Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế

Ở cơ chế quản lý thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang - Cầu Hai các làng

nông nghiệp ven phá là các chủ thể được nhà nước ủy thác quản lý; các vạn ngư

dân chịu sự quản lý của các làng chủ quản. Làng và vạn là hai chủ thể cộng đồng

giữ vai trò quản lý quyết định tạo nên một cơ chế quản lý truyền thống đầm phá

Tam Giang – Cầu Hai đậm chất cộng đồng và có thể được gọi là Quản lý cộng

đồng dựa vào làng và vạn. Ở mô hình quản lý này yếu tố nhà nước rất mờ, yếu tố

cộng đồng nổi bật: chủ thể làng - vạn có được một không gian tự quản rõ nét nhờ

đó hai chủ thể thể cộng đồng này đã phát huy năng lực của mình trong quản lý

nghề thủy sản và nguồn lợi ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai

Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 1

Trang 1

Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 2

Trang 2

Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 3

Trang 3

Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 4

Trang 4

Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 5

Trang 5

Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 6

Trang 6

Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 7

Trang 7

Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 8

Trang 8

Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 9

Trang 9

Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 10480
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế

Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang – Cầu hai, tỉnh Thừa Thiên Huế
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 12, Số 2 (2018) 
197 
VAI TRÒ CỦA LÀNG VÀ VẠN TRONG QUẢN LÝ NGHỀ KHAI THÁC 
THỦY SẢN TRUYỀN THỐNG Ở ĐẦM PHÁ TAM GIANG – CẦU HAI, 
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 
Tôn Thất Pháp1*, Nguyễn Thị Kim Anh2, Mai Ngọc Châu3 
1Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế 
2 Trung tâm Nghiên cứu và phát triển vùng duyên hải, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế 
3Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế 
*Email: tonthatphap@gmail.com 
Ngày nhận bài: 4/4/2018; ngày hoàn thành phản biện: 18/5/2018; ngày duyệt đăng: 8/6/2018 
TÓM TẮT 
Ở cơ chế quản lý thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang - Cầu Hai các làng 
nông nghiệp ven phá là các chủ thể được nhà nước ủy thác quản lý; các vạn ngư 
dân chịu sự quản lý của các làng chủ quản. Làng và vạn là hai chủ thể cộng đồng 
giữ vai trò quản lý quyết định tạo nên một cơ chế quản lý truyền thống đầm phá 
Tam Giang – Cầu Hai đậm chất cộng đồng và có thể được gọi là Quản lý cộng 
đồng dựa vào làng và vạn. Ở mô hình quản lý này yếu tố nhà nước rất mờ, yếu tố 
cộng đồng nổi bật: chủ thể làng - vạn có được một không gian tự quản rõ nét nhờ 
đó hai chủ thể thể cộng đồng này đã phát huy năng lực của mình trong quản lý 
nghề thủy sản và nguồn lợi ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. 
Từ khóa: đầm Phá Tam Giang- Cầu Hai, làng, vạn, quản lý dựa vào cộng đồng. 
1. MỞ ĐẦU 
Quản lý dựa vào cộng đồng là hình thức quản lý ở đó cộng đồng được trao cơ 
