Xử trí U buồng trứng trong Thai kỳ
Phần lớn các khối u buồng trứng được chẩn đoán trong thai kỳ là lành tính. Sự xuất hiện của khối u ác tính buồng trứng trong thai kỳ rất hiếm. Với siêu âm chẩn đoán tiền sản định kỳ, phát hiện ra một khối u buồng trứng trong thời gian mang thai hiếm gặp. Đa số là các u cơ năng tự tan vào tam cá nguyệt thứ hai và không cần điều trị. Hầu hết các khối u ít ảnh hưởng xấu đến kết cục thai kỳ; tuy nhiên, chưa có các xử trí chuẩn thích hợp cho những trường hợp này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Xử trí U buồng trứng trong Thai kỳ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xử trí U buồng trứng trong Thai kỳ
2THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 3, Tháng 11 – 2017 1 Xử trí U buồng trứng trong Thai kỳ Phan Văn Quyền* Tóm tắt Phần lớn các khối u buồng trứng được chẩn đoán trong thai kỳ là lành tính. Sự xuất hiện của khối u ác tính buồng trứng trong thai kỳ rất hiếm. Với siêu âm chẩn đoán tiền sản định kỳ, phát hiện ra một khối u buồng trứng trong thời gian mang thai hiếm gặp. Đa số là các u cơ năng tự tan vào tam cá nguyệt thứ hai và không cần điều trị. Hầu hết các khối u ít ảnh hưởng xấu đến kết cục thai kỳ; tuy nhiên, chưa có các xử trí chuẩn thích hợp cho những trường hợp này. Báo cáo này sẽ xem xét độ xuất hiện, chẩn đoán, xử trí và kết cục ở những phụ nữ được chẩn đoán là có khối u buồng trứng trong thời kỳ mang thai. Từ khóa: khối u buồng trứng, mang thai, phẫu thuật Độ xuất hiện Khối u buồng trứng có thể gặp với tỉ lệ 2,3-4,1%l của tổng số các lần mang thai (hình 1). Sử dụng siêu âm qua âm đạo trong 3 tháng đầu tiên để đánh giá sự phát triển và sự bất thường của bào thai đã giúp chẩn đoán khối u buồng trứng trong thời kỳ mang thai đã tăng lên trong những thập kỷ gần đây. Phần lớn các u này nhỏ (<5 cm) và thường gặp là hoàng thể hoặc các u nang chức năng khác và tự tan biến vào tam cá nguyệt thứ hai. Hầu hết các khối u này đều không có triệu chứng và tự tan đi mà không cần điều trị.2 Triệu chứng đau bụng liên quan đến u xoắn, khối u to dần, hoặc vỡ xảy ra trong 3-28% trường hợp. Phần lớn các khối u buồng trứng tồn tại dai dẳng được chẩn đoán trong thai kỳ là các khối u lành tính, chỉ có 1-3% là ác tính. Bernhard và cộng sự2 trong một nghiên cứu trên gần 20.000 siêu âm sản khoa, đã xác định được 422 (2,3%) bệnh nhân có khối u buồng trứng. Đa số 320 (76%) bệnh nhân có u nang đơn giản <5 cm, những u nang này không có triệu chứng và không gây bất kỳ kết cục bất lợi nào. Số 102 bệnh nhân còn lại có khối u phức tạp hoặc đường kính > 5 cm. * Hội Phụ Sản TP.HCM, DĐ: 0908221454, Email: thanhhtran@yahoo.com Mặc dù có nhiều hình ảnh đáng lo ngại hơn nhưng 70 trong số 102 ca (69%) phức tạp hoặc u to đều tự tan mà không có sự cố nào. Sau ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng là bệnh ung thư phụ khoa