Vai trò của cán bộ y tế trường học trong quản lý, chăm sóc sức khỏe học sinh
Đặt vấn đề: Đánh giá vai trò của cán bộ y tế trường học (CBYTTH) đối với việc chăm sóc sức khỏe học sinh
là vấn đề ưu tiên, quan trọng trong điều kiện nguồn lực cho công tác y tế trường học còn hạn chế mà tỉ lệ học
sinh mắc các vấn đề sức khỏe ngày càng gia tăng.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá vai trò của CBYTTH trong quản lý, chăm sóc sức khỏe học sinh tại thành
phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang năm 2017.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thông qua phỏng vấn sâu ban giám hiệu nhà trường,
giáo viên, CBYTTH, cán bộ trạm y tế (TYT) và thu thập thông tin từ sổ sách, hồ sơ quản lý, theo dõi sức khỏe học
sinh ở hai nhóm trường có và không có CBYTTH.
Kết quả: CBYTTH có vai trò quan trọng trong sơ cấp cứu, truyền thông giáo dục sức khỏe, tổ chức
khám/kiểm tra sức khỏe cho học sinh, triển khai các chương trình y tế, phong trào vệ sinh phòng bệnh tại trường.
Tỷ lệ bệnh răng miệng (41,4%), suy dinh dưỡng (36,3%), thừa cân (13,2%) ở trường không có CBYTTH cao
hơn so với trường có CBYTTH (27,4%, 13%; và 5,8%). CBYTTH giúp giảm tải công việc cho ban giám hiệu,
giáo viên trong việc quản lý và chăm sóc sức khỏe học sinh. Tuy nhiên, CBYTTH chưa thể hiện được vai trò
trong việc theo dõi sức khỏe của học sinh, hoàn thành các hồ sơ quản lý, theo dõi sức khỏe học sinh theo quy định.
Kết luận: CBYTTH đóng vai trò tích cực trong các hoạt động chăm sóc sức khỏe học sinh cũng như giảm
thiểu gánh nặng công việc cho ban giám hiệu, giáo viên. Cần tạo điều kiện thuận lợi để họ chịu trách nhiệm chính
và phát huy hiệu quả vai trò của mình
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của cán bộ y tế trường học trong quản lý, chăm sóc sức khỏe học sinh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 606 VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ Y TẾ TRƯỜNG HỌC TRONG QUẢN LÝ, CHĂM SÓC SỨC KHỎE HỌC SINH Dương Tiểu Phụng*, Nguyễn Lệ Huyền* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Đánh giá vai trò của cán bộ y tế trường học (CBYTTH) đối với việc chăm sóc sức khỏe học sinh là vấn đề ưu tiên, quan trọng trong điều kiện nguồn lực cho công tác y tế trường học còn hạn chế mà tỉ lệ học sinh mắc các vấn đề sức khỏe ngày càng gia tăng. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá vai trò của CBYTTH trong quản lý, chăm sóc sức khỏe học sinh tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang năm 2017. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thông qua phỏng vấn sâu ban giám hiệu nhà trường, giáo viên, CBYTTH, cán bộ trạm y tế (TYT) và thu thập thông tin từ sổ sách, hồ sơ quản lý, theo dõi sức khỏe học sinh ở hai nhóm trường có và không có CBYTTH. Kết quả: CBYTTH có vai trò quan trọng trong sơ cấp cứu, truyền thông giáo dục sức khỏe, tổ chức khám/kiểm tra sức khỏe cho học sinh, triển khai các chương trình y tế, phong trào vệ sinh phòng bệnh tại trường. Tỷ lệ bệnh răng miệng (41,4%), suy dinh dưỡng (36,3%), thừa cân (13,2%) ở trường không có CBYTTH cao hơn so với trường có CBYTTH (27,4%, 13%; và 5,8%). CBYTTH giúp giảm tải công việc cho ban giám hiệu, giáo viên trong việc quản lý và chăm sóc sức khỏe học sinh. Tuy nhiên, CBYTTH chưa thể hiện được vai trò trong việc theo dõi sức khỏe của học sinh, hoàn thành các hồ sơ quản lý, theo dõi sức khỏe học sinh theo quy định. Kết luận: CBYTTH đóng vai trò tích cực trong các hoạt động chăm sóc sức khỏe học sinh cũng như giảm thiểu gánh nặng công