hội, trách nhiệm và quyền hạn để tham gia quản lý tài nguyên mà cuộc sống cộng 
đồng dựa vào. Ở đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (TG-CH), phương thức quản lý thủy 
sản truyền thống đã tồn tại qua quá trình lịch sử lâu dài và không lúc nào không gắn 
kết với cộng đồng [8]. Tinh hoa của quản lý truyền thống đã được thế giới ngày nay 
công nhận *8+. Và đối với Việt Nam việc hợp nhất vạn chài vào cấu trúc quản lý nghề 
cá có thể là một hướng gợi mở nhằm góp phần giải quyết những vấn đề chủ yếu của 
quản lý nghề cá ven bờ [8]. Tuy nhiên, trên thực tế vai trò của vạn chài trong hệ thống 
quản lý hiện nay đã không còn được chú trọng và hầu như dần dần bị phai nhạt dần. 
Vì vậy, nghiên cứu “Vai trò của làng và vạn chài trong quản lý nghề khai thác thủy sản 
Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang  
198 
truyền thống ở đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế” sẽ là khía cạnh 
góp phần nhận diện những tinh hoa của quản lý truyền thống mà từ đó có thể vận 
dụng vào hệ thống quản lý nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống quản lý đầm phá 
TG-CH hiện nay. 
2. PHẠM VI VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Phạm vi nghiên cứu 
Vùng đầm phá từ cửa Thuận An đến vùng Cầu Hai. Các địa bàn khảo sát gồm: 
xã Phú An, Phú Mỹ, Phú Xuân, Vinh Hà, Vinh Hưng, huyện Phú Vang; xã Vinh Hiền, 
xã Lộc Bình, huyện Phú Lộc; xã Hương Vinh, huyện Hương Trà. 
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 
2.2.1.Thu thập dữ liệu thứ cấp 
Các dữ liệu thứ cấp về hoạt động nghề cá và quản lý khai thác thủy sản ở vùng 
đầm phá Tam Giang được thu thập qua các báo cáo tổng kết của các xã nghiên cứu; các 
báo cáo kết quả của các dự án liên quan đến quản lý tài nguyên thủy sản đầm phá TG-
CH, các đề tài luận văn liên quan về quản lý nguồn lợi thủy sản. 
2.2.2. Thu thập dữ liệu sơ cấp 
Tiến hành phỏng vấn nhóm nhằm tìm hiểu vai trò của cộng đồng trong tham 
gia hoạt động quản lý nghề thủy sản đầm phá. Tìm hiểu cũng như đánh giá vai trò của 
các tổ chức cộng đồng cư dân đầm phá trong quản lý nghề khai thác và bảo vệ nguồn 
lợi thủy sản đầm phá. Đặc biệt thực hiện những phỏng vấn hồi cố đối với những cư 
dân lớn tuổi để tìm hiểu về hoạt động của các vạn, vai trò của các vạn trong quản lý 
nghề thủy sản đầm phá. 
2.2.3. Tổ chức hội thảo 
Gặp gỡ, chia sẻ kết quả nghiên cứu với các chuyên gia và chính quyền, các 
chuyên viên của sở ban ngành, cộng đồng địa phương thông qua các cuộc họp làm việc 
và hội thảo khoa học. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Cƣ dân đầm phá 
Đầm phá TG-CH là một thủy vực ven biển rộng, nhận nước ngọt của nhiều 
sông như sông Hương, sông Ô Lâu, sông Đại, sông Cầu Hai, sông Truồi và tiếp xúc với 
biển qua 2 cửa Thuận An và Tư Hiền. Sự giao hòa hai khối nước ngọt mặn này mang 
đến cho phá một môi trường nước lợ đặc trưng và nguồn lợi thủy sản phong phú. Bên 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 12, Số 2 (2018) 
199 
cạnh đó, về mặt địa mạo, thủy vực phá TG-CH thuộc kiểu hình gần kín nên xét ở khía 