thường gặp thứ hai lúc Hình 1. U buồng trứng lúc mang thai. mang thai, tỷ lệ mắc là 1/12.000-47.000 trường hợp mang thai. Nghiên cứu của Mạng lưới quốc tế về Ung thư, Vô sinh và Mang thai (INCIP : International Network on Cancer, Infertility and Pregnancy) đã ghi nhận tần suất ung thư trong thai kỳ ở các nước Châu Âu,3 trong số hơn 1.000 trường hợp ung thư được chẩn đoán trong thai kỳ, ung thư buồng trứng chiếm 5% trong tất cả các trường hợp. 12 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 3, Tháng 11 – 2017 Tổng quan về ngừa thai ngay sau sinh Huỳnh Phạm Vĩnh Uyên*, Võ Minh Tuấn** Việc áp dụng một biện pháp tránh thai (BPTT) trong thời gian 1-2 năm đầu sau sinh giúp giảm nguy cơ có thai ngoài ý muốn trước thời điểm dự kiến có con tiếp theo hoặc phải sinh thêm con ngoài ý muốn dù không muốn sinh thêm con. Có gần 50% số phụ nữ Việt Nam không áp dụng một BPTT nào vào thời điểm mang thai ngoài ý muốn, tần suất phá thai liên tiếp là 31,7%.10 Có thai ngoài ý muốn sẽ làm tăng tỷ lệ phá thai hằng năm hoặc tăng số phụ nữ có khoảng cách giữa 2 lần sinh ngắn. Khoảng cách giữa 2 lần mang thai ngắn đem đến nhiều kết cục bất lợi như thiếu máu trong thai kỳ, trẻ nhẹ cân, tăng tỉ suất tử vong chu sinh.2 Việc có thai sớm này càng nguy hiểm hơn trên các đối tượng có vết mổ cũ lấy thai do tăng nguy cơ vỡ tử cung, vị trí nhau bám bất thường. Con của các bà mẹ sinh liên tiếp không được nuôi dưỡng và chăm sóc phù hợp theo nhu cầu cần thiết nên dễ bị suy dinh dưỡng và mắc nhiều bệnh. Để làm giảm các biến chứng nghiêm trọng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của bà mẹ và trẻ em, Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra khuyến cáo thời gian tối thiểu giữa 2 lần mang thai là 24 tháng. Như vậy, khoảng thời gian sau sinh mở rộng đặc biệt được quan tâm vì khoảng cách an toàn giữa 2 lần mang thai sẽ làm giảm tỷ lệ có thai ngoài ý muốn, đồng thời giảm tỷ lệ tử vong mẹ cũng như tử vong con, với định nghĩa khoảng thời gian là thời gian một năm *Bệnh viện Từ Dũ, TP.HCM **Bộ môn Sản ĐHYD TP.HCM, Email: drvo_obgyn@yahoo.com.vn tính từ thời điểm sinh. Như vậy, trong thời gian sau sinh mở rộng, việc đề cao áp dụng một BPTT tạm thời an toàn, hiệu quả có vai trò quan trọng trong nâng cao chất lượng sức khỏe của bà mẹ và trẻ em. Phụ nữ sau sinh được cung cấp ngay một BPTT trong thời gian còn nằm viện, thì điều này sẽ giúp kéo dài khoảng cách giữa 2 lần sinh và nâng cao sức khỏe của bà mẹ và trẻ em, mang lại rất nhiều lợi ích cho chính cá nhân, gia đình và xã hội. Các biện pháp tránh thai hiện đại trong thời gian sau sinh mở rộng Tuy BPTT được thực hiện sau sinh nhưng các thai phụ phải có kế hoạch ngừa thai sau khi sinh trong thời gian mang thai và nên được bắt đầu ngừa thai ngay sau sinh, càng sớm càng tốt.3 Ở một số phụ nữ không cho con bú mẹ, sự rụng trứng có thể xảy ra trước khi