Vấn đề ngữ pháp văn bản trong biên dịch Anh - Việt và việt-anh của sinh viên khoa tiếng Anh trường đại học sư phạm Tp Hồ Chí Minh
Bài viết nghiên cứu cách 45 sinh viên (SV) năm 3 chuyên ngành Biên-Phiên dịch khoa Anh Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSP TPHCM) xử lí vấn đề ngữ pháp văn bản trong các bản dịch Anh-Việt và Việt-Anh. Cứ liệu được thu thập từ một tập hợp bốn bài dịch và phân tích trên cơ sở lí thuyết về liên kết của Halliday (1976). Kết quả nghiên cứu cho thấy bước phân tích nghĩa trước khi dịch đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là khi đơn vị dịch vượt ra khỏi ranh giới của câu, do có liên kết nghĩa giữa các câu và do chuẩn mực của các phương tiện liên kết hình thức không phải lúc nào cũng tương đương trong 2 ngôn ngữ
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Vấn đề ngữ pháp văn bản trong biên dịch Anh - Việt và việt-anh của sinh viên khoa tiếng Anh trường đại học sư phạm Tp Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề ngữ pháp văn bản trong biên dịch Anh - Việt và việt-anh của sinh viên khoa tiếng Anh trường đại học sư phạm Tp Hồ Chí Minh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION JOURNAL OF SCIENCE ISSN: 1859-3100 KHOA HỌC GIÁO DỤC Tập 14, Số 7 (2017): 16-31 EDUCATION SCIENCE Vol. 14, No. 7 (2017): 16-31 Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website: 16 VẤN ĐỀ NGỮ PHÁP VĂN BẢN TRONG BIÊN DỊCH ANH-VIỆT VÀ VIỆT-ANH CỦA SINH VIÊN KHOA TIẾNG ANH TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thanh Tùng* Khoa Tiếng Anh – Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh Ngày Tòa soạn nhận được bài: 20-5-2017; ngày phản biện đánh giá: 25-5-2017; ngày chấp nhận đăng: 29-7-2017 TÓM TẮT Bài viết nghiên cứu cách 45 sinh viên (SV) năm 3 chuyên ngành Biên-phiên dịch khoa Anh Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSP TPHCM) xử lí vấn đề ngữ pháp văn bản trong các bản dịch Anh-Việt và Việt-Anh. Cứ liệu được thu thập từ một tập hợp bốn bài dịch và phân tích trên cơ sở lí thuyết về liên kết của Halliday (1976). Kết quả nghiên cứu cho thấy bước phân tích nghĩa trước khi dịch đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là khi đơn vị dịch vượt ra khỏi ranh giới của câu, do có liên kết nghĩa giữa các câu và do chuẩn mực của các phương tiện liên kết hình thức không phải lúc nào cũng tương đương trong 2 ngôn ngữ. Từ khóa: ngữ pháp văn bản, liên kết, nghĩa, chuẩn mực, các phương tiện liên kết hình thức. ABSTRACT Textual grammar problems encountered by the English Department students at Ho Chi Minh City University of Education in their English-Vietnamese and Vietnamese-English translation This paper investigates how 45 translation-interpretation major juniors at the Department of English in Ho Chi Minh City University of Education deal with the issues of textual grammar in their English-Vietnamese and Vietnamese-English translation. The data were collected from a set of four selected texts for translation and analyzed, based on the theoretical framework Halliday’s (1976) cohesion. The findings indicate that when the unit of transation goes beyond the boundary of a sentence, analyzing the meaning of a text before its translation plays an important part as there is cohesion in meaning between sentences and the norms of formal cohesive devices are not always equivalent in two languages. Keywords: textual grammar, cohesion, meaning, norm, formal cohesive