việc cho ban giám hiệu, giáo viên. Cần tạo điều kiện thuận lợi để họ chịu trách nhiệm chính và phát huy hiệu quả vai trò của mình Từ khóa: cán bộ y tế trường học, quản lý, chăm sóc, sức khỏe học sinh ABSTRACT ROLE OF SCHOOL HEALTHCARE WORKERS IN STUDENTS’ HEALTH CARE AND MANAGEMENT Duong Tieu Phung, Nguyen Le Huyen * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 606 – 614 Background: There is an increasing rate of health problems in students. Hence assessing the role of school health workers in the students’ health care is a priority and significant issue when considering the limited of school health resources. Objectives: Assessing the role of school health workers in management and health caring for students in Rach Gia, Kien Giang province in 2017. Methods: A cross-sectional study was conducted using in-depth interviews on school administrators, teachers, school health workers, medical station workers. Also, information about students' health in two school groups with and without school healthcare workers was collected from management documents and records. Results: Healthcare workers played a vital role in administering first aid; communication and education about health; organize health examination for students; implement health projects, and campaigns about diseases *Viện Y tế Công cộng Thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS. Dương Tiểu Phụng ĐT: 0903 747 548 Email: duongtieuphung@iph.org.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 607 prevention and hygiene in school. The prevalence of dental diseases (41.4%), malnutrition (36.3%) and overweight (13.2%) in schools without healthcare workers were higher than that of schools with them, those rates were 27.4%, 13%, and 5.8% respectively. School healthcare workers helped reduce the workload for administrators and teachers in caring and management students' health. However, they unable to prove their important role in monitoring students’ health and complete the records of management and monitoring for students' health according to regulations. Conclusion: School healthcare workers play a positive role in students’ health care activities as well as minimizing the work burden of school staffs. Facilitate favorable conditions will encourage them to undertake the main responsibility and effectively promote their role. Keywords: school nurse, management, care, student health ĐẶT VẤN ĐỀ Để triển khai các biện pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong độ tuổi đến trường một cách đầy đủ, vai trò của công tác y tế trường học (YTTH) rất cần thiết, quan trọng. Trong đó, CBYTTH có ảnh hưởng tích cực đối với việc quản lý, theo dõi, sàng lọc các vấn đề sức khỏe ở học sinh(1,3,5). Cán bộ y tế trường học (CBYTTH) còn có vai trò quan trọng trong việc làm giảm tỉ lệ học sinh vắng mặt tại trường do các vấn đề liên quan đến sức khỏe(7), giúp làm giảm thời gian nhân viên nhà trường dành cho hoạt động chăm sóc sức khỏe học sinh(6). Hiện nay, cán bộ y tế tại các trường học vẫn còn hạn chế về số lượng lẫn chất lượng. Theo báo cáo của Cục Y tế Dự phòng (YTDP), có 55,4% trường học không có CBYT, trong số các CBYTTH thì có 43% là kiêm nhiệm. Kiên Giang là một trong số các tỉnh có tỉ lệ trường không có CBYT cao nhất tại khu vực phía Nam với 37% trong năm học 2015-2016. Trong đó, thành phố Rạch Giá là một trong hai khu vực có tỉ lệ trường không có CBYT chiếm tỉ lệ cao nhất. Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu về vai trò, tác động của CBYTTH đối với công tác chăm sóc sức khỏe học sinh. Thiếu bằng chứng cho thấy vai trò, ảnh hưởng của CBYTTH trong công tác chăm sóc sức khỏe học sinh là vấn đề đáng quan tâm trong tình hình kinh phí dành cho hoạt động YTTH còn hạn chế mà tỉ lệ trẻ mắc các vấn đề sức khỏe ngày càng gia tăng. Vì thế, nghiên cứu được tiến hành để đánh giá vai trò của CBYTTH trong chăm sóc, quản lý các vấn đề sức khỏe ở học sinh; đây được xem là một trong các chỉ số chuyên biệt để đánh giá hiệu quả của CBYTTH đối với việc bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe học sinh. Từ đó cung cấp bằng chứng, thông tin cho việc đưa ra các chính sách về nhân sự cho hoạt động y tế trường học, đặc biệt là cán bộ y tế ... và tỷ lệ bệnh tật của học sinh CBYTTH có vai trò quan trọng trong việc giảm tải công việc cho ban giám hiệu, giáo viên trong quản lý, chăm sóc sức khỏe học sinh. Khi có cán bộ y tế thì ban giám hiệu, giáo viên có nhiều thời gian hơn, yên tâm hơn để thực hiện công tác chuyên môn giảng dạy của mình. “Nếu có trường hợp học sinh bị nặng thì CBYTTH sẽ hỗ trợ nên giáo viên không bị gián đoạn công việc giảng dạy” (Giáo viên). Bảng 3: Tỉ lệ các bệnh tật ở học sinh giữa trường có và không có CBYTTH Bệnh tật Tỉ lệ các bệnh tật Có CBYTTH (n=4) Trung vị (nhỏ nhất - lớn nhất) Không có CBYTTH (n=4) Trung vị (nhỏ nhất - lớn nhất) Bệnh về răng miệng 26,5 (5 – 47,9) 44,3 (6,2 – 82,4) Suy dinh dưỡng 11,5 (0 – 23) 36,3 (0 – 72,5) Thừa cân, béo phì 6,3 (1,4 – 11,2) 17,6 (1,1 – 35,2) Cận thị 17,2 (3,3 – 31) 10,7 (0 – 21,3) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 611 Tỉ lệ học sinh mắc các bệnh răng miệng, suy dinh dưỡng, thừa cân, béo phì tại các trường không CBYTTH cao hơn tại các trường có CBYTTH, với các tỉ lệ lần lượt là 44,3%, 36,3% và 17,6% so với 26,5%, 11,5% và 6,3%. Tỉ lệ cận thị ở trường có CBYTTH (17,2%) cao hơn ở các trường không có CBYTTH (10,7%). Hầu hết các trường (3/4 trường) và cán bộ TYT đều cho rằng CBYTTH giúp cải thiện sức khỏe học sinh. “CBYTTH rất quan trọng với học sinh, mà còn cả giáo viên; giúp cải thiện sức khỏe cho cả học sinh và giáo viên” (Giáo viên). “Theo số liệu về học sinh bị bệnh, thì tỷ lệ học sinh mắc bệnh ít hơn ở các trường có cán bộ y tế, do trường có y tế thì tuyên truyền và phòng bệnh được tốt hơn” (Cán bộ TYT). Sự cần thiết có cán bộ y tế tại các trường học 8/8 trường cho rằng cần phải có CBYTTH. Nguyên nhân các trường cần có CBYTTH chủ yếu là do CBYTTH là người có vai trò quan trọng trong việc xử trí kịp thời, hiệu quả các trường hợp sơ cấp cứu, xử trí ban đầu ở học sinh; giúp phát hiện sớm các ca bệnh khi có vụ dịch xảy ra; giáo dục sức khỏe cho học sinh cũng như phụ huynh chính xác, cụ thể hơn so với giáo viên. “... Giáo viên dù có biết nhưng không thể sát sao, ví dụ như y tế nhìn vô thì có thể phát hiện được...” (PHT trường có CBYTH). Đối với các trường không có CBYTTH, nguyên nhân các trường không có CBYTTH là do không có biên chế cho CBYTTH, không thuê được người vì CBYTTH được trả lương thấp. “...lương quá thấp nên họ cũng không thiết tha là gì, nên năm nay họ không làm nữa” (HT trường không CBYTTH). BÀN LUẬN Sự khác biệt giữa trường có và không có CBYTTH về quản lý, chăm sóc sức khỏe học sinh Tổ chức khám sức khỏe/kiểm tra sức khỏe định kỳ Có 3/8 trường (37,5%) có tổ chức khám sức khỏe cho học sinh. Kết quả này thấp hơn so với báo cáo tổng kết kết năm 2015 của Cục YTDP với 69,7% các trường tổ chức khám cho học sinh, và nghiên cứu của T.N.V.Như và D.T.Phỉ tại tỉnh Khánh Hòa năm học 2012-2013 (77%)(8). Điều này được