người phụ nữ nhận biết rằng mình có nguy cơ mang thai trở lại, khách hàng có thể có thai lại trước khi xuất hiện chu kì kinh đầu tiên. Các BPTT tạm thời được áp dụng trong khoảng thời gian sau sinh mở rộng bao gồm: kiêng quan hệ, dụng cụ tử cung (DCTC) chứa đồng, DCTC chứa levonorgestrel (LNG), que cấy Implanon, thuốc ngừa thai chỉ chứa progestin, bao cao su, vô kinh bằng cho con bú mẹ, mũ chụp cổ tử cung (CTC), màng ngăn âm đạo, thuốc ngừa thai dạng viên phối hợp, miếng dán, vòng âm đạo, Depo-Provera. Y học chứng cứ về ngừa thai sớm ngay sau sinh Một nghiên cứu cắt ngang tại Ethiopia 13 TỔNG QUAN Y VĂN 2 khảo sát 556 phụ nữ sau sinh,12 chỉ có 67 phụ nữ (12,3%) có sử dụng một BPTT sau sinh, trong số các BPTT được sử dụng thì que cấy (38,8%), tiêm ( ... u Mỹ La Tinh chiếm khoảng ¼. Hai phần ba phụ nữ không áp dụng một BPTT nào trong một năm đầu sau sinh, 40% trong số này nói rằng họ có dự định sẽ ngừa thai trong 12 tháng kế tiếp, 35% phụ nữ ở vùng Trung Đông, 41% Cận Sahara châu Phi. Tại các nước ở châu Á, 20% phụ nữ ở Uzbekistan muốn ngừa thai trong 12 tháng kế tiếp, Bangladesh là 58%. Cho đến khoảng ¾ thời gian trong một năm đầu sau sinh, tỷ lệ phụ nữ áp dụng BPTT tăng, giảm số phụ nữ không ngừa thai. Do vậy, số phụ nữ mong muốn ngừa thai cũng giảm, tỷ lệ phụ nữ muốn ngừa thai là 54% trong khoảng từ sau sinh đến 3 tháng đầu giảm 31% trong khoảng thời gian 9-12 tháng sau sinh. Bảng 1. Tỷ lệ phụ nữ có nhu cầu ngừa thai và thực sự sử dụng BPTT trong thời gian hậu sản mở rộng theo từng quốc gia.14 Nhu cầu ngừa thai chưa được đáp ứng (%) Sử dụng BPTT sau sinh (%) Muốn có thai lại trong 2 năm tới Tổng 64,6% 29,2% 5,4% CẬN SAHARA CHÂU PHI 73,8 18,1 7,6 Benin 80.3 14,6 4,2 Central African 64.6 25 9,7 Comoros 71.7 2 6,4 t d'Ivoire 88.0 5, 6,7 Ghana 84.5 11, 3,7 Kenya 75.2 19, 4,3 Mali 86.8 3,6 9,3 Mozambique 77.1 4 18,8 Senegal 82.7 12,2 5,1 Uganda 76.7 12,4 10,7 Zambia 60.8 29 9,5 Zimbabwe 37.8 59,7 2,1 ĐÔNG ÂU 51.8 43,3 4,3 Egypt 57.4 37, 4,5 Turkey 46.1 49,6 4,0 CHÂU Á 62.3 32,2 4,5 Bangladesh 74.3 20,9 4,1 Indonesia 54.2 42,1 3,3 Kazakhstan 49.4 43,5 4,2 Nepal 84.0 11,4 4,4 Philippines 66.4 29,3 3,0 Uzbekistan 45.8 46,0 7,7 14 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 3, Tháng 11 – 2017 Nhu cầu ngừa thai chưa được đáp ứng (%) Sử dụng BPTT sau sinh (%) Muốn có thai lại trong 2 năm tới MỸ LA TINH 54,4 41,6 3,1 Bolivia 65.9 31 2,6 Brazil 27.9 68,1 2,5 Colombia 29.1 68,6 1,9 CHDC Dominican 40.2 54 4,0 Guatemala 79.2 14,8 4,7 Haiti 85.3 9,7 4,5 Peru 52,8 45,2 1,2 Kết quả một nghiên cứu khác cũng cho thấy kết quả hoàn toàn tương tự về việc ý định ngừa thai và hành động ngừa thai sau sinh rất khác nhau. Mặc dù 44% trong số 423 phụ nữ chờ sinh trả lời có ý định sử dụng một BPTT sau sinh, nhưng chỉ có 3% số phụ nữ này thật sự áp dụng BPTT.1 Các BPTT được dùng sau sinh là bao cao su (38,3%); DCTC (11,5%). Lớn tuổi và có nhiều con là hai yếu tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng BPTT sau sinh. Bên cạnh đó, trình độ học vấn của phụ nữ cũng như kiến thức về kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) được cung cấp bởi nhân viên y tế làm tăng ý định áp dụng BPTT sau sinh (với p lần lượt là 0,03 và 0,01) Một số BPTT tạm thời được coi là không ảnh hưởng đến sữa mẹ:19 BCS, mũ chụp CTC, màng ngăn âm đạo, DCTC chứa đồng. Một số BPTT được xác nhận là không ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng và số lượng sữa mẹ: phương pháp chỉ chứa progestin (Depo- provera, thuốc viên chỉ chứa progestin, que cấy Implanon, DCTC Mirena). Mặc dù thuốc ngừa thai dạng viên phối hợp, miếng dán, vòng âm đạo là các BPTT có thể làm giảm chất lượng và số lượng sữa mẹ nếu dùng trước khi cho con bú, thì BPTT này thuộc bảng phân loại 2 theo Danh mục Tiêu chuẩn đủ điều kiện y tế. Tuy nhiên các BPTT này như ngừa thai dạng viên phối hợp liều thấp vẫn có thể được sử dụng nếu dùng BPTT này sau khi đã bắt đầu cho bú mẹ vì sữa mẹ không bị ảnh hưởng. Viện nhi khoa Mỹ khuyến cáo dùng thuốc ngừa thai dạng viên phối hợp liều thấp khi trẻ không phụ thuôc hoàn toàn vào sữa mẹ và không sớm hơn 3-6 tuần sau sinh. Cơ chế tác động của thuốc ngừa thai dạng viên phối hợp, vòng đặt âm đạo và miếng dán là ức chế phóng noãn (90% đến 95% thời gian). Ngoài ra, viên thuốc ngừa thai gây đặc chất nhầy cổ TC, ngăn cản sự xâm nhập của tinh trùng và đi vào đường sinh dục trên. Nội mạc tử cung mỏng, không đồng bộ, ức chế sự làm tổ của phôi. Chậm nhu động vòi tử cung tham gia vào quá trình ngừa thai. Các phương pháp ngừa thai chỉ chứa progestin gồm có thuốc ngừa thai dạng viên chỉ chứa progestin, Depo- Provera, và DCTC chứa LNG (mirena), que cấy Implanon. Cơ chế ngừa thai của các BPTT thuộc nhóm này chủ yếu làm đặc chất nhầy cổ tử cung làm cản trở tinh trùng di chuyển lên đường sinh dục trên. Thuốc chỉ hạn chế một phần sự rụng trứng, có khoảng 40% các phụ nữ sử dụng vẫn có rụng trứng bình thường, cho nên không có đủ hiệu quả 15 TỔNG QUAN Y VĂN 4 ngừa thai bằng ngăn rụng trứng. Hiệu quả làm đặc chất nhầy cổ tử cung chỉ xảy ra trong khoảng 2-4 giờ sau uống thuốc ngừa thai dạng viên chỉ chứa progestin và kéo dài khoảng 22 giờ. Một đứa trẻ mới sinh có thể sẽ chiếm toàn bộ thời gian của bà mẹ. Vì thế, biện pháp ngừa thai càng tiện lợi càng tốt cho người mẹ, như là phương pháp ngừa thai có tác dụng lâu dài-có thể hồi phục (LARC) Phương pháp ngừa thai có tác dụng lâu dài-có thể hồi phục bao gồm DCTC chứa đồng, DCTC chứa LNG, que cấy Implanon. Nếu sử dụng LARC dưới 4 tuần sau sinh, trong khi DCTC chứa đồng thuộc phân nhóm 1, thì DCTC chứa LNG và que cấy Implanon thuộc phân nhóm 2.6,18 Bên cạnh các phương pháp ngừa thai có tác dụng lâu dài-có thể hồi phục, thuốc ngừa thai chỉ chứa progestin, bao