devices. * Email: tungnth@hcmup.edu.vn 1. Dẫn nhập Ngày nay nhu cầu chuyển mã của hai ngôn ngữ, đặc biệt là tiếng Việt và tiếng Anh, tăng với tốc độ đáng kể do nhu cầu giao lưu và phát triển xã hội ngày càng cao. Nhu cầu này đòi hỏi phải nghiên cứu và giải quyết các vấn đề về dịch thuật không chỉ trên bình diện thực tiễn mà cả trên cơ sở lí luận khoa học, hay nói cách khác, trên bình diện lí thuyết dịch. Theo Catford, trong dịch thuật, kiến thức ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng, giúp phân tích chính xác những gì liên quan đến quá trình dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thanh Tùng 17 khác. Do dịch thuật liên quan đến ngôn ngữ, nên việc phân tích và miêu tả các quá trình dịch phải sử dụng đáng kể những phạm trù được xác lập để miêu tả ngôn ngữ (1965, p.vii). Chẳng hạn Nida và Taber đi theo hướng sử dụng ngôn ngữ học miêu tả để giải quyết các vấn đề trong dịch thuật. Trong chương về phân tích ngữ pháp, hai nhà nghiên cứu này đề cập các loại câu nòng cốt trong khi dịch, cách phân tích ngữ pháp của những loại câu này, rồi sau đó là chuyển di nghĩa bằng cách cấu trúc lại những loại câu này trong ngôn ngữ của người tiếp nhận. Hướng này chỉ dừng lại ở cấp độ ngữ pháp câu (1982, p.19). Cho đến nay, những người quan tâm đến công tác dịch thuật Việt-Anh và Anh-Việt ở Việt Nam cũng chủ yếu tập trung vào câu như là một đơn vị trong việc nghiên cứu ngôn ngữ và vì vậy cũng là đơn vị trong dịch thuật: các tài liệu luyện dịch của Nguyễn Thanh Lương (2000) và Hà Văn Bửu (2004). Khi xem đơn vị dịch không chỉ là những đơn vị ở cấp độ câu mà còn là những đơn vị lớn hơn câu, các nhà nghiên cứu đã đề nghị các cách tiếp cận khác nhau. Một trong những cách tiếp cận này là dùng ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday (1978), theo đó ngôn ngữ được sử dụng để thực hiện 3 chức năng sau: chức năng ý niệm/tư tưởng, chức năng liên nhân và chức năng ngôn bản. Đối với chức năng ngôn bản, ta cần chú ý đến việc tổ chức thông tin trong văn bản, cấu trúc văn bản, vấn đề đề hóa, cách kết nối các mệnh đề với nhau để tạo nên liên kết văn bản. Hướng dịch theo quan điểm chức năng đã được Bell (1991) sử dụng trong công trình về dịch thuật của mình. Có lẽ nghiên cứu trực tiếp liên quan đến một loại ngữ pháp không phải là ngữ pháp truyền thống trong dịch thuật là của Xue và Xie (2004). Hai tác giả này đã sử dụng ngữ pháp chức năng để đánh giá cách người dịch xử lí sự phân bố thông tin cũ và mới trong văn bản khi dịch từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích. Những nghiên cứu như thế này về ngữ pháp chức năng nói chung và về chuỗi đề trong dịch thuật không nhiều. Các vấn đề khác liên quan đến ngữ pháp trên câu cũng xảy ra tình trạng tương tự như vậy, như nhận định của hai nhà nghiên cứu này trong phần tóm tắt bài báo của mình: sách vở và các bài viết liên quan đến khía cạnh ngữ pháp diễn ngôn này mặc dù có, nhưng còn ít và không đi sâu vào chi tiết, hoặc nếu có thì cũng chỉ liên quan đến dịch văn bản nói chung. Đây là vấn đề chúng tôi quan tâm và cũng là hướng chúng tôi đề xuất khi phân tích và đánh giá các bản dịch của người học, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến liên kết văn bản trong dịch thuật. Trên thực tế, vấn đề này có tầm quan trọng trong dịch thuật do “sự liên kết, tính mạch lạc và việc tổ chức văn bản” là một trong các tiêu chí để đánh giá các bản dịch ngoài sự chính xác trong việc chuyển di thông tin, sự lựa chọn phù hợp từ vựng, thành ngữ, thuật ngữ và ngữ vực, sự chính xác trong các khía cạnh kĩ thuậ ... nh, nhưng nghĩa của cả câu lại không đúng như ý định ban đầu của tác giả trong ngôn ngữ nguồn. Từ mà ở đây được TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thanh Tùng 27 hiểu là “Bạn cần phải ý tứ” đến “nguyên tắc bất thành văn”. Nếu vậy, người đọc có thể đặt câu hỏi khi đọc bản dịch: “Nguyên tắc bất thành văn đó là gì?”