cạnh tác động của sóng gió thì đầm phá khá an toàn về mặt cư trú và hoạt động nghề 
thủy sản ở phá. Chính đặc điểm môi trường này đầm phá đã lôi cuốn một cộng đồng 
cư dân quần cư sinh sống ở ven và trên đầm phá. 
Cư dân Việt đến đầm phá này có thể từ phía Bắc vào thời Lý và phía Nam ra 
khi Nguyễn Huệ mang một số dân từ Quy Nhơn về Thuận Hóa để tăng thêm uy lực 
[3]. Theo sinh kế và cư trú cư dân đầm phá chia làm hai cộng đồng: Cộng đồng cư dân 
làm nông sinh sống ở đất liền hình thành nên các làng nông nghiệp ven đầm phá; cư 
dân sống ở thuyền mưu sinh bằng nghề khai thác thủy sản quần cư thành cộng đồng 
ngư dân dân thủy diện đầm phá. 
Cộng đồng ngư dân thủy diện gồm hai thành phần: ngư dân Đại nghệ (nghề 
lớn) và ngư dân Tiểu nghệ (nghề nhỏ). Ngư dân Đại nghệ hoạt động nghề bằng ngư cụ 
gắn cố định vào đáy đầm phá và phải tham gia đấu thầu ngư trường để khai thác. Các 
Đại nghệ tiêu biểu là nò sáo, đáy. Ngư dân Tiểu nghệ làm nghề đánh bắt thủy sản bằng 
các ngư cụ di động, không cần vốn lớn và cũng không phải đấu thầu ngư trường khai 
thác, ví dụ nghề lưới, xẻo, xiết, câu<Ngư dân đại nghệ và tiểu nghệ cùng chung sinh 
sống và hợp thành các cụm cư dân phân bố khắp đầm phá. Mỗi một đơn vị ngư dân tụ 
cư này được gọi là vạn. Vạn được xây dựng dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống, tín 
ngưỡng, hôn nhân và nghề nghiệp. Mỗi vạn có vạn trưởng do ngư dân bầu lên để điều 
hành vạn. 
3.2. Vai trò của làng, vạn trong cơ chế quản lý tài nguyên đầm phá truyề ... i tuần đinh gồm 10 người dân trẻ của làng đảm đương việc tuần tra kiểm soát hoạt 
động khai thác của ngư dân, đồng thời khảo sát đo đạc kích cỡ các trộ sáo làm cơ sở 
cho việc định mức thuế. Ngoài ra, làng còn cử một người dân của làng chuyên trách 
theo dõi và tường trình tình hình hoạt động khai thác của ngư dân nhằm giúp Ban 
quản lý đầm phá nắm được tình cảnh hoạt động nghề của ngư dân từ đó xem xét điều 
chỉnh mức thuế phù hợp, bảo đảm ổn định cuộc sống cho ngư dân. Bộ máy quản lý 
này đã giúp làng Thủy Tú, dù tọa lạc ở vị trí rất xa đầm, quản lý hiệu quả hoạt động 
nghề khai thác thủy sản cũng như nguồn lợi thủy sản ở đầm. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 12, Số 2 (2018) 
201 
3.3. Vai trò làng, vạn trong cơ chế quản lý khai thác thủy sản đầm phá ở các hệ thống 
quản lý sau thời kỳ nhà nƣớc phong kiến 
3.3.1. Thời kỳ nhà nước thuộc Pháp 
Vào thời kỳ đất nước thuộc Pháp tuy đầm phá được xếp vào loại tài nguyên 
của Nhà nước Pháp *1+ nhưng đầm phá TG-CH vẫn do chính quyền địa phương quản 
lý và nộp thuế cho Nhà nước. Và cơ chế quản lý hoạt động khai thác thủy sản đầm phá 
do các làng chủ quản điều hành vẫn được duy trì thực hiện. 
3.3.2. Thời kỳ chính quyền Việt Nam Cộng hòa 
Hệ thống quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn thừa nhận phương 
thức quản lý đầm phá dựa trên sự phối hợp làng chủ quản ở đất liền và vạn. Đặc biệt 
vào thời kỳ này chính quyền cho phép thành lập Nghiệp đoàn ngư nghiệp. Ở đầm Đả 
Nghiệp đoàn ngư nghiệp gồm 12 phân hội được xây dựng trên cơ sở 12 vạn và mỗi 
phân hội do trưởng vạn điều hành. Nghiệp đoàn ngư nghiệp đầm Đả hoạt động hiệu 