cao su (BCS), màng ngăn âm đạo là các BPTT tạm thời có thể được áp dụng trong thời gian hậu sản mở rộng. Cơ chế chủ yếu của DCTC chứa đồng là giết chết tinh trùng và do đó ngăn cản sự thụ tinh. Cơ chế này được giải thích theo 2 cách sau. Đầu tiên, DCTC là một vật thể lạ được đặt vào buồng tử cung, khởi động các phản ứng viêm, qua cả 2 đường dịch thể và tế bào. Bên cạnh đó, nguyên tố đồng được quấn xung quanh thân chữ T làm tăng đáp ứng viêm. Phản ứng viêm vô trùng ở nội mạc tử cung gây thực bào tinh trùng.19 Theo Danh mục Tiêu chuẩn đủ điều kiện y tế trong Phân loại nội tiết tránh thai trong tử cung và dụng cụ tử cung, việc đặt DCTC có đồng ngay sau sinh cho phụ nữ cho con bú cũng như không cho con bú hoặc sau 4 tuần hậu sản được phân loại 1.18 Hai thời điểm đặt DCTC chứa đồng đều thuộc phân loại 1, tuy nhiên bất lợi lớn nhất của thời điểm sau 4 tuần hậu sản là khách hàng phải chờ đợi 4-6 tuần và một số người đã không quay lại để đặt DCTC.13 Đặt dụng cụ tử cung chứa đồng trong vòng 10 phút ngay sau sổ nhau là hiệu quả và an toàn.4,19 Đặt DCTC chứa đồng sau 10 phút sau sổ nhau cho đến 4 tuần sau khi sinh thuộc phân loại 2.19 DCTC chứa đồng, không chứa nội tiết tố nên thoát khỏi các giả thuyết ảnh hưởng đến sự tiết sữa mẹ cũng như không ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Điều này mang tới sự khác biệt giữa DCTC chứa đồng và DCTC chứa LNG cũng như que cấy Implanon khi mà còn khá nhiều nghiên cứu vẫn đang được tiếp tục tiến hành để chứng minh nội tiết trong 2 loại DCTC không ảnh hưởng đến sữa mẹ.5 Đặt DCTC chứa đồng ngay sau sổ nhau đồng nghĩa với việc cung cấp ngay một BPTT an toàn hiệu quả kéo dài mà không cần phải chờ đợi 4-6 tuần sau sinh lại để được tư vấn và đặt DCTC, và không cần áp dụng một phương pháp ngừa thai nào trong vòng 10 năm kế hoặc ít nhất cho đến thời điểm phụ nữ có nhu cầu sinh con. Thời điểm đặt DCTC này giúp tháo bỏ các rảo cản làm giảm số đặt DCTC sau sinh như phải quay lại cơ sở y tế để đặt DCTC. Bên cạnh đó việc đặt DCTC chứa đồng ngay sau sổ nhau không gây ra các khó chịu do quá trình đặt DCTC gây ra. Cách thức này hoàn toàn tương tự với mô hình dự án ngừa thai St. Louis CHOICE, phương pháp ngừa thai có hồi phục có hiệu quả (LARCs) được cung cấp ngay trong ngày người phụ nữ 16 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 3, Tháng 11 – 2017 đến tư vấn tại bệnh viện19 đã cho thấy các kết quả khả quan với 75% phụ nữ trong nghiên cứu đã chọn các phương pháp LARCs (so với tỷ lệ trung bình trên toàn quốc - khoảng 10% trong năm 2011); 72% trẻ vị thành niên chọn LARCs: hơn 40% trẻ từ 14-17 tuổi chọn que cấy; hơn 40% trẻ từ 18-20 tuổi chọn dụng cụ tử cung; tỷ lệ mang thai ở trẻ vị thành niên giảm còn 3.4% so với mức trung bình toàn quốc (15.8%); tỷ lệ phá thai trong nhóm tham gia dự án CHOICE thấp hơn hẳn so với tỷ lệ của vùng và của toàn quốc. Bên cạnh các BPTT tạm thời, triệt sản nữ là một biện pháp ngừa thai vĩnh viễn, an toàn, thích hợp cho những phụ nữ trên 30 tuổi, có hai con sống khỏe mạnh, con nhỏ nhất trên 3 tuổi và không có nhu cầu có thêm con nữa. Hiện nay trong chương trình kế hoạch hóa gia đình nhằm hạ thấp tỉ lệ gia tăng dân số, biện pháp triệt sản nữ đã được thực hiện ở các tuyến dưới, ngay cả đến tuyến xã. Tỷ lệ triệt sản chung của dân số Việt Nam từ 2004-2013 có xu hướng giảm dần và thấp nhất vào năm 2013 với tỉ lệ triệt sản là 2,8%.16 Trong một số trường hợp như mổ lấy thai lần thứ 3 trở lên, các phụ nữ cần được tư vấn về lựa chọn phương pháp tránh thai an toàn và có hiệu quả kéo dài, trong đó tư vấn triệt sản là một trong các phương pháp ngừa thai thường được các nhân viên y tế đề cập đến. Tuy nhiên, theo tác giả Trương Quốc Dũng17 thực hiện nghiên cứu trên 150 sản phụ mổ lấy thai > 2 lần và có đủ điều kiện triệt sản tại bệnh viện Từ Dũ, 34% sản phụ không đồng ý triệt sản sau khi nghe tư vấn. Một trong những lý do khiến nhân viên y tế rất e dè khi tư vấn về triệt sản là những phụ nữ triệt sản sau này có thể hối tiếc quyết định này. Tổng quan hệ thống cho thấy phụ nữ trẻ dưới 30 tuổi tại thời điểm triệt sản có nhiều khả năng sẽ hối tiếc về quyết định triệt sản sau đó. Sử dụng MEDLINE và EMBASE, theo 19 bài báo nghiên cứu về mối liên quan giữa độ tuổi của phụ nữ triệt sản về sự hối tiếc sau này, hoặc có yêu cầu phẫu thuật nối tai vòi hoặc có yêu cầu trong thụ tinh ống nghiệm. Phụ nữ quyết định triệt sản ở tuổi 30 tuổi hoặc trẻ hơn thì có nguy cơ tỏ ra hối tiếc cao gấp hai lần so với những phụ nữ trên 30. Những người trong nhóm tuổi này có mong muốn nối lại tai vòi cao gấp 3,5-18 lần và yêu cầu làm thụ tinh nhân tạo cao gấp 8 lần 9. Trong số những phụ nữ lớn tuổi (30 tuổi trở lên), nguy cơ hối tiếc sau khi triệt sản rất thay đổi giữa các nghiên cứu từ 5,9% 8 đến 20%.11 Tài liệu tham khảo 1. Adegbola O, Okunowo A (2009) Intended postpartum contraceptive use among pregnant and puerperal women at a university teaching hospital. Arch GynecolObstet 280: 987-992. 2. Cleland J, Agudelo AC, Peterson H, Ross J, Tsui AO (2012) Family planning, contraception and health. Lancet 380: 149-156. 3. Committee Opinion No. 670 (2016) Immediate postpartum long-acting reversible contraception.. American College of Obstetricians and Gyne- cologists. Obstet Gynecol;128:e32–7 4. Committee Opinion No. 670 (2016) Immediate postpartum long-acting reversible contraception. American College of Obstetricians and Gyne- cologists. Obstet Gynecol;128:e32–7. 5. Committee Opinion No. 670 (2016) Immediate postpartum long-acting reversible contraception. American College of Obstetricians and Gyne- cologists. Obstet Gynecol;128:e32–7. 6. Curtis, K.M., Tepper, N.K., Jatlaou, T.C., Berry- Bibee, E., Horton, L.G., Zapata, L.B. et al. (2016) U.S. medical eligibility criteria for contraceptive use. MMWR Recomm Rep; 65:1–104. 