lý giải là do thực hiện theo thông tư 13/2016, các trường có CBYTTH với trình độ đảm bảo chuyên môn theo quy định thì CBYTTH có thể tự thực hiện kiểm tra sức khỏe học sinh, do đây là thời gian đầu thực hiện theo thông tư nên các trường còn thiếu sự chủ động trong việc bố trí nguồn nhân lực khám cho các em khi không còn sự hỗ trợ nhiều từ phía TYT và Trung tâm Y tế. Bên cạnh đó, sự hạn chế về kinh phí và tuyển dụng đã dẫn đến việc các trường không thể bố trí trí CBYTTH chuyên trách nên gây khó khăn cho công tác khám, kiểm tra sức khỏe học. Trong số các trường có tổ chức khám sức khỏe học sinh, vai trò của CBYTTH thể hiện rõ ràng hơn. Trường có CBYTTH thì có sự chủ động liên hệ với trung tâm y tế/TYT trong việc phối hợp thực hiện hoạt động này, số trường có khám sức khỏe học sinh cũng nhiều hơn. Theo dõi sức khỏe học sinh Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt rõ ràng giữa hai nhóm trường có và không có CBYTTH. Việc lập hồ sơ theo dõi sức khỏe học sinh còn nhiều bất cập. Phần lớn các hồ sơ thiếu thông tin về tiểu sử bệnh, huyết áp, nhịp tim, đánh giá thị lực. Ngoại trừ các trường mầm non, hầu hết các trường chưa đánh giá tình trạng dinh dưỡng của học sinh. Các tài liệu được lưu giữ chỉ mang tính chất đối phó khi phần lớn các sổ theo dõi sức khỏe học sinh ghi chép còn khá sơ sài. Đồng thời, việc thiếu nhân lực làm việc tại các trường không có CBYTTH khiến hoạt động này chưa hiệu quả. Điều này có thể dẫn đến việc thiếu cập nhật tình hình sức khỏe học sinh nói chung và phát hiện bệnh tật của các em nói riêng. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy các trường không biết được là các em có được khám và điều trị chuyên khoa hay không. Các trường chỉ có thông báo, tư vấn về việc Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 612 khám chuyên khoa khi phát hiện học sinh có vấn đề sức khỏe cho phụ huynh. Phụ huynh cũng không phản hồi cho nhà trường biết về việc các em đã được đi khám chuyên khoa và kết quả như thế nào. Điều này cho thấy sự phối hợp giữa nhà trường và phụ huynh trong việc khám điều trị chuyên khoa cho học sinh còn chưa chặt chẽ. Không có sự khác biệt về việc theo dõi bệnh ở học sinh giữa trường có và không CBYTTH. Tại các trường, việc theo dõi bệnh ở học sinh chủ yếu là do giáo viên chủ nhiệm hoặc giáo viên bộ môn theo dõi. Điều này cho thấy CBYTTH chưa phát huy được vai trò của mình trong công tác theo dõi bệnh ở học sinh, giúp phát hiện sớm các trường hợp nhiễm bệnh, báo cho y tế địa phương để có các biện pháp xử trí kịp thời, liên hệ chặt chẽ với phụ huynh nhằm giám sát, theo dõi bệnh truyền nhiễm ở học sinh. Mặc dù giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn chủ yếu là người theo dõi bệnh truyền nhiễm ở học sinh, nhưng theo nhận định của ban giám hiệu thì có CBYTTH đảm nhận công việc này sẽ tốt hơn vì họ có chuyên môn nên sẽ giúp phát hiện sớm bệnh ở học sinh. Cán bộ TYT cũng nhận định rằng CBYTTH giúp phát hiện dịch bệnh nhạy và sớm hơn. Thật vậy, nếu CBYTTH thực hiện, phát huy được hết vai trò của mình thì họ có ảnh hưởng tích cực, cũng như có vai trò rất quan trọng trong công tác phát hiện sớm, theo dõi bệnh ở học sinh nói chung, bệnh truyền nhiễm nói riêng(1,3,5). Sơ cấp cứu, xử trí ban đầu Tất cả các trường có CBYTTH đều có hồ sơ ghi nhận việc sơ cấp cứu, xử trí ban đầu cho học sinh. CBYTTH được đánh giá là thực hiện tốt công tác này. CBYTTH có chuyên môn sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc giúp học sinh giảm thiểu những hậu quả không may xảy ra. Kết quả phù