quả. Thành công trong đấu tranh hạ giảm mức thuế của làng Hà Trung đã mang lại 
niềm tin cho ngư dân về hoạt động bảo vệ quyền lợi ngư dân của nghiệp đoàn. Ngược 
lại, ở đầm Thủy Tú, thất bại trong yêu sách dành quyền quản lý và hưởng dụng mặt 
nước đầm phá từ làng Thủy Tú nghiệp đoàn ngư nghiệp tự tan rã. 
Với những hoạt động ban đầu dù có cả điểm sáng và tối, sự có mặt nghiệp 
đoàn ngư nghiệp cũng đánh dấu một mốc chuyển hướng quản lý giúp ngư dân có 
điều kiện để hoạt động trong một tổ chức nghề nghiệp chính danh nhờ đó tiếng nói 
của ngư dân có trọng lượng hơn và vai trò của ngư dân trong quản lý được nâng lên vị 
trí có thể cho là đối tác của làng chủ quản và đủ mạnh để bảo vệ quyền lợi của mình. 
3.3.3. Hệ thống quản lý của nhà nước CHXHCN Việt Nam 
Sau 30 tháng 4 năm 1975, khi chuyển sang hệ thống quản lý của nhà nước 
CHXHCN Việt Nam, đầm phá là tài sản thuộc quyền sở hữu toàn dân, mặt nước đầm 
phá được phân chia lại theo địa giới của xã và xã là đơn vị hành chính trực tiếp quản 
lý. Các làng chủ quản đầm phá trước đây không còn nằm trong hệ thống quản lý đầm 
phá, các vạn ngư dân bị giải thể và ngư dân được tổ chức thành các tập đoàn sản xuất 
hay đội ngư nghiệp được quản lý bởi chính quyền xã theo mô hình hợp tác xã nông 
nghiệp. Sang thời kỳ đất nước đổi mới và mở cửa (1986) chế độ bao cấp bị xóa bỏ và cơ 
chế quản lý hoạt động nghề thủy sản dựa theo hình thức tập thể hóa cũng tan rã, ngư 
dân được trở về với hình thức sản xuất theo hộ. Năm 2005 Chi hội nghề cá đầm phá ra 
đời. Đây là loại hình tổ chức xã hội - nghề nghiệp đầu tiên ở đầm phá được công nhận 
về mặt pháp lý [2] và trở thành đối tác chính thức của Đồng quản lý nghề cá ở đầm 
phá TG-CH [4]. 
Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang  
202 
3.4. Thảo luận 
Mặc dù theo một kiểu quản lý chung nhưng mỗi làng chủ quản vẫn có những 
thay đổi tạo nên nét quản lý riêng phù hợp với điều kiện địa bàn của mình. Những 
khác biệt thể hiện ở cơ chế đấu thầu mặt nước, sự hợp tác giữa làng và ngư dân trong 
quản lý. 
Với Đầm Đả, là thủy vực rộng lớn, làng Hà Trung áp dụng chế độ đấu thầu 
toàn đầm và đối tượng dự đấu là thành phần có nguồn lực. Cách đấu này giúp làng 
tiết kiện thời gian và công sức trong thu thuế từ ngư dân nhờ đó hoàn thành nghĩa vụ 
thuế cho nhà nước đúng thời hạn. Với đầm Sam và đầm Chuồn, do mặt nước không 
lớn nên sự quản lý ở đây đơn giản hơn. Các làng chủ quản chỉ cho đấu ngư trường 
khai thác của nghề cố định nò sáo mặt nước còn lại dành cho ngư dân nghề tiểu nghệ 
và làng chủ quản không thu phí. Ngược lại, ở đầm Thủy Tú, làng chủ quản áp dụng 
chế độ đấu thầu mặt nước dành cho ngư dân và các trưởng vạn là đại diện. Hình thức 
đấu thầu này giúp ngư dân khỏi phải chịu thêm áp lực của một thành phần quản lý 
trung gian đó là phái viên hay chủ trộ như ở cơ chế quản lý ở đầm Đả và đầm Sam - 
Chuồn. 
Về quản lý, sự phối hợp giữa Làng - Chủ đầm - Vạn (ngư dân) tạo nên trục 
quản lý cộng đồng của cơ chế quản lý truyền thống. Trục quản lý này biểu hiện rõ ở 
đầm Đả qua ba thành phần làng, phái viên và vạn. Trong khi ở làng Thủy Tú bỏ đi 
