: A review. Aquaculture, 263: 1–14. EFFECT OF ATTRACTANTS AND BINDERS IN FORMULATED FEED ON SURVIVAL AND GROWTH OF SPINY LOBSTER PUERULII Panulirus ornatus Mai Duy Minh1, Vu Thi Bich Duyen1, Tran Thi Bich Thuy1 1Research Institute for Aquaculture No3 Email: minhmaiduy@yahoo.com Summary This paper represents the results in growth rate (DGR), survival rate (SR) and feed conversion rate (FCR) of Panulirus ornatus lobster puerulus to juveniles at average size of 20 g fed with formulated feeds suplemented by different attractants and binders. For attractants, four treatments were a control (DC1); DC1 + 0.8% betaine (DB); DB + 0.8% glycine (DBG) and DBG + 0.8% black cuttlefish glue (DBGC). Each treatment had four replicates. After 174 days, the atractants affected SR but did not affect DGR nor FCR. SR of lobsters was highest in DB followed by in DBG, DC and DBGC and the difference between DB and DBGC was statistically significant (p < 0.05). The results indicate that black cuttlefish glue decreased SR, betaine increased SR unclearly. For binders, four treatments were a control (DC2); DC2 + 1.46% microalgae powder (DT); DT + 1.46% nustic (DTN) and DTN + 1.46% gelatin (DTNG). Each treatment had four replicates. After 172 days, the suplements affected DGR and FCR but did not affect SR. DGR was highest in DT folowed by in DTN, DTNG and DC2 and the difference between DC2 and DT was statistically significant (p < 0.05). FCR was lowest in DT followed by in DC2 and DTNG and DTN and the difference between DTN and the other treatments was statistically significant (p < 0.05). The results indicate that microalgae powder improved SR, nustic increased FCR while gelatin decreased FCR. It is suggested to use microalgae powder, gelatin and betaine in formulated feed for lobster puerulii. Keywords: Attractants, binder, growth, lobsters, Panulirus. Người phản biện: TS. Thái Thanh Bình Ngày nhận bài: 13/4/2020 Ngày thông qua phản biện: 14/5/2020 Ngày duyệt đăng: 21/5/2020
File đính kèm:
- anh_huong_cua_chat_dan_du_va_ket_dinh_trong_thuc_an_den_ti_l.pdf