hợp với nghiên cứu tại New Zealand, nghiên cứu này cũng chỉ rõ sự cần thiết có mặt của CBYTTH đối với hoạt động này. Với các trường không CBYTTH, việc sơ cấp cứu gặp nhiều khó khăn vì giáo viên không đủ chuyên môn. Các trường e ngại giáo viên không đủ chuyên môn thì khi xử trí có thể ảnh hưởng đến các em, tình huống không may có thể xảy ra, khi đó nhà trường sẽ phải chịu trách nhiệm, không chỉ mất uy tín của nhà trường mà còn làm phụ huynh lo lắng, ảnh hưởng đến sức khỏe của các em. Thật vậy, một trong các yếu tố quan trọng đối với hoạt động sơ cứu, xử trí ban đầu trong trường học là chuyên môn của người xử trí. Chỉ khi được sơ cứu, xử trí ban đầu đúng thì mới phát huy được vai trò, tác dụng của công tác sơ cấp cứu, nhằm giúp phòng tránh, hạn chế ảnh hưởng của chấn thương hay bệnh tật. Ngoài ra, không có CBYTTH thì việc sơ cấp cứu còn làm ảnh hưởng đến công tác chuyên môn, gây quá tải công việc cho giáo viên. Tổ chức triển khai các chương trình y tế, phong trào vệ sinh phòng bệnh tại trường Tất cả các trường có và không có CBYTTH đều thực hiện các chương trình y tế, phong trào vệ sinh phòng bệnh. Tuy nhiên, theo nhận định của các TYT thì có sự khác biệt về việc thực hiện các hoạt động này giữa trường có và không có CBYTTH. Các trường có CBYTTH thường chủ động hơn trong việc phối hợp với TYT và TYT dễ dàng phối hợp hơn trong việc thực hiện các chương trình y tế. Đồng thời, theo đánh giá của cán bộ TYT, việc thực hiện các chương trình này cũng hiệu quả hơn so với trường không có CBYTTH. Tỉ lệ học sinh được tiêm chủng ở trường có CBYTTH cao hơn trường không có y tế. CBYTTH có vai trò tích cực đối với việc cải thiện tỉ lệ tiêm chủng ở học sinh. Một nghiên cứu dựa trên bằng chứng nhằm đánh giá vai trò của CBYTTH trong các trường học cũng chỉ ra rằng cán bộ y tế có vai trò thúc đẩy tăng tỷ lệ tiêm chủng của học sinh(1). Nghiên cứu cho thấy việc thúc đẩy gia tăng tỉ lệ tiêm chủng ở học sinh thông qua hoạt động kiểm tra sức khoẻ của học sinh khi nhập học để theo dõi thường xuyên việc tiêm chủng ở trẻ. Ngoài việc cung cấp các tài liệu liên quan đến việc tiêm chủng, thì phụ huynh của các học sinh cũng nhận được sự tư vấn, nhắc nhở từ phía CBYTTH. Chính sự can thiệp này đã làm cải thiện đáng kể tỷ lệ tiêm chủng ở học sinh. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 613 Truyền thông, giáo dục sức khỏe cho học sinh Có sự khác biệt về hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe cho học sinh giữa trường có và không có CBYTTH. Theo nhận định của các TYT, khi các trường có CBYTTH thì nhà trường thường chủ động hơn và TYT dễ dàng phối hợp, thực hiện công tác truyền thông giáo dục sức khỏe cho học sinh được tốt hơn, giúp giảm tải công việc cho TYT. Bên cạnh đó, theo nhận định của giáo viên và cán bộ TYT thì công tác truyền thông giáo dục sức khỏe ở trường có cán bộ y tế tốt hơn, vì CBYTTH nắm chuyên môn về y tế tốt hơn so với giáo viên. Ngoài ra, CBYTTH cũng là người tham mưu cho hiệu trưởng trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục sức khỏe, chủ động xây dựng kế hoạch phối hợp cán bộ TYT, phòng y tế tổ chức các buổi truyền thông giáo dục sức khỏe. CBYTTH đã góp phần hỗ trợ cải thiện các vấn đề sức khỏe thông qua các hoạt động giáo dục sức khoẻ, truyền thông thay đổi hành vi cho các em ở lứa tuổi học đường(2). Vai trò của CBYTTH đối với việc giảm tải công việc cho cán bộ nhà trường trong quản lý và chăm sóc sức khỏe học sinh; giúp cải thiện sức khỏe học sinh CBYTTH có vai trò quan trọng trong việc giảm tải công việc cho