. Chính vì vậy, cách dịch này không chuyển tải được thông điệp của tác giả nên không được xem là cách dịch đạt. Đối với nhóm 2 (5/40), mặc dù có từ đúng là ý tứ, nhưng việc thêm những từ khác, như khôn khéo, chu đáo, quan tâm đến gia chủ, đừng nên làm mích lòng gia chủ, lại làm ý của ngôn ngữ nguồn chệch đi, không đúng với ý định ban đầu của tác giả: phải giữ gìn ý tứ, không được đòi hỏi vì ở nhà trọ chứ không phải ở khách sạn, chứ không phải quan tâm đến gia chủ và đừng làm mếch lòng gia chủ. Việc phân tích ở trên cho nhóm 2 dẫn đến kết quả là cách dịch đối với nhóm 3 (9/40) với từ chính là quan tâm là không thỏa đáng. Thể hiện rõ nhất là cách dịch cuối cùng trong nhóm này, khác xa so với ý định của tác giả văn bản nguồn. Tương tự, cách dịch trong nhóm 4 (8/40) với các từ như chu đáo, ân cần, hoặc là kết hợp của cả hai từ này không phản ánh đúng ý định của tác giả ngôn ngữ nguồn. Có thể thấy rõ trong văn bản của ngôn ngữ nguồn, dù rằng có chỗ trong đoạn văn tác giả dùng ngôi thứ hai, chủ đề của đoạn văn là về du khách chứ không phải chủ nhà. Cách dịch của SV trong 2 nhóm 5 và 6 cũng có thể chấp nhận được mặc dù nghĩa không được chuẩn xác như trong nhóm 1. Nhóm cuối cùng (1/40) thấy khó xác định nghĩa nên bỏ không dịch, còn nhóm kế cuối (4/40) lại diễn đạt sai ý ban đầu. Theo cách dịch trong nhóm 6, tính từ considerate được cấu tạo từ động từ consider nên được dịch thành cân nhắc hoặc nhớ và chủ từ của câu là The only rule of thumb được dịch như trên là nguyên tắc được dùng để bổ nghĩa cho động từ này. Cách hiểu này rõ ràng không phải ánh đúng ý định của tác giả ngôn ngữ nguồn. Đối với câu 8 trong Bài 3, cách dịch của SV được chia thành 2 nhóm: có kết nối ý một cách tường minh (7/40) và không có kết nối ý một cách tường minh (33/40). Phần phân tích cũng lưu ý cách dịch đại từ they từ tiếng Anh sang tiếng Việt và cách dịch của SV được phân thành ba nhóm: (1) dùng họ (2+18 = 20/40), (2) dùng du khách/ khách/ khách trọ (4+11=15), và (3) dùng bạn (1+4=5/40). Cụ thể, nhóm có kết nối ý một cách tường minh, sử dụng các cách diễn đạt để nêu lên mối liên kết giữa câu này với câu trước (câu 7) một cách tường minh. Các cách dịch này tiếp tục được phân thành 2 nhóm: (1) quy chiếu trực tiếp vào những việc du khách phải làm trong câu trước (nghĩa là tự trang bị khăn tắm và tự dọn giường vào buổi sáng), dùng: Những việc như vậy (S14), Nhờ những việc này (S29), Họ sẽ làm các việc này (S43), và (2) nói chung hơn: Đến với những nhà trọ gia đình này (S18), Điều này (S19, S35), Cuộc sống ở đây (S22). Cách dịch của SV nhóm 1 rõ ràng có liên kết tốt hơn cách dịch của SV nhóm 2 do xác định được vật quy chiếu chính xác hơn trong câu trước. Trong câu 8 này, ngoài liên kết nội dung với câu trước, còn có điểm ngữ pháp trên câu là vấn đề quy chiếu. Trong tiếng TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 7 (2017): 16-31 28 Anh, như đã trình bày trong phần lí luận, đại từ được sử dụng trong câu trước. Khi dịch sang tiếng Việt, SV chọn 