thành phần trung gian chủ đầm, chỉ có làng và vạn phối hợp với nhau trong một đơn 
vị quản lý gọi là Ban quản lý đầm phá. So với kiểu quản lý của các làng Hà Trung, Mỹ 
Lam và An truyền, phương thức quản lý nghề khai thác thủy sản ở đầm phá của làng 
Thủy Tú đặt trọng tâm nhiều vào ngư dân, gắn kết nhiều với ngư dân và quan tâm 
nhiều đến quyền lợi của ngư dân. 
Tất cả các làng Hà Trung, Mỹ Lam và An Truyền và Thủy Tú đều là phi ngư 
nghiệp nên rất khó am tường về hoạt động nghề cũng như tài nguyên thủy sản và môi 
trường đầm phá. Vì thế các làng đều khôn khéo vận dụng Tri thức-Kinh nghiệm của 
ngư dân vào quản lý đầm phá. Tri thức-Kinh nghiệm của ngư dân là yếu tố quyết định 
sự hiệu quả của cơ chế quản lý truyền thống nghề khai thác thủy sản ở đầm phá TG-
CH. Yếu tố này tạo nên sự gắn kết giữa làng chủ quản với các vạn ngư dân, đưa ngư 
dân khỏi vị trí đơn thuần là thành phần lao động mưu sinh, một dạng “tá điền đầm 
phá” chịu sự điều hành của các “làng chủ điền”, lên một mức cao hơn mà trong chừng 
mực nhất định có thể coi là đối tác để cùng làng chủ quản phối hợp quản lý tài nguyên 
thủy sản đầm phá. 
Làng và vạn là hai cộng đồng nông nghiệp và ngư nghiệp có tính cố kết cộng 
đồng cao. Trong một không gian tự quản có được từ nhà nước, hai chủ thể cộng đồng 
này đã quản lý hiệu quả nghề khai thác thủy sản cũng như bảo vệ nguồn lợi thủy sản 
đầm phá. Song hành hợp tác quản lý giữa làng chủ quản nông nghiệp và vạn là nét đặc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 12, Số 2 (2018) 
203 
thù của phương thức quản lý truyền thống ở phá TG-CH. Và có thể gọi đây là mô hình 
quản lý truyền thống nghề thủy sản dựa vào cộng đồng làng – vạn. 
Mô hình quản lý cộng đồng dựa vào làng - vạn ở đầm phá TG-CH vận hành và 
tồn tại qua một thời gian khá dài. Sau thời kỳ nhà nước phong kiến, cơ chế quản lý dựa 
vào làng - vạn vẫn tồn tại ở thời kỳ nhà nước thuộc Pháp. Dưới thời chính quyền Việt 
Nam Cộng hòa với sự ra đời của nghiệp đoàn ngư nghiệp cơ chế quản lý nghề thủy 
sản đầm phá truyền thống có sự cải biên theo xu hướng tạo cơ hội và quyền để ngư 
dân quản lý và bảo vệ quyền lợi của mình trong hoạt động nghề khai thác thủy sản 
đầm phá. Mô hình quản lý đầm phá truyền thống dựa vào chủ thể làng - vạn dịch sang 
quản lý dựa vào chủ thể làng và nghiệp đoàn ngƣ nghiệp. Tiếc thay mô hình quản lý 
nghề thủy sản đầm phá dựa vào làng - nghiệp đoàn ngư nghiệp chỉ hoạt động trong 
một thời gian ngắn rồi kết thúc và hoạt động nghề thủy sản ở đầm phá lại được quản 
lý theo cơ chế quản lý dựa vào làng - vạn. 
Sang hệ thống quản lý của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau 
1975, mô hình quản lý truyền thống dựa vào làng - vạn bị xóa bỏ thay vào đó là cơ chế 
quản lý coi trọng yếu tố nhà nước. Đây là sự thay đổi lớn về cơ chế quản lý hoạt động 
thủy sản ở đầm phá này: Bỏ đi sự hỗ trợ quản lý của cộng đồng làng - vạn chính quyền 
đã đánh mất đi “cánh tay tự trị vươn đến ngóc ngách các hoạt động ngư dân trên phá” 
[6] để rồi riêng một mình chính quyền không kham nổi đưa đến quản lý không thành 
công. Mãi tới năm 2005, yếu tố cộng đồng mới được xem xét lại và cơ chế Đồng quản lý 