nhân viên nhà trường. Không có CBYTTH thì khi học sinh có vấn đề sức khỏe cần xử trí thì giáo viên phải bỏ dở việc giảng dạy của mình để sơ cứu cho các em. Một nghiên cứu tại 11 trường tiểu học và trung học cơ sở Mỹ cho thấy các giáo viên đã giảm được 20 phút mỗi ngày để giải quyết các vấn đề sức khỏe ở học sinh khi có CBYTTH(6). Tương tự, nghiên cứu tại North Carolina cũng chỉ ra CBYTTH giúp làm giảm thời gian mà các giáo viên dành cho các hoạt động chăm sóc sức khỏe học sinh(4). Một nghiên cứu dựa trên bằng chứng về giá trị của CBYTTH cũng cho thấy tổng thời gian mà các nhân viên trường học tiết kiệm được là khoảng 13 giờ nhờ có CBYTTH giúp họ giải quyết các vấn đề sức khỏe học sinh(1). Hầu hết các trường, cán bộ TYT đều cho rằng CBYTTH giúp cải thiện sức khỏe học sinh. Các trường có CBYT thì tỉ lệ học sinh mắc bệnh ít hơn trường không có CBYT. Nghiên cứu của Cameron cũng cho thấy CBYTTH đã góp phần hỗ trợ cải thiện các vấn đề sức khỏe học sinh thông qua các chương trình truyền thông thay đổi hành vi cho các em ở lứa tuổi học đường(2). KẾT LUẬN CBYTTH có vai trò tích cực trong sơ cấp cứu, truyền thông giáo dục sức khỏe, tổ chức khám/kiểm tra sức khỏe học sinh, thực hiện các chương trình y tế, phong trào vệ sinh phòng bệnh, giúp cải thiện sức khỏe học sinh và giúp giảm tải công việc cho ban giám hiệu, giáo viên trong việc quản lý và chăm sóc sức khỏe học sinh. CBYTTH chưa thể hiện được vai trò trong việc theo dõi sức khỏe của học sinh, hoàn thành các hồ sơ theo dõi sức khỏe học sinh theo quy định. Do đó, cần tập huấn, phổ biến cho CBYTTH, lãnh đạo nhà trường về nhiệm vụ của người CBYTTH. Lãnh đạo nhà trường cần phân công công việc hợp lý, rõ ràng, quản lý, giám sát, tạo điều kiện để CBYTTH chịu trách nhiệm chính và phát huy được hết vai trò của mình trong công tác chăm sóc, nâng cao sức khỏe học sinh. Kiện toàn số lượng CBYTTH chuyên trách làm việc tại các trường học cần được lưu tâm hơn khi sự có mặt của họ có ảnh hưởng đến hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Baisch MJ, et al (2011). Evidence-based research on the value of school nurses in an urban school system. J Sch Health, 81(2):74- 80. 2. Cameron R, Brown S, Best JA, et al (1999). Effectiveness of a social influences smoking prevention program as a function of provider type, training method, and school risk. American Journal of Public Health, 89(12):1827-31 3. Eunice Rodrigue RD (2013). School Nurses' Role in Asthma Management, School Absenteeism, and Cost Savings: A Demonstration Project. Journal of School Health, 83(12):842-50. 4. Hill NJ, et al (2012). Teacher time spent on student health issues and school nurse presence. J Sch Nurse, 28(3):181-186. 5. Kemper AR, Talbot J, et al (2012). Outcomes of an elementary school-based vision screening program in North Carolina. J Sch Nurs, 28(1):24-30. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 614 6. Wang LY, Vernon-Smiley M, et al (2014). Cost-Benefit Study of School Nursing Services. JAMA Pediatrics 168(7):642-8. 7. Telljohann SK, Dake JA, et al (2004). Effect of fulltime versus part-time school nurses on attendance of elementary students with asthma. Journal of School Nursing, 20:331-4. 8. Trần Nguyễn Vân Như, Dương Trọng Phỉ (2014). Thực trạng công tác quản lý chăm sóc sức khỏe học sinh trong trường học tại tỉnh Khánh Hòa năm học 2012-2013. Y Học Thành phố Hồ Chí Minh, 18(S6):. Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
File đính kèm:
- vai_tro_cua_can_bo_y_te_truong_hoc_trong_quan_ly_cham_soc_su.pdf