3 cách: (1) vẫn dùng đại từ trong tiếng Việt là họ (20/40); (2) dùng lặp từ vựng: (du) khách (trọ) (15/40); và dùng từ bạn (5/40). Rõ ràng, cách dùng lặp từ vựng phù hợp với ngôn ngữ đích hơn. 4.1.4. Bài 4 Dịch Anh – Việt: Fire up the knee top Có 4 SV vắng buổi học (S24, 27, 30, và 38), nên cứ liệu cho bài này được thu thập từ 41/45 SV. Cách dịch của SV đối với trạng từ instead rất đa dạng và được nhóm thành 5 nhóm khi phân tích theo nghĩa: (1) dùng “thay vào đó” để liên kết ý với câu trước (13/41); (2) dùng các hình thái sau để liên kết ý trong câu 4 này mà thôi: “thay vì”; “tuy nhiên”, “thay vì”; “mặc cho”; “mặc dù”; “trong khi”; “nhưng”; “nếu” (18/41); (3) dùng “nhưng thay vì vậy”, “nhưng thay vào đó” (3/41); (4) dùng “tuy nhiên”, “thế nhưng” (5/41); và (5) dịch câu nhưng không có từ này (2). Có thể thấy rõ SV bám vào đặc điểm của ngôn ngữ nguồn khi dịch: dùng “thay vào đó”, “thay vì” với tần số 25/41 để liên kết ý với câu trước, câu 3 (trong nhóm 1) và trong nội bộ câu này, câu 4 (trong nhóm 2). Cách dịch trong nhóm 1 có thể tạm chấp nhận được dù liên kết chưa được làm rõ lắm thông qua cách dùng từ nối này, đặc biệt là trong ngôn ngữ đích, tiếng Việt. Còn đối với nhóm 2, rõ ràng cách dịch của SV khác xa với ý định của tác giả. Cách dịch của SV nhóm 4 rõ ràng thể hiện đúng mối liên kết ban đầu trong ngôn ngữ nguồn, còn nhóm 3 cũng chấp nhận được dù cách dịch không được gãy gọn trong cách dùng từ ngữ. Đối với điểm ngữ pháp trên trong Bài 4 này, việc sử dụng đại từ it trong ngôn ngữ nguồn là tiếng Anh trong câu 5 được SV hiểu vật quy chiếu trong câu trước hoặc trước nữa khác nhau và vì vậy đã đưa ra 6 cách chuyển di nghĩa khác nhau cho cùng một đại từ này: (1) dùng từ hãng Sony (2/41), Sony (10/41), hãng (7/41), công ti (4/41) (tổng là 31/41); (2) dùng gã khổng lồ này (1/41); dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít nó (1/41), ngôi thứ ba số nhiều họ (4/41), ngôi thứ nhất số nhiều chúng ta (1/41) (tổng là 6/41); dùng từ Nhật (Bản) hoặc quốc gia này (3/41); (5) dùng điện tử Nhật Bản (1/41); và (6) dịch câu này nhưng bỏ đại từ này trong bản dịch (7/41). Như vậy, đa số SV dùng lặp từ vựng hoàn toàn trong ngôn ngữ đích (tiếng Việt) để dịch đại từ ngôi thứ ba số ít it trong ngôn ngữ nguồn (tiếng Anh). Cách dịch trong nhóm 1 là chấp nhận được theo các chuẩn mực của ngôn ngữ đích. 4.2. Bình luận kết quả nghiên cứu 4.2.1. Vấn đề SV gặp phải Trong bài 1, có thể thấy SV gặp khá nhiều khó khăn khi xử lí văn bản nguồn do hình thái dùng để biểu đạt nội dung liên quan đến ngữ pháp văn bản là hoàn toàn khác nhau trong ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Ngoài những trường hợp dựa hoàn toàn vào quy tắc ngữ pháp trên câu trong tiếng Việt để dịch sang tiếng Anh, rõ ràng SV có nhận thức về các chuẩn mực trong tiếng Anh như ngôn ngữ đích trong khi dịch và đã cố gắng xử lí hình thái cho đúng với nội dung theo cách hiểu của TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thanh Tùng 29 mình. Khi đã xác định được đúng nghĩa, SV đã dùng các hình thái khác nhau mà mình đã học để chuyển tải nội dung. Tuy vậy, trong đa phần các trường hợp, số SV xử lí tốt cả nghĩa lẫn hình thái vẫn thuộc thiểu số. Trong bài 2, đa số SV chưa làm tốt công việc chuẩn bị trước khi dịch, đặc biệt là trong quá trình đọc và phân tích văn bản ban đầu. SV dựa hẳn vào kiến thức mình đã biết về những từ ngữ khá quen thuộc và dùng ngữ cảnh quen thuộc để dịch những từ ngữ này, chưa chú ý đến các mối liên kết từ vựng giữa 2 câu liền kề nhau trong văn bản. Có thể thấy rằng không phải lúc nào nghĩa trong từ điển cũng có thể giúp người học, đặc biệt là khi phải xác định nghĩa của từ trong ngữ cảnh cụ thể của bài viết, khi nghĩa bị chi phối bởi yếu tố từ vựng trong câu trước. Bài 3 có thể được xem như một điển hình về việc phải chú ý đến vấn đề ngữ pháp trên câu trong khi dịch vì nếu không kết quả sẽ là một bản dịch hoàn toàn khác với ý định của tác giả. Sự đa dạng trong cách dịch của SV đối với vấn đề đầu tiên được xem xét cho thấy SV chưa thực sự hiểu đúng nghĩa của câu do quan hệ nghĩa giữa hai câu cận kề không được tường minh bằng cách dùng từ nối ý, và trong trường hợp này là ý của câu sau quyết định việc dịch nghĩa câu đang xét. Việc không chú ý đến hai câu liền kề trong khi dịch dẫn đến hệ lụy tiếp theo là cách dịch của SV thường không làm rõ được mối quan hệ về nghĩa trong ngôn ngữ đích, dẫn đến việc không thể có được một bản dịch hay. Bài 4 cũng gây khá nhiều khó khăn cho SV dù rằng phương tiện liên kết hình thức giữa hai câu liền kề là tường minh trong ngôn ngữ nguồn. Nguyên nhân có thể là do SV không xác định được chính xác mối quan hệ nghĩa câu có từ nối này và câu trước. Do đó, khá nhiều trường hợp lại nghĩ rằng liên kết tồn tại trong nội bộ câu, dẫn đến cách dịch không đúng với ý định của tác giả. Khá nhiều hình thái được sử dụng, một mặt thể hiện sự cân nhắc, thận trọng của SV trong việc xác định nghĩa văn bản cần dịch, mặt khác thể hiện sự bối rối, lúng túng trong quá trình xác định nghĩa này. Điểm đáng mừng đối với bài này là SV đã bắt đầu có nhận thức về vấn đề ngữ pháp trên câu, đặc biệt là phép quy chiếu dùng đại từ. 4.2.2. Cách xử lí của SV Trong bài 1, SV đã dùng nhiều cách khác nhau để xử lí bản dịch của mình khi gặp phải những vấn đề thuộc ngữ pháp trên câu. Nổi trội nhất trong các cách này vẫn là dựa vào đặc điểm của tiếng Việt như ngôn ngữ nguồn khi chuyển di sang tiếng Anh như ngôn ngữ đích. Tuy vậy, nếu lí giải vấn đề theo một hướng tích cực hơn, thì ta có thể nói SV đã áp dụng chiến lược đơn giản hóa các quy tắc ngữ pháp trên câu trong ngôn ngữ đích là tiếng Anh bằng cách chuyển di các quy tắc có sẵn trong ngôn ngữ nguồn là tiếng Việt. Trong bài 2, rõ ràng SV có ý thức dịch sao cho nghe có vẻ tự nhiên đối với độc giả trong ngôn ngữ đích bằng cách áp dụng kĩ thuật bỏ, không dịch từ có trong ngôn ngữ nguồn do thấy rằng nếu đưa vào bản dịch nghe rườm rà, không tự nhiên. TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 7 (2017): 16-31 30 Song, SV vẫn gặp nhiều khó khăn khi xác định nghĩa của từ trong văn cảnh và ảnh hưởng của nghĩa câu trước đối với nghĩa của câu đang xét. Để giải quyết vấn đề này, cách thường dùng vẫn là bám sát văn bản nguồn và dùng kiến thức sẵn có về nghĩa của từ để dịch từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích dù rằng cách xử lí như thế này không đảm bảo nghĩa của từ trong văn cảnh, không bảo đảm nghĩa của từ trong câu này trong mối quan hệ với nghĩa của từ trong câu trước. Trong bài 3, việc xác định nghĩa của câu đang xét là khá khó khăn do liên kết nghĩa giữa 2 câu liền kề không dễ xác định: câu đang xét có thể có liên kết nội dung với câu trước hoặc câu sau dù rằng từ trong câu đang xét là từ khá quen thuộc. Khi không xác định rõ mối quan hệ về nghĩa, cách xử lí của SV vẫn là dựa vào kiến thức có sẵn về nghĩa của từ hoặc dùng từ điển. Đây vẫn được xem là