được vận dụng vào quản lý nghề cá đầm phá TG-CH với đối tác chính là chi hội nghề 
cá. 
Tuy vậy, qua hơn 10 năm thực hiện đồng quản lý, cơ chế Đồng quản lý nghề cá 
đầm phá vẫn không thoát khỏi phương thức quản lý cọi trọng yếu tố nhà nước, yếu tố 
cộng đồng vẫn dừng ở hình thức. Chi hội nghề cá thiếu đi không gian quyền tự quản, 
không được đặt ở vị trí đối tác của chính quyền mà chỉ là “cánh tay” nối dài của chính 
quyền cấp xã *5+. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các chi hội nghề cá không 
phát huy được năng lực quản lý của mình, từ đó hoạt động đồng quản lý nghề cá ở 
đầm phá TG-CH thiếu hiệu quả. 
4. KẾT LUẬN 
Cơ chế quản lý thủy sản truyền thống ở đầm phá TG-CH mang nét đặc trưng 
riêng. Các làng nông nghiệp ở đất liền ven phá là các chủ thể được nhà nước ủy thác 
quản lý; các cộng đồng ngư dân là lực lượng lao động trực tiếp khai thác thủy sản để 
mưu sinh và chịu sự quản lý của các làng chủ quản. Quản lý truyền thống đầm phá 
chủ yếu dựa vào hai chủ thể cộng đồng làng và vạn nên có thể gọi đây là mô hình 
quản lý khai thác thủy sản đầm phá dựa vào làng - vạn. 
Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang  
204 
Quản lý thủy sản dựa vào làng vạn là mô hình quản lý đậm chất cộng đồng và 
đặc thù ở đầm phá TG-CH. Ở mô hình quản lý này yếu tố nhà nước rất mờ, yếu tố 
cộng đồng nổi bật: chủ thể làng và vạn có được một không gian tự quản rõ nét và hai 
chủ thể thể cộng đồng này phát huy được năng lực của mình để quản lý hiệu quả nghề 
thủy sản ở đầm phá TG-CH. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Nguyễn Quang Trung Tiến (1995). “Ngư nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, Nxb 
Thuận Hóa, Huế. 
[2]. Nguyễn Quang Vinh Bình (2009). Phát triển hệ thống chi hội nghề cá ở Thừa Thiên Huế 
gắn với chiến lược Đồng quản lý nghề cá, Báo cáo tham luận Hội nghị Đồng quản lý nghề cá 
quy mô nhỏ ở Việt Nam, Trang.218-225. 
[3]. Nguyễn Xuân Hồng (1997).Báo cáo về mối quan hệ giữa luật và lệ trong việc quản lý hệ 
sinh thái nhân văn vùng đầm phá Tam Giang – Thừa Thiên Huế, Báo cáo kết quả nghiên cứu 
giai đoạn 1 (1995-1997) của Dự án “Nghiên cứu quản lý nguồn lợi sinh học đầm phá Tam Giang- 
Cầu Hai. 
[4]. Takahashi, B and van Dujin, A. P. (2012). Operationalizing fisheries co-management: 
Lesson learned from lagoon fisheries co-management in Thua Thien Hue Province, 
Vietnam,FAP Regional Office for Asia and the Pacific, Bangkok, RAP Publication 2012/02. 
[5]. Tôn Thất Pháp, Mai Ngọc Châu (2017). Đồng quản lý thủy sản ở vùng phía Bắc đầm phá 
Tam Giang- Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế: Thực trạng và giải pháp thúc đẩy, Tạp chí Khoa 
học và Công nghệ, trường Đại học Khoa học- Đại học Huế, Tập 9, số 1 (2017), Trang. 159-172. 
[6]. Trần Mai Phượng (2009). “Các hình thức quản lý tài nguyên thiên nhiên vùng đầm phá 
Tam Giang - Cầu Hai tỉnh Thừa Thiên Huế”, Luận văn thạc sỹ khoa học lịch sử. 
[7]. Trần Đình Hằng (2006). “Làng xã truyền thống với việc quản lý mặt nước vùng đầm phá 
Tam Giang, Sông Hương”. Thông tin Khoa học, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại 