7. Grimes DA, Lopez LM, Schulz KF, Van Vliet HA, Stanwood NL. (2010) Immediate post- partum insertion of intrauterine devices. Cochrane Database of Systematic Reviews, Issue 5. Art. No.: CD003036. DOI: 10. 1002/14651858.CD003036.pub2. (Systematic 17 TỔNG QUAN Y VĂN 6 Review) 8. Hillis SD1, Marchbanks PA, Tylor LR, Peterson HB. (1999) Poststerilization regret: findings from the United States Collaborative Review of Sterilization. Obstet Gynecol;93(6):889-95 9. Kathryn M. Curtis, Anshu P. Mohllajee, et als. (2006) Regret following female sterilization at a young age: a systematic review. Contraception; Volume 73, Issue 2, 205–210. 10. Ngo TD, Keogh S, Nguyen TH, Le HT, Pham KH, Nguyen YB. (2014) Risk factors for repeat abortion and implications for addressing unintended pregnancy in Vietnam. Int J Gynaecol Obstet;125(3):241-6. doi: 10.1016/j.ijgo.2013.11.014. Epub 2014 Mar 5. 11. Nicole Marcil-Gratton. (1988) Sterilization Regret Among Women in Metropolitan Montreal. Family Planning Perspectives, Vol. 20, No. 5, p 222-227 12. Nigussie AT, Girma D, Tura G (2016) Postpartum Family Planning Utilization and Associated Factors among Women who Gave Birth in the Past 12 Months, Kebribeyah Town, Somali Region, Eastern Ethiopia. J Women's Health Care 5: 340. doi: 10.4172/2167- 0420.1000340 13. Norman D Goldstuck Petrus S Steyn. (2013) Intrauterine contraception after cesarean section and during lactation: a systematic review. International Journal of Women’s Health; 5: 811–818 14. Ross JA, Winfrey WL (2001) Contraceptive use, intention to use and unmet need during the extended postpartum period. IntPerspect Sex Reprod Health 21: 20-27. 15. Subhi R, Ahmed H, Mawlood Z (2011) Spacing effects on maternal-child health. TMJ. 2011; 17 (2):1-6.) 16. Tạ Xuân Lan và Nguyễn Thị Ngọc Khanh (1999). Thái độ xử trí đối với sản phụ có sẹo mổ lấy thai cũ tại Viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh 1993-1994. Tạp chí thông tin y dược; Tr 157-161. 17. Trương Quốc Dũng, Nguyễn Hồng Hoa (2017). Tỉ lệ từ chối triệt sản trong lúc mổ lấy thai ở sản phụ có tiền căn mổ lấy thai 2 lần và các yếu tố liên quan. Y học TP.Hồ Chí Minh. Phụ bản tập 21, số 1, tr.108-12. 18. World Contraceptive Use 2012 (United Nations publication, POP/DB/CP/ Rev2012); 2013 Update for the MDG Database: Contraceptive Prevalence. (United Nations publication, POP/DB/CP/A/MDG2013); and 2013 Update for the MDG Database: Unmet Need for Family Planning (United Nations pub- lication, POP/DB/CP/B/MDG2013). 19. Zieman M, Hatcher RA., Allen A. Z., Lathrop E, Haddad L. Managing Contraception( 2016). Tiger, Georgia: Bridging the Gap Foundation, 2016. Hướng Dẫn Ngừa Thai. (Ấn bản tiếng Việt), 2016
File đính kèm:
- xu_tri_u_buong_trung_trong_thai_ky.pdf