nỗ lực của người học khi gặp khó khăn trong quá trình dịch. Thêm vào đó, người học không quan tâm làm rõ sự liên kết giữa hai câu liền kề do không phải lúc nào cũng dễ xác định, và vì vậy, chiến lược được sử dụng vẫn là bám vào cấu trúc của văn bản nguồn, dù mối liên kết không được làm rõ thông qua phương tiện liên kết hình thức trong văn bản nguồn, giúp người đọc dễ tiếp thu hơn. Trong bài 4, SV cũng gặp khó khăn trong việc xác định liên kết giữa các câu trong một đoạn văn dù rằng phương tiện liên kết hình thức khá tường minh trong ngôn ngữ nguồn là tiếng Anh. Khi gặp khó khăn như vậy, cũng như các trường hợp trước trong các bài từ 1 đến 3, SV dựa vào hình thức của ngôn ngữ nguồn, được xem như một chiến lược phổ biến trong quá trình dịch. 5. Kết luận Kết quả nghiên cứu, như đã được phân tích và bình luận ở chương trước, giúp trả lời 2 câu hỏi nghiên cứu đặt ra ở đầu bài viết: 1. Liên kết nội dung gây khó khăn lớn nhất cho SV vì trong phần lớn các trường hợp SV không xác định được loại nghĩa theo đúng ý định của người viết trong ngôn ngữ nguồn, tiếp theo là các trường hợp hình thái không tương đương trong hai ngôn ngữ để diễn đạt cùng loại ngữ nghĩa do các phương tiện liên kết hình thức trong hai ngôn ngữ không phải lúc nào cũng giống nhau. Người học ít gặp khó khăn đối với các trường hợp có sự tương đồng cả về cả nội dung lẫn hình thức. 2. Có thể thấy rõ trong phần lớn các trường hợp khi gặp khó khăn do không xác định được liên kết nội dung hoặc do hình thái không tương đồng trong hai ngôn ngữ, người học thường bám sát vào ngôn ngữ nguồn như là cứu cánh duy nhất mà họ có thể có được vào thời điểm đó. Dù đây không phải là sự lựa chọn tốt nhất nhưng thiết nghĩ cũng giúp người học phần nào giải quyết những khó khăn trong quá trình dịch. Tín hiệu đáng mừng là khi những vấn đề này được thảo luận và chỉ ra trên lớp, người học bắt đầu có nhận thức về vai trò của ngữ pháp văn bản và có chú ý khi dịch trong các giờ học tiếp theo. TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thanh Tùng 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Thanh Lương. (2000). Phương pháp cơ bản dịch Việt Anh & ngữ pháp. NXB Đồng Nai. Nhóm EIL. (2006). Cẩm nang Luyện dịch báo chí Anh – Việt Việt – Anh. TP Hồ Chí Minh: NXB Thanh niên. Nida, E. A., & Taber, C. R. (1982). The theory and practice of translation. E. J. Brill, Leiden. Trần Ngọc Thêm. (1985). Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Trương Quang Phú. (2008). 56 bài luyện dịch Anh – Việt Việt – Anh. Cà Mau: NXB Phương Đông. BBC. (2009). Goldman Sachs sees strong results. Retrieved from Catford, J. C. (1965). A linguistic theory of translation: An essay in applied linguistics. Aylesbury, Bucks: Hazell Watson & Viney Ltd. Bell, R. T. (1991). Translation and translating: Theory and practice. London: Longman. Hà Văn Bửu. (2004). Những mẫu câu Anh – Việt Việt – Anh (Tái bản lần thứ 3). NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. Halliday, M. A. K., & Hasan, R. (1976). Cohesion in English. London: Longman. Larson, M. L. (1998). Meaning-based translation: A guide to cross-language equivalence (2nd ed.). Lanham: University Press of America, Inc. Munday, J. (2008). Introducing translation studies: Theories and applications (2nd ed.). London: Routledge. Newmark, P. (1988). A textbook of translation. New York: Prentice Hall.
File đính kèm:
- van_de_ngu_phap_van_ban_trong_bien_dich_anh_viet_va_viet_anh.pdf