Huế, số tháng 3/2008, trang.23-44. 
[8]. Tưởng Phi Lai và cộng sự (2009). “Vai trò của vạn chài quản lý nghề cá truyền thống đề 
xuất hướng lồng ghép những giá trị của vạn chài trong quản lý nghề cá ven bờ ở Việt Nam 
trong bối cảnh Việt Nam”, Các bài báo cáo tham luận tại Hội nghị đồng quản lý nghề cá quy mô 
nhỏ tại Việt Nam, ngày 03/11/2009,  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 12, Số 2 (2018) 
205 
THE ROLE OF VILLAGES AND “VAN” IN TRADITIONAL FISHERY 
MANAGEMENT IN TAM GIANG - CAU HAI LAGOON, 
THUA THIEN HUE PROVINCE 
Ton That Phap1*, Nguyen Thi Kim Anh2, Mai Ngoc Chau3 
1Faculty of Biology, University of Sciences, Hue University 
2Center for Coastal Management and Development studies, 
University of Sciences, Hue University 
3Faculty of Environmental Science, University of Sciences, Hue University 
*Email: tonthatphap@gmail.com 
ABSTRACT 
The specific characteristics of the Tam Giang - Cau Hai lagoon in both human 
ecology and natural ecosystems have resulted in its distinctive and unique 
traditional fisheries management mechanism. The agricultural villages on land 
have been assigned by the local authorities to manage the lagoon fishing activities 
of fishing communities (vans). High community cohesion of villages and “vans” 
and effective cooperation in fisheries management between these two communities 
are key elements making up the management mechanism that could be labeled as 
village and van community-based lagoon fishery management. In this 
management model, the state’s part is inconsiderable rather than the community’s 
prominent role: the village and van possess a space for self-governance; and both 
communities have promoted their capacity to properly manage fisheries and 
preserve resources in the Tam Giang - Cau Hai lagoon. 
Keywords: community-based management, village, van, Tam Giang - Cau Hai 
lagoon. 
Vai trò của làng và vạn trong quản lý nghề khai thác thủy sản truyền thống ở đầm phá Tam Giang  
206 
Tôn Thất Pháp sinh ngày 10 tháng 12 năm 1955 tại thành phố Huế. Ông 
tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành Sinh học tại Trường Đại học Khoa học, 
Đại học Huế. Ông nhận học vị tiến sĩ chuyên ngành Thực vật học tại Đại 
học Quốc gia Hà nội năm 1993. Năm 2003, ông được phong hàm Phó giáo 
sư. Hiện nay ông đang công tác tại Trường Đại học Khoa học, Đại học 
Huế. 
Lĩnh vực nghiên cứu: Thực vật thủy sinh và Quản lý tài nguyên dựa vào 
cộng đồng. 
Mai Ngọc Châu sinh ngày 07/07/1991 tại Thừa Thiên Huế. Năm 2013, bà 
tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành Khoa học môi trường tại Trường Đại 
học Khoa học, Đại học Huế. Năm 2017, bà nhận bằng thạc sĩ chuyên 
ngành Khoa học Môi trường tại Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. 
Bà hiện đang công tác tại Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học, 
Đại học Huế. 
Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý tài nguyên và môi trường dựa vào cộng 
đồng. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_lang_va_van_trong_quan_ly_nghe_khai_thac_thuy_sa.pdf